So sánh thanh tra và giám sát
Skip to content
Show
Thanh tra, kiểm tra là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước. Nhiều người nghĩ rằng hai hoạt động này là một. Thực tế chúng là hai khái niệm khác nhau, hoạt động tương trợ lẫn nhau. Trong đó, thanh tra có phạm vi hẹp hơn kiểm tra. Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn phân biệt thanh tra, kiểm tra khác nhau như thế nào. Trong công tác quản lý nhà nước nói chung, bên cạnh các hoạt động quản lý thì việc thanh tra, kiểm tra cũng được thực hiện nhằm đánh giá mức độ thực hiện chính sách pháp luật, đảm bảo tính công khai, minh bạch, đúng theo quy định của Pháp luật hiện hành. Có thể nói, thanh tra, kiểm tra là công cụ mang tính phản biện chu trình quản lý nhà nước. Thông qua hai hoạt động này, cơ quan quản lý nhà nước có thể phân tích, đánh giá khách quan các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Theo quy định, thanh tra, kiểm tra là hai hoạt động riêng biệt, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, hoạt động tương trợ với nhau. Không ít người nhầm lẫn hai khái niệm này và đánh đồng chúng là một. Thanh tra và kiểm tra có nhiều điểm khác nhau Theo từ điển Tiếng Việt thì thanh tra là kiểm tra, xem xét tại chỗ, khách quan các hoạt động của cơ quan, đơn vị. Trong đó, nhiệm vụ thanh tra thực hiện bởi các cơ quan nhà nước có trách nhiệm liên quan. Tuy nhiên, để triển khai nhiệm vụ, thanh tra sẽ được đồng thực hiện bởi bộ máy chuyên môn và sự giám sát của người dân. Vì thế, các Cơ quan Thanh tra có nhiệm vụ nhận, xem xét và giải quyết, phản hồi các đơn thư khiếu nại, tố cáo từ quần chúng gửi đến. Hiện nay, ngoài thanh tra nhà nước còn có các đơn vị Thanh tra chuyên ngành hoạt động song song như thanh tra giao thông, thanh tra tư pháp, thanh tra tài nguyên khoáng sản, đất đai. Khái niệm kiểm traTừ điển Tiếng Việt nêu rõ, kiểm tra là hoạt động xem xét, phân tích tình hình thực tế từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan, đúng mực. Công tác kiểm tra được thực hiện bởi mọi chủ thể quản lý, không có sự phân biệt các cấp. Tuy nhiên mỗi cấp bậc khác nhau sẽ có quy mô kiểm tra, nội dung kiểm tra khác nhau nhằm đảm bảo tính hợp lý và năng lực nhận định vấn đề. Như vậy, nhìn từ khái niệm rõ ràng thanh tra có phạm vi hẹp hơn hoạt động kiểm tra. Trong đó, chủ thể thực hiện công tác thanh tra sẽ là các đơn vị nhà nước được phân quyền. Chủ thể thực hiện của kiểm tra được mở rộng là mọi chủ thể quản lý. Tuy nhiên, trong quản lý nhà nước hiện nay còn có sự hoạt động của kiểm tra nhà nước nhằm giám sát việc chấp hành kỷ luật nhà nước, kỷ luật lao động, pháp chế và những quyền hạn của công dân. Công tác thanh tra được thực hiện bởi cơ quan nhà nước Phân biệt hoạt động thanh tra, kiểm traChủ thể tiến hành
Mục đích thực hiện
Phương pháp tiến hành
Phương pháp tiến hành
Thời hạn tiến hành
Trình độ nghiệp vụ
Phạm vi hoạt động
Sự phân biệt sự khác nhau giữa thanh tra, kiểm tra có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện chế định pháp luật Nhà nước đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước. Tuy nhiên, các chuyên gia về quản lý nhà nước khẳng định việc phân biệt thanh tra và kiểm tra trong các hoạt động quản lý nhà nước chỉ mang tính tương đối. Sự linh động trong nhìn nhận khái niệm sẽ giúp hoạt động triển khai trong thực tiễn diễn ra nhanh chóng, thuận lợi. Bởi thực tế các hoạt động thanh tra và kiểm tra đôi khi lồng ghép, bao hàm lẫn nhau. Điều quan trọng nhất là những Thanh tra viên, Kiểm tra viên cần có chuyên môn, kỹ năng làm việc đồng thời nhìn nhận, xử lý vấn đề một cách công tâm, khách quan, tránh làm sai lệch vấn đề dẫn tới nhìn nhận không đúng người đúng việc.
