Kinh nghiệm xây dựng đề kiểm tra môn Ngữ văn
Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn(ĐCSVN) - Để tiếp tục khắc phục tình trạng dạy học nặng về thuyết giảng, đọc chép và yêu cầu thuộc lòng theo văn mẫu, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) yêu cầu các Sở GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên thực hiện các nội dung về đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra và đánh giá môn Ngữ văn.
Bộ GD&ĐT vừa ban hành Công văn số 3175/BGDĐT-GDTrH gửi các Sở GD&ĐT về việc hướng dẫn đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn ở trường phổ thông.
Dành nhiều thời gian cho các hoạt động thực hành, vận dụng, trình bày Bộ GD&ĐT yêu cầu các Sở GD&ĐT tăng cường hơn nữa việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập môn Ngữ văn, dành nhiều thời gian cho các hoạt động thực hành, vận dụng, trình bày, thảo luận để rèn luyện kĩ năng đọc, viết, nói, nghe và cảm thụ thẩm mĩ theo yêu cầu, mức độ với từng lớp học, cấp học. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần giao nhiệm vụ học tập rõ ràng, phù hợp với khả năng của học sinh, nêu cụ thể các yêu cầu về sản phẩm mà học sinh phải hoàn thành, chú trọng kiểm tra, đánh giá, hỗ trợ, động viên học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập. Song song với đó, các Sở cần xây dựng kế hoạch bài dạy và tổ chức dạy học môn Ngữ văn theo hướng tăng cường rèn luyện cho học sinh phương pháp đọc, viết, nói và nghe. Hướng dẫn học sinh thực hành, trải nghiệm tiếp nhận và vận dụng kiến thức tiếng Việt, văn học thông qua các hoạt động học ở trong và ngoài lớp học. Đối với dạy đọc, xác định rõ mục đích giúp học sinh biết cách đọc và tự đọc hiểu được văn bản. Thông qua đó hình thành phẩm chất, nhân cách học sinh. Coi ngữ liệu là phương tiện và việc tìm hiểu ngữ liệu là cách thức để hình thành, phát triển năng lực đọc hiểu văn bản. Giáo viên có thể đưa ra những gợi ý, chỉ dẫn để giúp học sinh đọc nhưng không lấy việc phân tích, bình giảng của mình để áp đặt hay thay thế cho những suy nghĩ của học sinh. Tránh đọc chép và yêu cầu học sinh ghi nhớ kiên thức một cách máy móc. Đối với dạy viết, chú trọng yêu cầu học sinh hình thành ý tưởng, biết cách trình bày ý tưởng một cách mạch lạc, sáng tạo, có sức thuyết phục để qua đó rèn luyện tư duy và cách viết các kiểu văn bản. Tập trung vào yêu cầu hướng dẫn học sinh thực hiện các bước tạo lập văn bản. Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn Bộ GD&ĐT nhấn mạnh việc đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn cần đảm bảo nguyên tắc phát huy được những mặt tích cực của cá tính, trí tưởng tượng, năng lực ngôn ngữ, năng lực văn học, năng lực tư duy hình tượng và tư duy logic của học sinh. Giáo viên cần tập trung thiết kế và sử dụng các câu hỏi, bài tập yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức đã học và kĩ năng đọc, viết, nói, nghe vào bối cảnh và ngữ liệu mới. Tạo cơ hội để học sinh khám phá những tri thức mới, đề xuất ý tưởng và tạo ra sản phẩm mới. Gợi mở những liên tưởng, tưởng tượng, huy động được vốn sống vào quá trình đọc, viết, nói, nghe. Trong đánh giá kết quả học tập cuối học kì, cuối năm học, cuối cấp học, giáo viên cần tránh dùng lại các văn bản đã học trong sách giáo khoa làm ngữ liệu xây dựng các đề kiểm tra đọc hiểu và viết để đánh giá chính xác năng lực học sinh, khắc phục tình trạng học sinh chỉ học thuộc bài hoặc sao chép nội dung tài liệu có sẵn. Trong các nội dung đổi mới, Bộ GD&ĐT nhấn mạnh khuyến khích giáo viên xây dựng và sử dụng các đề mở trong kiểm tra, đánh giá để phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của học sinh. Xây dựng bộ công cụ đánh giá để hạn chế tính chủ quan, cảm tính của người chấm. Khi nhận xét, đánh giá các sản phẩm của học sinh, giáo viên cần tôn trọng và khuyến khích cách nghĩ, cách cảm riêng của học sinh trên nguyên tắc không vi phạm những chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật. Nhằm tăng cường quản lý, chỉ đạo hoạt động dạy học môn Ngữ văn, các Sở GD&ĐT, phòng GD&ĐT cần xem xét, góp ý kế hoạch dạy học môn Ngữ văn của các nhà trường theo hướng dẫn của Bộ. Theo dõi, giám sát quá trình thực hiện đổi mới dạy học và kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ văn và tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích giáo viên tích cực, chủ động, sáng tạo trong dạy học và kiểm tra, đánh giá. Bên cạnh đó, cần tập trung đổi mới sinh hoạt chuyên môn của tổ, nhóm chuyên môn đối với môn Ngữ văn dựa trên Nghiên cứu bài học. Tăng cường các hoạt động dự giờ để giáo viên có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm trong dạy học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Tăng cường các hoạt động trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng kế hoạch dạy học môn Ngữ văn thông qua hội nghị, hội thảo, học tập, giao lưu giữa các nhà trường nhằm đáp ứng yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn theo Chương trình Giáo dục phố thông 2018./. Mỹ Anh
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠKHOA SƯ PHẠMBỘ MÔN SƯ PHẠM NGỮ VĂNTRỊNH NGUYỄN THÚY QUỲNH(MSSV: 6075377)XÂY DỰNG ĐỀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌCSINH LỚP 12 THEO CHƯƠNG TRÌNH SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN 12,TẬP 1(BỘ CƠ BẢN)Luận văn tốt nghiệp đại họcNgành Sư phạm Ngữ VănCán bộ hướng dẫn: NGUYỄN MINH CHÍNHCần Thơ, tháng 04 năm 2011LỜI CÁM ƠNBốn năm, khoảng thời gian không quá dài cũng không quá ngắn cho hành trìnhđi tìm kiến thức. Giờ đây có được thành quả này, trước hết em xin cảm ơn quí thầy côtrong khoa Sư phạm đã tạo điều kiện cho mỗi sinh viên chúng em hoàn tất khóa họccủa mình. Em xin cảm ơn quí thầy cô Bộ môn Ngữ Văn trong suốt bốn năm qua đã tậntâm dạy dỗ, dìu dắt chúng em trên con đường đi tìm tri thức.Đặc biệt, em xin gởi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Nguyễn Minh Chính– cán bộ giảng dạy môn Đánh giá giáo dục môn Ngữ Văn. Trong hơn bốn tháng thựchiện luận văn, chính nhờ sự tận tình chỉ dạy của thầy đã tạo điều kiện để em vượt quanhững khó khăn, vướng mắc về kiến thức chuyên môn cũng như về phương tiệnnghiên cứu để có thể hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện luận văn, dù đã hết sức cố gắng nhưngvẫn không tránh khỏi những sai sót. Kính mong thầy cô thông cảm và đóng góp ý kiếnđể em có thể hoàn thiện tốt hơn đề tài này và bản thân học được những kinh nghiệmquý báu.Cuối cùng, em xin kính gửi đến quý thầy cô lời chúc sức khỏe và vạn sự thànhcông. Trân trọng kính chào!Sinh viên lớp Sư phạm Ngữ Văn khóa 33Trịnh Nguyễn Thúy QuỳnhPHẦN MỞ ĐẦU1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀITrước đây, hầu hết các giáo viên trường trung học phổ thông đều cho học sinhlàm bài kiểm tra bằng hình thức tự luận. Những năm gần đây, nhất là kể từ năm 2007trở lại, Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã khuyến khích đánh giá giáo dục bằng hình thứctrắc nghiệm khách quan kết hợp với tự luận. Hai hình thức này đem lại kết quả vừakhách quan lại vừa chính xác.Trong chương trình đào tạo ngành Sư phạm Ngữ Văn, người viết đã được họcmôn đánh giá giáo dục - Ngữ Văn do giảng viên tổ Phương pháp của bộ môn Ngữ Văngiảng dạy. Qua học phần này, người viết đã được biết thêm về dạng đề kiểm tra bằnghình thức trắc nghiệm khách quan kết hợp với tự luận. Người viết rất thích cách xâydựng đề kiểm tra theo hai dạng đó, vì nó có rất nhiều ưu điểm.Vào đợt kiến tập tại trường trung học phổ thông, tiếp xúc với giáo viên phổthông, được trao đổi với các thầy cô, thì hầu hết các thầy cô đều thích hình thức trắcnghiệm khách quan, vì có thể kiểm tra, đánh giá được nhiều nội dung kiến thức hơn.Việc chấm bài tiết kiệm được rất nhiều công sức và thời gian. Việc xây dựng đề kiểmtra, đánh giá kết quả học tập của học sinh sẽ giúp được rất nhiều cho người viết trongquá trình giảng dạy sau này.Bên cạnh đó, đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đểhội nhập quốc tế. Vì vậy, đổi mới trong giáo dục là rất quan trọng. Đổi mới trong giáodục không chỉ đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học mà còn đổi mới về kiểm tra,đánh giá. Việc áp dụng hình thức kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan trong dạy họclà rất cần thiết. Vì hình thức này đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứuvà áp dụng.Với tất cả những lý do trên, người viết đã quyết định chọn đề tài “Xây dựng đềkiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh lớp 12 theo chương trình sách giáokhoa Ngữ văn tập 1, bộ cơ bản”.