Tiêu luận bình đẳng giới trong lãnh đạo, quản lý ở việt nam
Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Hà Thị Nga (thứ ba, phải sang) cùng các nữ đại biểu tại Hội nghị Ban Chấp hành lần thứ 9 (khóa VII). Những căn cứ pháp lý quan trọngChiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2010-2020 và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị là những chương trình, chủ trương thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực tham chính đã chỉ rõ rằng: Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới; phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ, UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Tinh thần bình đẳng giới trong chính trị cũng được khẳng định tại các kỳ đại hội Đảng gần đây. Tại Đại hội XII, Đảng ta đã nhấn mạnh, phải tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý nhà nước. Tiếp theo đó, Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: Phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên và có cán bộ nữ trong ban thường vụ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã xác định rõ mục tiêu đến năm 2030: Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỷ lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20-25%. Đối với cán bộ lãnh đạo nữ trong bộ máy chính quyền nhà nước, Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 đề ra chỉ tiêu: Phấn đấu đến năm 2020 đạt 95% bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Gần đây nhất, Chương trình Tăng cường sự tham gia bình đẳng của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo và quản lý ở các cấp hoạch định chính sách giai đoạn 2021-2030 đề ra mục tiêu Đến năm 2025 đạt 60% và đến năm 2030 đạt 75%, các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Có thể nói, đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị. Vấn đề đặt ra Có thể thấy, công tác cán bộ nữ dù có những chuyển biến tích cực hơn so với giai đoạn trước, nhưng nhìn chung vẫn còn khoảng cách giới khá lớn trong lĩnh vực chính trị; chưa đạt mục tiêu đề ra, chưa tương xứng với tỉ lệ nữ chiếm 50% dân số cả nước. Hệ thống chỉ tiêu về bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị chưa toàn diện, chưa có sự thống nhất giữa các văn bản và các giai đoạn. Nếu Nghị quyết số 11-NQ/TW đặt ra phấn đấu đến năm 2020 có 25% trở lên cán bộ nữ tham gia cấp ủy thì Chỉ thị 35-CT/TW lại đặt ra phấn đấu đạt tỷ lệ cấp ủy viên nữ từ 15% trở lên. Câu hỏi đặt ra, đến năm 2030, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy các cấp có thể đạt 20-25% như Nghị quyết Trung ương 7 đã yêu cầu? Một số giải pháp Một là, cấp ủy, người đứng đầu cần quán triệt sâu sắc các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ nói chung và công tác cán bộ nữ nói riêng. Chỉ đạo việc cụ thể hóa thành các quy định cụ thể tại cơ quan, đơn vị mình. Đặc biệt, cần có quyết tâm chính trị cao để bảo đảm việc thực hiện bình đẳng giới thực chất trong lãnh đạo, quản lý. Cần phải công tâm, khách quan, chủ động rà soát, phát hiện nguồn cán bộ nữ, tham mưu cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị bố trí, sử dụng, phát huy năng lực, sở trường, tạo điều kiện để cán bộ nữ khẳng định bản thân, từ đó tập thể ghi nhận. Hai là, chú trọng khảo sát, đánh giá về thực trạng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý trong toàn hệ thống chính trị; đề ra hệ thống các chỉ tiêu cụ thể đối với từng cấp, từng ngành, từng lĩnh vực và trong các khâu của công tác cán bộ, bảo đảm thống nhất, khoa học, phù hợp với thực tiễn và bối cảnh tình hình mới. Lê TâmVăn phòng Ban Tổ chức Trung ương
|