Tư cách tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra

   Bàn về tư cách tham gia tố tụng của Doanh nghiệp bảo hiểm trong việc giải quyết vụ án hình sự Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự

 
Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là một nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự, chi phối toàn bộ quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với vụ án có vấn đề dân sự phát sinh khi hành vi tội phạm xảy ra. Tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:“Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự…”, vì vậy ngoài việc phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm hình sự, các Cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh và giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong vụ án. Điều này không những có tác dụng giải quyết triệt để, khách quan những quan hệ dân sự phát sinh việc thực hiện tội phạm mà còn góp phần làm sáng tỏ những nội dung thuộc trách nhiệm hình sự của người phạm tội trong việc định tội danh, định khung hình phạt, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Trong quá trình giải quyết vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, ngoài xử lý hình sự thì người phạm tội còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại hoặc những người tham gia tố tụng khác như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.      

 
Căn cứ để xem xét trách nhiệm bồi thường trong các vụ án về tham gia giao thông đường bộ được xác định theo trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, được quy định tại Chương XX Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy những vấn đề phát sinh bồi thường dân sự trong vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ phải căn cứ vào các Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 589, Điều 590, Điều 591 Bộ luật Dân sự để giải quyết.
 
Ngày 15/01/2021 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 03/2021/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (sau đây gọi tắt là Nghị định số 03), thay thế Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP ngày 20/12/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 103/2008/NĐ-CP ngày 16/9/2008 của Chính phủ. Theo đó chủ xe cơ giới bắt buộc phải có bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
 
Tại Điều 14 của Nghị định số 03 quy định về bồi thường bảo hiểm: “Khi tai nạn xảy ra, trong phạm vi mức trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho người được bảo hiểm số tiền mà người được bảo hiểm đã bồi thường hoặc sẽ phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của bên mua bảo hiểm, người được Bảo hiểm về vụ tai nạn, doanh nghiệp bảo hiểm phải tạm ứng bồi thường đối với thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, cụ thể: Trường hợp đã xác định được vụ tai nạn thuộc phạm vi bồi thường thiệt hại: 70% mức bồi thường bảo hiểm theo quy định/1 người/1 vụ đối với trường hợp tử vong…”.
 
Vấn đề đặt ra là trong quá trình giải quyết vụ án “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, trong trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự, thì việc xác định tư cách tham gia tố tụng của Doanh nghiệp bảo hiểm phải được đặt ra.
 
Ví dụ: Lý Văn T đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho xe mô tô của T với Doanh nghiệp bảo hiểm A. Ngày 02/3/2021, T có hành vi điều khiển xe mô tô của T tham gia giao thông đường bộ, do không nhường đường cho người đi bộ, vi phạm khoản 4 Điều 11 Luật Giao thông đường bộ, đã gây tai nạn với người đi bộ là bà Nguyễn Thị N, hậu quả bà N chết. T bị khởi tố điều tra, gia đình bị hại N yêu cầu T phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trên, do T không có điều kiện về kinh tế để bồi thường cho gia đình bị hại N, nên đã yêu cầu Cơ quan tiến hành tố tụng phải đưa Doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu Doanh nghiệp bảo hiểm A bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại N, vì sau khi gây tai nạn T đã thông báo cho Doanh nghiệp bảo hiểm A. Giải quyết yêu cầu của T có hai quan điểm như sau:
 
- Quan điểm 1: Cơ quan tiến hành tố tụng phải chấp nhận yêu của của bị can T, đưa Doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại khi xét xử.
 
- Quan điểm 2: Cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu của của bị can T về việc đưa Doanh nghiệp bảo hiểm A vào tham gia tố tụng trong vụ án.
 
Trong thực tiễn từ trước đến nay khi giải quyết vụ án về “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, các Cơ quan tiến hành tố tụng không đưa Doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc không đưa Doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng là không đảm bảo quyền và lợi ích của chủ phương tiện; quyền và nghĩa vụ của các Doanh nghiệp bảo hiểm.
 