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀViệc xây dựng câu hỏi kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hìnhthức đổi mới có khá nhiều sách và bài viết viết về vấn đề này:Tập bài giảng “Đánh giá giáo dục-Ngữ Văn” [17] được biên soạn gồm bachương: Đánh giá học sinh trong quá trình dạy học (chương 1); Các phương phápkiểm tra dùng trong đánh giá (chương 2); Quy trình thiết kế bài kiểm tra và việc đánhgiá kết quả học tập của học sinh (chương 3). Trong chương 2, tập thể các giảng viên đãđưa ra các phương pháp dùng trong đánh giá kết quả học tập của học sinh như: nhómkiểm tra nói (kiểm tra vấn đáp và kiểm tra bằng hình thức thuyết trình), nhóm kiểm traviết (tự luận ngắn, tự luận - làm văn, trắc nghiệm khách quan và một số phương phápkhác). Nhóm kiểm tra với câu hỏi trắc nghiệm khách quan gồm có loại câu đúng/sai,loại ghép đôi, loại điền khuyết và loại trắc nghiệm nhiều lựa chọn. Với mỗi loại, tácgiả đều đưa ra một cách khá đầy đủ về các tính chất, ưu điểm, nhược điểm và cách sửdụng. Bên cạnh đó, các quy trình thiết kế một đề kiểm tra đánh giá kết quả học tập củahọc sinh (chương 3) cũng được nói rất kĩ. Trong chương này, các tác giả cũng đã cungcấp những nguyên tắc xây dựng một bài kiểm tra và cách thiết kế một đề kiểm tra lànhư thế nào.Bài viết “Năm 2007-2008 và những cái mới của giáo dục trung học”[19], thứtrưởng Nguyễn Văn Trọng chỉ đạo rằng phải tiếp tục kết hợp hình thức kiểm tra tựluận và trắc nghiệm khách quan, đổi mới cách ra đề kiểm tra theo hướng đòi hỏi ngườiđọc phải thông hiểu, biết vận dụng kiến thức; hạn chế chỉ đánh giá đúng mức độ ghinhớ, nghiêm túc trong kiểm tra, đánh giá để phản ánh đúng chất lượng.Tác giả Đỗ Ngọc Thống với bài viết “Có nên thi trắc nghiệm khách quan mônNgữ Văn” [18], cho rằng việc kiểm tra, đánh giá bằng tự luận là rất cần thiết đối vớimôn Ngữ Văn. Song, tính chủ quan và cảm tính còn chiếm tỉ lệ cao. Mặt khác, kết quảlàm bài của học sinh phụ thuộc khá nhiều vào trình độ, tâm lí, tính cách của ngườichấm bài, tạo cho học sinh thói quen học tủ, học lệch, sao chép bài mẫu. Trắc nghiệmkhách quan sẽ tránh được hai hạn chế trên. Tác giả còn cho rằng tất cả các môn họcnên được kiểm tra bằng hình thức kết hợp giữa trắc nghiệm và tự luận. Hiện nay, đốivới môn Ngữ Văn, nên có ba phần trắc nghiệm và bảy phần tự luận.Trong quyển “Hệ thống câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tự luận ngữ văn 12, tập1” [4], các câu hỏi trắc nghiệm và bài tập tự luận được xấp xếp dưới hình thức lànhững đề thi hoàn chỉnh và có kèm đáp án sau mỗi đề. Các tác giả đã chia thành baphần: phần đề kiểm tra 15 phút, đề kiểm tra 45 phút, đề kiểm tra 90 phút. Mỗi phầngồm 18 đề. Ở phần đề kiểm tra 15 phút, các tác giả dùng hình thức tự luận ngắn đểkiểm tra mức độ biết và hiểu của học sinh, tác giả không dùng hình thức trắc nghiệmkhách quan đối với dạng đề này; Ở đề kiểm tra 45 phút và kiểm tra 90 phút, tác giả cókết hợp hình thức trắc nghiệm khách quan và tự luận, nhưng phần trắc nghiệm kháchquan dùng rất ít loại câu hỏi điền khuyết, đúng/sai cũng như loại ghép cột. Chủ yếu làdạng câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn. Còn về phần tự luận, sách đưa ra một số đề nghịluận xã hội rất hay. Nhưng trong đáp án các tác giả chỉ giới thiệu những bài văn thamkhảo mà không đưa ra các ý chính cần đạt.Với quyển “Câu hỏi và bài tập ôn luyện kiến thức trung học phổ thông mônNgữ Văn” [10], do Nguyễn Duy Kha chủ biên, gồm hai phần: Câu hỏi và bài tập ônluyện (phần 1), giới thiệu một số đề thi và đáp án (phần hai). Trong phần một, các tácgiả đưa ra khá nhiều câu hỏi có cả trắc nghiệm khách quan và tự luận. Các câu hỏi nàyđược sắp xếp theo từng giai đoạn văn học: Văn học dân gian, Văn học trung đại ViệtNam, văn học hiện đại Việt Nam từ thế kỉ XX đến năm 1945, Văn học hiện đại ViệtNam từ cách mạng tháng Tám 1945 đến nay, và văn học nước ngoài. Tác giả cung cấprất nhiều câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn và chủ yếu là kiểm tra kiến thức hiểu củahọc sinh. Các dạng câu điền khuyết, ghép cột và đúng/sai tác giả rất hạn chế sử dụng.Bên cạnh đó, phần đề tự luận quá ít so với phần trắc nghiệm khách quan và tác giả chỉchú ý đến kiểu bài phân tích, bình luận văn học, kiểu bài nghị luận xã hội không thấynhắc đến.Còn về quyển “Bộ đề thi tự luận ngữ văn” [7] của Lê Nguyên Cẩn, tác giả đưara hơn 40 đề thi với mô hình là đề thi đại học. Trong các kì thi đại học trước nay cũngnhư trong sách này, chỉ có hình thức tự luận, hoàn toàn không có trắc nghiệm kháchquan. Các câu hỏi xoáy vào khả năng vận dụng của học sinh là chính, với các kiểu bài:nghị luận xã hội, nghị luận văn học, phân tích, bình giảng văn học Việt Nam và vănhọc nước ngoài.Nhìn chung, các bộ sách và các bài viết cho ta thấy được tầm quan trọng củakiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưngnhìn chung các sách đều tán thành việc đổi mới trong kiểm tra đánh giá cũng như tánthành việc áp dụng hình thức trắc nghiệm vào kiểm tra, đánh giá kết quả học tập củahọc sinh.