Giám sát là một hình thức thực hiện quyền lực Nhà nước, mà trong bộ máy Nhà nước chỉ có Quốc hội và HĐND mới có chức năng giám sát việc thực hiện pháp luật. Chức năng giám sát của HĐND được cụ thể hóa qua các hoạt động giám sát của cơ quan dân cử và đại biểu dân cử. 2. Đặc tính của giám sát :+ Giám sát là hành vi, hoạt động của chủ thể thực hiện việc theo dõi đối tượng bị giám sát trong một khoảng thời gian nhất định( quá trình theo dõi đối tượng bị giám sát) từ đó xem xét, đánh giá hoạt động của đối tượng bị giám sát tuân thủ những mục tiêu, quy định đã đặt ra; 3. Phân biệt giám sát, thanh tra, kiểm tra+ Những đặc điểm giống nhau của giám sát, thanh tra, kiểm tra bao gôm: 4. Vai trò giám sát trong quản lýGiám sát cũng như thanh tra, kiểm tra là công cụ để người quản lý sử dụng theo dõi, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, chức năng của đối tượng bị giám sát, thanh tra, kiểm tra. Qua giám sát, thanh tra, kiểm tra người quản lý mới biết được tiến độ thực hiện, chất lượng thực hiện, những ưu, khuyết điểm của đối tượng bị giám sát, kiểm tra, thanh tra trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ đồng thời qua đó cho người quản lý biết được quyết định quản lý có những tồn tại gì, để trên cơ sở đó sửa đổi bổ sung hoặc có các chế tài buộc đói tượng bị giám sát có các biện pháp thích hợp để thực hiện cho tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Tóm lại, vai trò giám sát trong quản lý là để: 5. Giám sát và giám sát chuyên đềGiám sát có thể được chia ra nhiều loại giám sát khác nhau, nhưng phân theo nội dung ta có thể chia giám sát thành giám sát chung và giám sát chuyên đề. Giám sát chung và giám sát chuyên đề có mối quan hệ khăng khít với nhau. Ví du: Giám sát các vấn đề xã hội mang tính giám sát chung có nội dung rất rộng bao hàm nhiều vấn đề, chuyên đề khác như: giáo dục, dân số, lao động việc làm, phòng chống tệ nạn xã hội … Nội dung giám sát chuyên đề là nội dung cụ thể của nội dung giám sát chung. Kết quả giám sát chuyên đề là cơ sở để thực hiện giám sát chung. Ví dụ : giám sát chuyên đề về khám chữa bệnh cho nhân dân; giám sát chuyên đề về xoá đói giảm nghèo; giám sát về lao động việc làm, xuất khẩu lao động …Hay nói cách khác là giám sát chuyên đề là hoạt động giám sát cụ thể, giám sát với phạm vi hẹp hơn về nội dung cũng như không giam, thời gian. Giám sát chung thì có giám sát nội dung chung nhưng không chế trong một khoảng thời gian ví dụ: giám sát việc tổ chức thực hiện pháp luật về các vấn đề xã hội trong nhiệm kỳ QH khoá XI, nghĩa là các hoạt đọng giám sát tập trung vào các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật về các vấn đề xã hội từ đầu nhiệm kỳ đến nay, không xem xét các hoạt động thực hiện pháp luật về các vấn đề xã hội trước đó. Nhưng ở đây lưu ý một vấn đề giám sát chung này có thể là giám sát cụ thể của hoạt động giám sát chung khác; Ví dụ giám sát chung về tình hình khám chữa bệnh cho nhân dân( với tính chất chung) trong đó sẽ có những giám sát cụ thể, giám sát chuyên đề như: Giám sát hoạt động cung cấp thuốc chưa bệnh , giám sát công tác vệ sinh, xử lý chất thải trong bệnh viện, cơ sở y tế … Đối với giám sát về các vấn đề xã hội thì giám sát khám chưa bệnh là giám sát chuyên đề, giám sát cụ thể, nhưng đối với giám sát việc cung cấp thuốc chưa bệnh; giám sát công tác vệ sinh, xử lý chất thải trong bệnh viện thì lại là hoạt động giám sát chuyên đề của giám sát vấn đề khám chưa bệnh cho nhân dân. Do đó việc phân biệt, chia giám sát thành giám sát chung và giám sát chuyên mang tính tương đối. Điều này phụ thuộc vào ý chí của chủ thể tiến hành giám sát, nội dung , mức độ giám sát mà chủ thể đặt ra. Nếu chủ thể chỉ đòi hỏi theo dõi một cách tổng quát, những đánh giá chính, chủ yếu thì đó là giám sát chung, còn nếu chủ thể đòi hỏi thật đầy đủ, cụ thể thì đó lại là giám sát chuyên đề, giám sát cụ thể. Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà xác định đối tượng nội dung giám sát cho phù hợp với yêu cầu của chủ thể giám sát. Qua giám sát chung có thể là cơ sở để chủ thể giám sát quyết định tiến hành giám sát chuyên đề. Kết quả giám sát chuyên đề là một trong những thông tin để chủ thể thực hiện giám sát chung. Kết quả giám sát chuyên đề giúp cho chủ thể tiến hành giám sát chung khẳng định một cách chính xác hơn về đánh giá của mình đối với đối tượng bị giám sát, từ đó đưa ra được những biện pháp tác động phù hợp. Còn giám sát chuyên đề có thể đứng độc lập, tuỳ thuộc vào ý chí của chủ thể tiến hành hoạt động giám sát khi nhận thấy cần tiến hành giám sát chuyên đề. |