Để giải quyết triệt để vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như đã phân tích trên, thì các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bắt buộc phải đưa Doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan như quan điểm 1. Từ ví dụ trên cho thấy: Bị can T đã mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho xe mô tô của T với Doanh nghiệp bảo hiểm A. Do vậy khi T gây tai nạn làm thiệt hại đến tính mạng của người khác thì Doanh nghiệp bảo hiểm A phải có trách nhiệm bồi thường, chi trả tiền cho gia đình bị hại N theo khoản 1 Điều 5 Nghị định số 03, quy định về Phạm vi bồi thường thiệt hại “Thiệt hại ngoài hợp đồng về sức khỏe, tính mạng và tài sản đối với bên thứ ba do xe cơ giới gây ra”. Trừ trường hợp quy định tại Điều 13 của Nghị định số 03, quy định về loại trừ trách nhiệm bảo hiểm “Doanh nghiệp bảo hiểm không bồi thường thiệt hại đối với các trường hợp sau: 1. Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe cơ giới, người lái xe hoặc người bị thiệt hại…”.  
 
Căn cứ vào mức trách nhiệm bảo hiểm mà bị can T mua, nếu Doanh nghiệp bảo hiểm A chi trả không đủ các chi phí hợp lý theo yêu cầu của gia đình bị hại N, thì bị can T phải có trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu đó cho gia đình bị hại N. Theo quy định tại Nghị định số 03 thì Doanh nghiệp bảo hiểm A phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục, thời hạn để thực hiện việc chi trả cho gia đình bị hại N, cụ thể trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo của T, Doanh nghiệp bảo hiểm A phải tạm ứng 70% mức bồi thường bảo hiểm cho gia đình bị hại N… Nếu Doanh nghiệp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng là vi phạm quy định của pháp luật. Tuy nhiên Doanh nghiệp bảo hiểm A chỉ thanh toán bồi thường cho gia đình bị hại N căn cứ theo mức trách nhiệm bảo hiểm mà bị can T mua, được xác  định theo Bảng quy định trả tiền bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tính mạng theo quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 03. Trường hợp Tòa án quyết định mức bồi thường cao hơn quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định số 03, thì Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kháng cáo phần quyết định đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp.
 
Từ những phân tích trên, đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Tuyên Quang cần có chỉ đạo, thống nhất trong việc đưa các Doanh nghiệp bảo hiểm vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với các vụ án Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, để việc giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nhiệp bảo hiểm.
 

                                                                 Nguyễn Thúy Vân - VKSND tỉnh

Các hoạt động tố tụng người làm chứng tham gia theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Trong tố tụng hình sự, người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án, nhưng không phải là người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án nên lời khai của người làm chứng thường phản ánh trung thực, khách quan, có ý nghĩa trong việc xác định sự thật của vụ án. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người làm chứng có nghĩa vụ tham gia một số hoạt động tố tụng trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Quá trình người làm chứng tham gia các hoạt động tố tụng hình sự, người có thẩm quyền tiến hành điều tra phải tuân thủ trình tự, thủ tục tố tụng do luật định, đảm bảo các quyền của người làm chứng theo quy định tại khoản 3 Điều 66 BLTTHS năm 2015. Xuất phát từ việc trình bày trung thực những tình tiết mà mình biết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án là nghĩa vụ của người làm chứng nên quá trình tham gia các hoạt động tố tụng, người làm chứng đều được người có thẩm quyền tố tụng giải thích về trường hợp họ khai báo gian dối hoặc từ chối khai báo, trốn tránh việc khai báo mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Theo BLTTHS năm 2015, các hoạt động tố tụng người làm chứng tham gia như sau:

Thứ nhất, tham gia hoạt động khám nghiệm hiện trường.