Ở luận văn này, người viết sẽ thiết kế các đề kiểm tra, đánh giá theo tinh thầnđổi mới phương pháp, nội dung kiểm tra đánh giá và dựa theo tài liệu phân phốichương trình Ngữ Văn 12 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨUTrên cơ sở tham khảo một số tài liệu liên quan, người viết đi vào tìm hiểu líthuyết về kiểm tra, đánh giá; các phương pháp dùng trong đánh giá kết quả học tậpmôn ngữ văn của học sinh và những yêu cầu, nguyên tắc xây dựng đề kiểm tra. Sau đóđi vào thiết kế đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh lớp 12 (ban cơ bản).Nghiên cứu luận văn này, người viết sẽ hiểu được tầm quan trọng của kiểm tra, đánhgiá kết quả học tập của học sinh trong quá trình dạy học; biết được cách thiết kế đềkiểm tra để đánh giá thật chính xác khách quan kết quả học tập môn ngữ văn của họcsinh lớp 12, theo chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn tập 1 (ban cơ bản).4. PHẠM VI NGHIÊN CỨUNhư đã đề cập, luận văn này chỉ thiết kế đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tậpcủa học sinh lớp 12 theo chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn tập 1 (bộ cơ bản), chủyếu tập trung thiết kế các đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết dựa theo tài liệu phân phối chươngtrình của Bộ.Tuy nhiên để luận văn có tính khoa học, người viết đã khảo sát một số sách liênquan và Tạp chí Giáo Dục để làm tiền đề cho việc nghiên cứu.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐể hoàn thành luận văn này, người viết đã sử dụng những phương pháp sau:- Phương pháp hệ thống:Bằng phương pháp này trong quá trình tìm hiểu các tài liệu liên quan, ngườiviết đã hệ thống hóa một số vấn đề xây dựng câu hỏi trắc nghiệm và tự luận. Đó lànhững vấn đề có tính chất lí thuyết rất cần thiết cho việc kiểm tra, đánh giá.- Phương pháp phân tích so sánh:Trên cơ sở hệ thống một số vấn đề xây dựng câu hỏi trắc nghiệm và tự luận từcác tài liệu liên quan, người viết đã đi vào phân tích để thấy rõ những ưu điểm, nhượcđiểm của từng hình thức kiểm tra. Sau đó dùng phương pháp so sánh để lựa chọn từnghình thức kiểm tra phù hợp với các đề kiểm tra, đánh giá kết quả học tập môn ngữ văncủa học sinh lớp 12, theo chương trình sách giáo khoa Ngữ Văn tập 1 (ban cơ bản).PHẦN NỘI DUNG CHÍNHCHƯƠNG I : CƠ SỞ CHO VIỆC XÂY DỰNG ĐỀ KIỂM TRA1. ĐÁNH GIÁ HỌC LỰC HỌC SINH TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC1.1. Vị trí của đánh giá học lực học sinhỞ trường phổ thông học sinh được đánh giá hai mặt: học lực và hạnh kiểm.Đánh giá kết quả học tập của học sinh có một tầm quan trọng trong việc giáodục ở nhà trường phổ thông, điều quan trọng nhất là phải đánh gía chính xác, xếpđược học sinh vào các loại. Muốn đánh giá học sinh ta cần phải có tiêu chí cótrước, tiêu chí đó là mục tiêu đào tạo giáo dục, thông tin về đối tượng đánh giá. Sauđó đối chiếu thông tin thu nhận được với mục tiêu trong nhà trường để đánh giáhọc sinh.Đánh giá học lực học sinh có một tầm quan trọng rất đặc biệt. Đó không phải làcho điểm, xếp loại, mà quan trọng nhất là người giáo viên biết thực trạng để từ đómà điều chỉnh cách giảng dạy để đạt hiệu quả cao hơn, bản thân học sinh cũng điềuchỉnh cách học cho tốt hơn.1.2. Mục đích của đánh giáĐánh giá học lực học sinh là nhiệm vụ trực tiếp của người giáo viên dạy mônhọc đó, tùy theo hoàn cảnh và yêu cầu cụ thể mà việc đánh giá có những mục tiêukhác nhau.Ví dụ: -Đánh giá đầu vào.-Kiểm tra chất lượng đầu năm.-Kiểm tra định kì thường xuyên.Tuy vậy ta vẫn xác định mục đích chung sau đây:- Xác định mục đích đạt được, chưa đạt được của những em học sinh đối vớimục tiêu đạt được trong nhà trường về các mặt: tình trạng kiến thức, kĩ năng, thái độcủa học sinh, phát hiện những sai sót. Qua đó giúp học sinh điều chỉnh cách học.