Trong nhiều trường hợp, sự tham gia của người làm chứng trong hoạt động khám nghiệm hiện trường là một nguồn cung cấp các thông tin giúp Điều tra viên (ĐTV) đánh giá tình trạng hiện trường còn nguyên vẹn hay đã bị thay đổi, những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi, các hoạt động tạo nên các dấu vết ở hiện trường, phạm vi hiện trường… Khi khám nghiệm hiện trường, ĐTV cho người làm chứng tham gia trong trường hợp họ đã trực tiếp có mặt tại hiện trường, đủ điều kiện quan sát các hành vi của người có liên quan và sự vật, sự việc… tại thời điểm tội phạm xảy ra. Chính vì vậy mà sự tham gia của người làm chứng giúp cho người trực tiếp tiến hành khám nghiệm chủ động nắm tình hình về hiện trường, đánh giá tình trạng hiện trường, hình dung được rõ ràng hơn về hiện trường để từ đó có nhận định đúng đắn, phương pháp khám nghiệm phù hợp, đảm bảo thu thập được tất cả các dấu vết liên quan.

Quá trình người làm chứng tham gia khám nghiệm hiện trường, cần phân biệt rõ với sự tham gia của người chứng kiến. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có quy định bổ sung người chứng kiến là người tham gia tố tụng và khi khám nghiệm hiện trường bắt buộc phải có người chứng kiến. Người chứng kiến được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu chứng kiến việc tiến hành khám nghiệm hiện trường. Từ đó cho thấy, vai trò của người chứng kiến và người làm chứng khi tham gia khám nghiệm hiện trường là khác nhau. Trong khi người chứng kiến tham gia khám nghiệm hiện trường có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà ĐTV đã làm thì người làm chứng tham gia và có nghĩa vụ trình bày những gì họ biết.

Thứ hai, hoạt động lấy lời khai người làm chứng.

Lấy lời khai của người làm chứng là một trong những hoạt động thu thập chứng cứ phổ biến của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết về nguồn tin về tội phạm, về vụ án, nhân thân của người bị buộc tội, bị hại, quan hệ giữa họ với người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng khác... Điều đó cho thấy, lời khai của người làm chứng có thể cung cấp nhiều thông tin khác nhau như các tình tiết của sự kiện pháp lý, nhân thân của người bị buộc tội, nhân thân bị hại… Người tiến hành tố tụng phải có sự kiểm tra, đánh giá các thông tin đó để xác định thông tin nào có thể là chứng cứ của vụ án hình sự, bởi lẽ chỉ những thông tin từ lời khai của người làm chứng đảm bảo các thuộc tính của chứng cứ bao gồm tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp thì mới trở thành chứng cứ của vụ án hình sự; không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó. Việc xác định lý do biết được tình tiết liên quan của người làm chứng chính là xác định nguồn gốc lời khai của người làm chứng, từ đó có biện pháp kiểm tra, đánh giá chứng cứ một cách hợp lý.

Việc lấy lời khai của người làm chứng được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi cư trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của người đó. Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc, trao đổi với nhau trong thời gian lấy lời khai. Trước khi lấy lời khai, ĐTV phải giải thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định và ghi vào biên bản. Trước khi hỏi về nội dung vụ án, ĐTV phải hỏi về mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị hại và những tình tiết khác về nhân thân của người làm chứng; yêu cầu người làm chứng trình bày trung thực, tự nguyện những gì họ biết về vụ án. Trường hợp xét thấy việc lấy lời khai của ĐTV không khách quan hoặc có vi phạm pháp luật hoặc xét thấy cần làm rõ chứng cứ, tài liệu để quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra hoặc để quyết định việc truy tố thì Kiểm sát viên có thể lấy lời khai người làm chứng. Việc lấy lời khai người làm chứng phải được lập biên bản theo quy định, có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Ngoài cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai người làm chứng để thu thập chứng cứ, người bào chữa cũng có thể gặp người làm chứng để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án.

Thứ ba, tham gia hoạt động đối chất.

Căn cứ khoản 2 Điều 189 BLTTHS năm 2015, đối chất có thể được tiến hành giữa người làm chứng với những người có tư cách là người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự khác mà trước đó họ có đã lời khai theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Như vậy, việc đối chất có sự tham gia của người làm chứng có thể được tiến hành giữa người làm chứng với bị can, người làm chứng với bị hại hoặc giữa những người làm chứng với nhau.

Trước khi đối chất, ĐTV phải giải thích cho người làm chứng biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này phải ghi vào biên bản. Bởi vì người làm chứng có thể có tâm lý ngại khai báo, hoặc chịu sức ép do có mối quan hệ với người liên quan đến vụ án hoặc sự đe doạ từ phía những người thực hiện tội phạm, sợ bị liên lụy mà trốn tránh khai báo nên trong quá trình tham gia đối chất đưa ra những thông tin sai sự thật hoặc chung chung, không rõ ràng.

Khi tham gia đối chất, người làm chứng được hỏi về mối quan hệ giữa người làm chứng với những người tham gia đối chất, về những tình tiết cần làm sáng tỏ bao gồm những tình tiết mà họ biết được về nguồn tin tội phạm, về vụ án hình sự. Sau khi nghe đối chất, ĐTV có thể hỏi thêm người làm chứng về những tình tiết đó. Trong quá trình đối chất, người làm chứng và những người tham gia đối chất có thể hỏi lẫn nhau; câu hỏi và trả lời đều được ghi vào biên bản.

Thứ tư, tham gia hoạt động nhận dạng.

Khi cần thiết, người làm chứng sẽ được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đưa người, ảnh hoặc vật để người làm chứng quan sát, từ đó xác định có hay không có người, vật mà họ đã nhìn thấy trước đó. Người làm chứng tham gia nhận dạng sẽ trải qua quá trình hồi tưởng, tái hiện, nhớ lại, nhận lại đối tượng mà họ đã tri giác, ghi nhớ trước đây khi đối tượng đó xuất hiện và nhận ra được đối tượng này. Hoạt động nhận dạng của người làm chứng là sự truy nguyên về người hoặc vật, góp phần vào việc xác định tính chất vụ án, tìm ra người thực hiện tội phạm, bị hại, vật chứng của vụ án hoặc tung tích nạn nhân.

Trước khi tiến hành nhận dạng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải giải thích cho người làm chứng biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Người làm chứng được hỏi về những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được. Sau khi người làm chứng đã xác nhận một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì phải giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật hay ảnh đó.

Thứ năm, tham gia hoạt động nhận biết giọng nói.

Trong trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể cho người làm chứng nhận biết giọng nói. Khi tham gia hoạt động nhận biết giọng nói, người làm chứng sẽ trải qua quá trình hồi tưởng, tái hiện, nhớ lại giọng nói mà họ đã nghe thấy và khẳng định có phải là giọng nói mà khi nhận dạng họ được nghe lại hay không. Cũng giống như nhận dạng, kết quả hoạt động nhận biết giọng nói có sự tham gia của người làm chứng có vai trò quan trọng trong truy nguyên đối tượng thực hiện tội phạm hoặc bị hại, góp phần giải quyết vụ án khách quan.

Trước khi tiến hành nhận biết giọng nói, ĐTV phải giải thích cho họ biết trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối. Người làm chứng được hỏi trước về những đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận biết được giọng nói. Sau khi người làm chứng đã xác nhận được giọng nói trong số giọng nói được đưa ra thì phải giải thích là họ đã căn cứ vào đặc điểm gì mà xác nhận giọng nói đó.

Thứ sáu, tham gia phiên tòa xét xử.