- Người giáo viên phải công khai hóa các nhận xét về năng lực và kết quả họctập của học sinh tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá bản thân để thúc đẩy quá trìnhhọc tập tốt hơn.- Cung cấp cho gười giáo viên những thông tin cần thiết để đánh giá kết quả củamình, từ đó có thể điều chỉnh phương pháp giảnh dạy của mình cho phù hợp.- Các nhà quản lí giáo dục nắm được thực trạng, từ đó định ra chủ trương, chínhsách đánh giá phù hợp tình hình chung.1.3. Ý nghĩa của đánh giá học lực học sinh:1.3.1. Đối với học sinh:- Đánh giá là một điều kiện tốt nhất để giáo viên có thể truyền đạt đến học sinhmục tiêu yêu cầu của việc truyền đạt trong nhà trường.- Thông qua đánh giá học sinh có điều kiện để tiến hành rèn luyện các khả năngtư duy ở mức độ cao nhất.- Đánh giá cung cấp thông tin phản hồi cho học sinh để học sinh biết đượcnhững gì mình đạt được, chưa đạt được theo yêu cầu của nhà trường, từ đó học sinhphấn đấu tốt hơn.- Củng cố cho học sinh lòng tự tin, tinh thần, trách nhiệm trong học tập.1.3.2. Đối với giáo viên:- Người giáo viên nắm được thực trạng và năng lực của từng học sinh.- Biết được những mặt đạt được hoặc chưa đạt được so với mục tiêu dạy họctrong nhà trường.- Phát hiện những sai sót, những khiếm khuyết trong kiến thức của học sinh, từđó có những giúp đỡ kịp thời.- Tự điều chỉnh phương pháp dạy học để nâng cao chất lương giảng dạy.- Thẩm định và đánh giá chính bản thân việc đánh giá học sinh.1.4. Yêu cầu đánh giá học lực của học sinh trung học phổ thông:1.4.1. Khách quan và chính xác:- Khách quan :+ Việc tổ chức thi, kiểm tra phải được tiến hành một cách khách quan.+ Chấm bài tuân thủ theo đáp án thống nhất từ trước, không được tự ý đổithang điểm khi chấm bài.+ Chấm bài phải đảm bảo yếu tố khách quan.+ Không để yếu tố chủ quan chi phối đến điểm số.- Chính xác: phải đánh giá đúng năng lực thật sự của học sinh. Nếu đáng giá saisẽ để lại hậu quả nghiêm trọng trong giáo dục.1.4.2. Đánh giá toàn diện:Việc đánh giá phải bao hàm nội dung quy định trên cái nhìn tổng thể. Tuy nhiêntrong kiểm tra, thi cụ thể thì ta có thể tập trung vào một số phần trọng yếu.Hiện nay có tranh luận về cách kiểm tra. Có 3 ý kiến khác nhau:Cách kiểm tra, thi lạc hậu và đòi hỏi có một số đổi mới:+ Học gì thi nấy.+ Học gì thi ít hơn nấy.+ Học gì thi nhiều hơn nấy.1.4.3. Đánh giá theo hệ thống:Đánh giá học sinh phải theo hệ thống, từ đầu năm học đến cuối năm học và kếhoạch thi, kế hoạch kiểm tra thì phải được lập ra từ đầu năm đối với từng lớp. Kếhoạch đó trong cuốn phân phối chương trình ngữ văn trung học phổ thông.1.4.4. Riêng biệt và phân biệt:- Riêng biệt: phải đánh giá từng học sinh không được lấy thành tích của tập thểthay thế cho từng cá nhân.- Phân biệt: trong đánh giá phải dựa vào đặc điểm từng môn học, từng cấp học,mỗi một môn học trong nhà trường có một cách đánh giá khác nhau.1.4.5. Công khaiĐánh giá học sinh phải công khai, ngày giờ đánh giá, điểm số xếp loại học sinh.1.5. Các hình thức đánh giá học lực học sinh.1.5.1. Đánh giá đầu vào.- Thi tuyển lớp 10- Kiểm tra chất lượng đầu nămMục đích của đánh giá đầu vào là kiểm tra học sinh đã học được những chươngtrình trước đến mức nào. Và để học sinh có đủ khả năng để tiếp thu kiến thức mới haykhông.1.5.2. Đánh giá từng phần.Một năm học ở trường phổ thông có khoảng 8 bài, có 2 bài ở nhà.1.5.3. Đánh giá thường xuyên- Kiểm tra miệng.- Kiểm tra 15 phút.- Giáo viên quan sát học sinh để đánh giá.1.5.4. Đánh giá tổng kếtLà những kì thi quan trọng, thi học kì, thi tốt nghiệp phổ thông.1.6. Mục tiêu dạy học: cơ sở cho đánh giá học lực:- Trong dạy học, việc đánh giá học lực học sinh có tầm quan trọng đặc biệt. đólà việc xác định những gì học sinh đạt được và chưa đạt được so với mục tiêu dạy học.Vì vậy, mục tiêu dạy học là cơ sở cho việc đánh giá học sinh. Hiện đang còn tồn tạinhững ý kiến có độ khác biệt về mục tiêu dạy học trong nhà trường.- Các nhà giáo dục học trên thế giới đưa ra nhiều cách phân loại khác nhautrong mục tiêu học tập, tuy nhiên những nền văn hóa tiên tiến trên thế giới thì đều dựavào theo cách phân loại của Bloom ( nhà giáo dục học người Mĩ):+ Nhận thức+ Kĩ năng, kĩ xảo.+ Thái độ.- Trong trường học, nhóm nhận thức phù hợp với các mức độ để đánh giá họclực học sinh. Đây là cách phân loại tốt nhất và đúng nhất.* Thang nhận thức của BloomBiết: biết sự kiện, chi tiếc sự việc mà chưa cần lí giải – nhớ.+ Các tác phẩm.+ Các tác giả.+ Các giai đoạn văn học.+ Nhân vật, cốt truyện.+ Từ loại.+ Cấu trúc ngữ pháp của câu.+ Phong cách ngôn ngữ.Hiểu (thông hiểu): hiểu sự vật sự việc, trình bày dưới dạng khác.+ Hiểu ý nghĩa của tác phẩm, nhân vật, chi tiết, ...+ Hiểu giá trị của thủ pháp nghệ thuật.+ Nhận biết phong cách ngôn ngữ của văn bản.Vận dụng: vận dụng kiến thức giải quyết tình huống mới.+ Có thể viết được văn bản theo thể loại quy định.+ Đặt được câu theo mô hình quy định.Phân tích: biết chia nhỏ các sự vật, sự việc thành bộ phận để tìm hểu ý nghĩa của từngloại bộ phận đó.Tổng hợp: từ các chi tiếc, các bộ phận có thể khái quát lên thành thực thể thống nhất.Đánh giá: đây là khả năng có thể dua ra nhận xét đánh giá về một vấn đề nào đó, mộtgiải pháp giải quyết.Ví dụ: Đánh giá (nhận xét) ý nghĩa kết thúc tác phẩm Chí Phèo, Tấm Cám, ...1.7. Mô hình đánh giá và một số khái niệm cơ bản:1.7.1. Mô hình:Việc đánh giá học lực học sinh trong nhà trường tùy nơi, tùy lúc có thể có nhữngmục đích khác nhau, nhưng nhìn chung một cách tổng quát thì chúng đều tuân thủ theomô hình sau đây:Kiểm tra + thiSố đoánh giáNhận xétQuyết ñịnh1.7.2. Các khái niệm cơ bản:- Kiểm tra: là quá trình thu thập thông tin về đối tượng cần đánh giá.- Số đo thông tin do các công cụ kiểm tra đem lại.+ Công cụ kiểm tra, thi: quan sát của giáo viên, nghe, các điểm số.+ Số đo này có hai chỉ số:Ě Độ giá trị: nhìn vào số đo người ta có thể đánh giá được công cụ đo đócó tốt hay không, có nghĩa là có đo được cạ cần đo hay không.Ví dụ: chúng ta cần kiểm tra kiến thức và kỹ năng của học sinh: kiếnthức gì, kỹ năng gì, ta chọn công cụ đo là thi vấn đáp. Sau khi có kết quả kiểm tra rồithì ta đánh giá hình thức thi vấn đáp đó có đo được kiến thức kỹ năng của học sinh haykhông. Nếu chính xác thì số đo đó có giá trị.Ě Độ tin cậy: cho ta thông tin số đo được có thể hiện đúng năng lực,trình độ học sinh hay không, và thể hiện đúng đến mức độ nào? Một số độ tin cậy: độdài bài kiểm tra, thời gian làm bài, chất lượng câu hỏi và tính khách quan trong tổ chứcthi.Điểm số trong nhà trường chỉ mang tính quy ước để nhằm mục đích xếp loại họcsinh, chứ nó không có giá trị định lượng về kiến thức và kỹ năng.- Đánh giá: các số đo thu thập được sẽ làm cơ sở để giáo viên đánh giá học sinhtheo những tiêu chí mà nhà trường đã qui định trước. Sản phẩm của khâu đánh giá lànhững lời nhận xét của giáo viên về từng học sinh so với mục tiêu dạy học trong nhàtrường.- Quyết định: đây là khâu cuối cùng của quá trình đánh giá học sinh, dựa vàonhững nhận định những thông tin thu nhận được, giáo viên đưa ra những nhận xét. Cácquyết định chúng ta thường đưa ra là cho điểm phù hợp, đề xuất giải pháp khắc phụcthực trạng yếu kém, xếp loại học sinh, điều chỉnh phương pháp giảng dạy của mìnhhoặc là cho lên lớp hay lưu bang, giấy khen, ...* Lưu ý:Phải tiến hành các khâu của quá trình đánh giá một cách công bằng, khách quan vàtuyệt đối tránh những hành vi vi phạm quy chế thi, kiểm tra.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG ĐÁNH GIÁ HỌC LỰC HỌC SINH MÔNNGỮ VĂN TRUNG HỌC PHỔ THÔNGDựa vào tiêu chí hình thức ta có các loại phương pháp sau:2.1. Kiểm tra nói:2.1.1. Kiểm tra miệng:Đây là hình thức kiểm tra được sử dụng rộng rãi trong các môn học ở phổ thôngnói chung và môn ngữ văn nói riêng.Đầu giờ: tính điểm theo yêu cầu.Trong tiết dạy bài mới: xem học sinh có hiểu bài không?* Kiểm tra đầu giờ: giáo viên chỉ kiểm tra kiến thức đã học ( kiểm tra bài củ).+ Thời gian dạy học 45 phút thì chỉ kiểm tra dưới 7 phút.+ Số lượng học sinh được kiểm tra là từ 1 đến 3 học sinh.+ Câu hỏi kiểm tra: giáo viên phải soạn sẵn câu hỏi và đáp án trước.Ě Dự kiến trước sẽ gọi học sinh nào, không nên cho học sinh xungphong.Ě Các câu hỏi: đảm bảo tính công bằng, tùy theo đối tượng mà ta hỏi họcsinh câu hỏi như thế nào?Ě Khi chúng ta cân nhắc là chưa thể quyết định cho mấy điểm thì chúngta có thể hỏi thêm câu hỏi phụ để đánh giá học sinh cho chính xác.* Cách 1: đặt câu hỏi rồi gọi học sinh trả lời.* Cách 2: gọi học sinh trước rồi đặt câu hỏi sau.=> Ta nên sử dụng cách 1 vì khi ta đặt câu hỏi, học sinh không thể biết giáo viênsẽ gọi ai, cho nên tất cả học sinh trong lớp sẽ suy nghĩ về câu hỏi đó, phát huy đượctác dụng của câu hỏi.2.1.2. Kiểm tra vấn đáp:- Bước 1: chuẩn bị+ Giáo viên thông báo cho học sinh biết thời gian, địa điểm, danh sách họcsinh phải kiểm tra. Cần phải báo cho học sinh trước khoảng 1 tuần. Học sinh phải biếtdanh sách để biết thứ tự kiểm tra.