Người làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Căn cứ vào nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói, Tòa án phải xét xử khi có mặt người làm chứng và khi đã được triệu tập, người làm chứng phải có mặt tại phiên tòa, dù trước đó họ đã khai ở Cơ quan điều tra. Sự có mặt của người làm chứng bảo đảm cho việc xác minh trực tiếp, công khai chứng cứ. Trong thực tế, nhiều trường hợp Tòa án cần hỏi thêm người làm chứng về những tình tiết của vụ án; bị cáo, bị hại, người bào chữa,... cũng có thể phản đối lời khai của người làm chứng, nên người làm chứng phải có mặt tại phiên tòa để giải thích thêm về những lời khai của mình.

Trường hợp người làm chứng vắng mặt thì tùy trường hợp mà Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử hay hoãn phiên tòa. Nếu người làm chứng về các vấn đề không quan trọng (như lời khai của họ chỉ là chứng cứ gián tiếp trong khi đã có các chứng cứ trực tiếp khác về tình tiết được làm chứng, họ chỉ biết về các vấn đề không liên quan đến tình tiết định tội, định khung...) vắng mặt và trước đó họ đã có lời khai thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử và trong giai đoạn xét hỏi, Chủ tọa phiên tòa công bố những lời khai đó. Nếu người làm chứng về các vấn đề quan trọng vắng mặt liên quan đến việc bị cáo có tội hay không có tội, tội gì, khung hình phạt ra sao nhưng sự vắng mặt đó không trở ngại cho việc xét xử vì họ đã có lời khai đầy đủ, rõ ràng, ổn định trước đó hoặc về tình tiết làm chứng đã có những người làm chứng khác biết được và những người đó có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành phiên tòa, lời khai của người làm chứng vắng mặt được chủ tọa phiên tòa công bố trong quá trình xét hỏi. Nếu người làm chứng về các vấn đề quan trọng vắng mặt và sự vắng mặt đó trở ngại cho việc xét xử, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án (như họ là người làm chứng duy nhất, trong giai đoạn điều tra lời khai của họ thiếu nhất quán, lời khai của họ mâu thuẫn với lời khai của người tham gia tố tụng khác về cùng tình tiết của vụ án...) thì Hội đồng xét xử tùy theo trường hợp cụ thể mà quyết định dẫn giải người làm chứng hoặc hoãn phiên tòa.

Tại phiên tòa, việc hỏi phải được tiến hành riêng đối với từng người làm chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó. Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên tòa yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết của vụ án mà họ đã biết, sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người làm chứng. Khi được chủ tọa phiên tòa đồng ý, bị cáo có thể hỏi người làm chứng về các vấn đề có liên quan đến bị cáo. Trường hợp cần thiết, Tòa án có thể hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông.

Một số đề xuất, kiến nghị

Từ những phân tích về hoạt động tố tụng hình sự có sự tham gia của người làm chứng như trên, tác giả đề xuất, kiến nghị như sau:

Thứ nhất, cần có cơ chế bảo vệ người làm chứng trong quá trình tham gia đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói.

Trong quá trình tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 quy định người làm chứng có quyền yêu cầu cơ quan triệu tập bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ và người thân thích của họ khi bị đe dọa. Một số nội dung về bảo vệ người làm chứng cũng được quy định khi người làm chứng tham gia các hoạt động tố tụng cụ thể như lấy lời khai, tham gia phiên tòa xét xử (lấy lời khai riêng; hỏi người làm chứng qua mạng máy tính, mạng viễn thông…). Tuy nhiên, với các hoạt động tố tụng như đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói thì việc bảo vệ người làm chứng khi tham gia các hoạt động này còn hạn chế. Trên cơ sở bảo vệ người làm chứng tránh khỏi tâm lý lo sợ bị can biết việc mình làm chứng dẫn đến bị trả thù, tác giả đề xuất có thể không để người làm chứng đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói trực tiếp đối với bị can mà có thể đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói qua âm thanh, hình ảnh truyền qua mạng máy tính, mạng viễn thông nếu người làm chứng có yêu cầu. Với sự phát triển của công nghệ thông tin hiện nay và sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật nghe, nhìn hiện đại, hoàn toàn cho phép thực hiện các hoạt động tố tụng mà trong đó hạn chế sự tiếp xúc trực tiếp giữa người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác mà vẫn đảm bảo khách quan, toàn diện, đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án. Mặt khác, các hoạt động đối chất, nhận biết giọng nói thực hiện ngay cả khi người làm chứng và bị can không quan sát được trực tiếp khuôn mặt của nhau nên có thể áp dụng các biện pháp để bị can không nhận biết được ai là người làm chứng đang đối chất với mình, đang nhận biết giọng nói của mình.

Thứ hai, cần quy định người làm chứng có quyền được đối đáp, tham gia tranh luận tại phiên tòa xét xử.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định, khi tranh luận, người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên. Theo quy định này, có thể hiểu người làm chứng cũng có quyền tham gia tranh luận. Tuy nhiên, tại phần xét hỏi có quy định: “Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm” dẫn đến cách hiểu sau khi xét hỏi, người làm chứng không tham gia hoạt động gì khác tại phiên tòa nên người làm chứng không có quyền đối đáp với Kiểm sát viên. Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong tố tụng hình sự, tác giả cho rằng cần có quy định cụ thể về quyền của người làm chứng được đưa ra ý kiến đối đáp với Kiểm sát viên về những nội dung họ biết được liên quan đến vụ án. Ngoài ra, cần quy định người làm chứng có quyền tranh luận với bị cáo và những người tham giá tố tụng khác trong phạm vi về những nội dung họ làm chứng. Quy định này cần thiết khi nghĩa vụ làm chứng là nghĩa vụ công dân theo luật định và khi tham gia tố tụng hình sự không bị chi phối bởi quyền lợi cá nhân, nhưng lại phải đối mặt với những nguy cơ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu cố tình khai báo gian dối theo quy định tại Điều 383 BLHS năm 2015. Vì vậy, nếu tại phiên tòa, lời khai của người làm chứng có mâu thuẫn với lời khai của bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác thì người làm chứng có quyền được tranh luận với họ sẽ góp phần làm sáng tỏ lời khai, tình tiết vụ án.

Thứ ba, cần có quy định về chế độ đãi ngộ cho người làm chứng khi tham gia các hoạt động tố tụng

Như đã phân tích ở trên, tư cách tố tụng của người làm chứng được xác định ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm nên quyền được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác của người làm chứng khi tham gia các hoạt động tố tụng trong giai đoạn tố tụng đầu tiên này cần được ghi nhận, bảo đảm trong các văn bản hướng dẫn. Theo quy định hiện hành, việc thanh toán mới chỉ áp dụng cho những người làm chứng tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, do đó, cần bổ sung quy định đảm bảo quyền được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác cho người làm chứng khi tham gia giải quyết nguồn tin về tội phạm.

Bên cạnh đó, người làm chứng khi tham gia các hoạt động tố tụng hình sự được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác chỉ khi có yêu cầu và chuyển hồ sơ đề nghị thanh toán tới cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để làm thủ tục thanh toán. Quy định như vậy chưa thực sự đảm bảo được quyền cho người làm chứng vì thanh toán các chi phí cho người làm chứng thực chất là việc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bù đắp những thiệt thòi, mất mát hoặc ngăn chặn những mất mát, tổn thất có thể xảy ra đối với người làm chứng khi họ thực hiện nghĩa vụ công dân, hợp tác với Nhà nước trong giải quyết vụ án hình sự. Sự bù đắp đó cần được thực hiện đối với người làm chứng ngay cả khi phía người làm chứng không có yêu cầu. Thế nên, cần thiết phải sửa đổi quy định về thanh toán chi phí cho người làm chứng theo hướng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thanh toán chi phí cho người làm chứng khi họ tham gia các hoạt động tố tụng./.