+ Giáo viên phải chuẩn bị câu hỏi kiểm tra, câu hỏi ghi trên phiếu ( phiếu câuhỏi). Cách làm phiếu:Ě Số lượng vừa đủ. Ví dụ: 45 học sinh khoảng 30 phiếu trở lên.Ě 2 câu hỏi nhỏ trên 1 phiếu.Ě Các phiếu có thể giống nhau 1 câu hỏi.- Bước 2: tổ chức kiểm tra+ Bố trí phòng kiểm tra: vị trí ngồi của học sinh được kiểm tra phải đối diệnvới giám khảo ( giáo viên).+ Gọi tên học sinh theo danh sách đã công bố trước. Cách gọi học sinh vàophòng:Ě Gọi A bắt thăm phiếu, chuẩn bị (khoảng 2 phút.)Ě Gọi B bắt thăm phiếu, chuẩn bị.Ě Gọi C bắt thăm phiếu, chuẩn bị.Ě Gọi A trả lời. Khi A trả lời xong, gọi D bắt thăm. Gọi B trả lời.* Lưu ý:- Khi có ý định giải lao thì ta không gọi học sinh vào bắt thăm nữa, mà ta gọihết số học sinh trong phòng trả lời rồi mới nghỉ giải lao. Nghỉ xong, ta làm lại như từđầu.- Khi cần cân nhắc để cho điểm chính xác, ta cũng có thể hỏi thêm câu hỏi phụđể đánh giá học sinh cho chính xác.* Ưu nhược điểm của phương pháp vấn đáp:- Ưu điểm:+ Học sinh biết kết quả kiểm tra nhanh.+ Rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói.+ Đây cũng là điều kiện để học sinh có cơ hội đối thoại mà các hình thứckhác không có.+ Chống gian lận rất tốt.- Nhược điểm:+ Thuận lợi cho những học sinh có cá tính mạnh dạng, nói năng lưu loát. Khókhăn cho những học sinh hạn chế về điều đó.+ Giáo viên dễ bị chi phối bởi cảm tính chủ quan.+ Lộ bài thi, lộ bài kiểm tra, giáo viên dễ tiêu cực.- Để đảm bảo tính công bằng cho học sinh, người giáo viên không nên chỉ sửdụng một phương pháp trong suốt 1 năm học mà nên kết hợp nhiều phương pháp khácnhau.- Để đảm bảo tính công bằng cho học sinh, trong tổ chuyên môn nên cần thốngnhất một số điều sau đây:+ Khi học sinh bắt thăm câu hỏi mà có yêu cầu bắt câu khác thì trừ bao nhiêuđiểm.+ Người giáo viên khi kiểm tra vấn đáp nên giữ thái độ vui tươi, hòa nhã.2.1.3. Thuyết trình* Đây là hình thức nhằm hai mục đích:- Tập cho học sinh biết hợp tác với nhau trong nghiên cứu.- Rèn luyện khả năng trình bày trước đông người bằng ngôn ngữ nói.* Các bước thực hiện:- Giao đề tài cho một nhóm học sinh thực hiện. Nhóm học sinh có thể giao độngtừ 10 đến 15 học sinh. Cả nhóm thực hiện chung một nhiệm vụ.Ví dụ:+ Sưu tầm tài liệu, hiện vật, tranh ảnh, các phương tiện nghe nhìn về 1 tác giảnào đó trong chương trình học.+ Thực hiện viết bảng báo cáo khoa học nhỏ về một đề tài trọng tâm hoặc cóliên quan đến chương trình học.+ Giải một đề văn tự luận với yêu cầu theo từng mức độ như: làm đề cươngchi tiết, chuyển một luận điểm trong đề cương.- Tổ chức cho học sinh thuyết trình: khoảng thời gian từ lúc giao đề tài đến lúcthuyết trình phải đủ cho học sinh thực hiện, tùy theo đề tài mà thời gian dài hay ngắn.Có thể từ 2 tuần đến 1 tháng.- Tập trung học sinh một buổi để cho học sinh thuyết trinh, nếu giờ chính khóathì có thể sử dụng 2 tiết trùng nhau. Nếu số lượng lớn thì tổ chức thành một buổi riênghoặc là đưa nó vào nội dung của câu lạc bộ văn học.- Yêu cầu đại diện 1 nhóm lên trình bày kết quả của nhóm mình. Tất cả cácthành viên trong nhóm đều có trách nhiệm trả lời chấp vấn của các thành viên tronglớp.- Đánh giá:+ Cho nhóm chấm điểm từng thành viên để đánh giá công lao đóng góp củatừng thành viên khi thực hiện đề tài.+ Giáo viên quan sát tổng hợp để đánh giá từng thành viên trong nhóm.* Lưu ý chung cho phương pháp kiểm tra nói:- Các câu hỏi nêu ra phải được trình bày một cách rõ ràng để học sinh nắm ngayđược câu hỏi.- Trong kiểm tra miệng cần phải khách quan, vô tư để tránh gây ra những suynghĩ không tốt trong tư tưởng của học sinh.2.2. Kiểm tra viết- Đây là hình thức phổ biến nhất ở trường phổ thông. Trong môn ngữ văn, ta sửdụng phổ biến:+ Tự luận ngắn.+ Tự luận ( làm văn).+ Trắc nghiệm khách quan.2.2.1. Tự luận ngắn:- Mục đích:+ Kiểm tra kiến thức cơ bản của học sinh.+ Khả năng ghi nhớ.+ Khả năng khái quát hóa của học sinh.- Ưu điểm và nhược điểm:* Ưu điểm:+ Kiểm tra và đánh giá học sinh khá chính xác.+ Kiểm tra trí nhớ học sinh và yêu cầu trong môn ngữ văn rất tốt.* Nhược điểm:+ Khó kiểm tra được năng lực nhận thức cấp cao của học sinh. Vì trong hìnhthức tự luận ngắn, chúng ta không thể ra những đề đòi hỏi chiều rộng và chiều sâu củakiến thức mà chỉ là những vấn đề nhỏ.+ Khó kiểm tra khả năng sáng tạo của học sinh.+ Học sinh có thể gian lận trong khi kiểm tra: xem tài liệu, nhìn bài của nhau.Ví dụ:Ě Tóm tắt sự nghiệp văn học của tác giả.Ě Quan điểm văn học của nhà văn, nhà thơ.Ě Nêu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.Ě Đặc điểm và thành tựu của thời kì văn học.Ě Đặc điểm của một phong cách ngôn ngữ.Ě Các khái niệm trong môn tiếng Việt.2.2.2. Tự luận ( làm văn)Phần môn làm văn là môn giáo viên gặp nhiều khó khăn. Lý do:+ Chưa thống nhất môn làm văn thuộc văn hay tiếng.+ Làm văn: học sinh cần sử dụng kiến thức nào?Ě Kiến thức văn.Ě Kiến thức Tiếng Việt.Ě Lý thuyết làm văn.+ Chương trình cũ:Ě Giải thích.Ě Chứng minh.Ě Phân tích: thời kì văn học, tác phẩm văn học, vấn đề, nhân vật, ...Ě Bình luậnĚ Bình giảng: văn học+ Chương trình mới:Ě Giới thiệu thuyết minh.Ě Miêu tả.Ě Phân tích.Ě Cảm nhận, cảm nghĩ.Ě Bình luận.=> Người ta đòi hỏi đổi mới cách ra đề kiểm tra đánh giá học sinh, cần chú ý:- Phải khuyến khích được tính chủ động và sáng tạo của học sinh. Giáo viên cóthể yêu yêu cấu học sinh phân tích những tác phẩm ngoài sách giáo khoa hoặc là giáoviên chưa từng giảng trên lớp.- Đối với đề tập làm văn thì phải kiểm tra được khả năng viết, cảm thụ văn họcvà kỷ năng tiếp nhận của học sinh. Những đề văn thuộc về nghị luận xã hội thì địnhhướng những vấn đề tư tưởng, đạo đức lối sống gần gũi với đời sống học sinh.- Ưu điểm và nhược điểm:* Ưu điểm:+ Ra đề khá dễ dàng, nhanh.+ Có thể kiểm tra được năng lực nhận thức cấp cao của học sinh: khả năngphân tích sâu sắc, khả năng cảm thụ văn học, đó là những khả năng mà các hình thứckiểm tra khác không kiểm tra được.+ Kích thích và phát triển năng lực sáng tạo của học sinh, đó cũng là cơ hộiđể các em học sinh bộc lộ năng lực riêng.* Nhược điểm:+ Độ bao phủ chương trình rất thấp. Vì chúng ta không thể ra nhiều câu tựluận trong kiểm tra, thi mà chỉ có thể ra từ 1 đến 2 câu và chỉ có thể tập trung đượcmột vấn đề tác phẩm, tác giả.+ Học sinh vẫn có thể gian lận trong khi thi.+ Chấm bài tự luận tốn nhiều thời gian, mệt mỏi, ... nhưng kết quả có độ tincậy không cao.+ Điểm số của bài tự luận bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố vốn khôngphải là mục tiêu kiểm tra chủ yếu: văn phong, chính tả, ...+ Trong thực tế, một bài văn tự luận các giáp viên chấm điểm có thể chođiểm khác nhau và đôi khi mức chênh lệch điểm là khá lớn.- Lưu ý khi sử dụng câu tự luận:+ Hiện nay chúng ta đang đổi mới cách đánh giá kết quả học tập của học sinhcho nên giáo viên ra câu tự luận trong một bài kiểm tra nên kết hợp với các câu trắcnghiệm khách quan để hình thức này bổ sung cho nhau.+ Khi ra đề tự luận nên hướng vào những mục tiêu cần đánh giá mà chínhhình thức khác không thể kiểm tra được.+ Đề làm văn phải truyền đạt thật rõ ràng những vấn đề mà các em phải giảiquyết.+ Giáo viên phải thật tỉ mỉ và chu đáo khi ra đề.- Chấm bài làm văn:Chấm 2 vòng độc lập ( bài làm văn thường). Dựa vào cơ sở khoa học.+ Người ra đề phải là người soạn đáp án, đáp án càng chi tiết bao nhiêu thì nócàng ít lạc điểm bấy nhiêu.+ Tất cả các giáo viên chấm cùng thảo luận để thống nhất những ý cần cótrong đáp án.+ Có thể chấm thử một số bài để điều chỉnh lẫn nhau cho công bằng.- Cách chấm:+ Thái độ giáo viên khi chấm bài: giáo viên phải có tình thương yêu học sinhvà khuyến khích học sinh vươn lên, tránh mạt xác học sinh bằng những lời phê khôngcó ý nghĩa giáo dục ( ví dụ: lộn xộn, lan man, ... ).+ Cách chấm: khi chấm bài làm văn ta phải khảo sát đồng thời cùng lúc vềnội dung và hình thức: ٭Nội dung:Ě Kiến thức: xét xem học sinh trình bày kiến thức có đầy đủ hay không?Sâu sắc hay là nông cạn? Đúng hay sai?Ě Chủ đề: xét xem bài làm của học sinh có đi đúng hướng hay không?Có những biểu hiện lạc đề, sai đề.Ě Tư tưởng: học sinh có bọc lộ những điều gì sai hay không?Người giáo viên cần phân biệt 2 loại:Loại 1: sai do nhận thức là lỗi nặng.Loại 2: sai do diễn đạt là lỗi nhẹ, đưa về lỗi diễn đạt. ٭Hình thức:Ě Kiểu bài: học sinh có triển khai sự trình bày theo đúng yêu cầu củakiểu bài hay không?Ě Hệ thống: bài làm của học sinh trình bày theo hệ thống nào? Có mạchlạc, chặc chẽ hay không? Cách sắp xếp có logic không?Ě Ngôn ngữ: đây là vấn đề phức tạp nhất trong chấm bài làm văn.- Chính tả: do phương ngôn nên nhiều học sinh viết sai chính tả, sainhững quy định chung mang tings pháp lí của nhà nước.- Ngữ pháp: thiếu chủ ngữ, vị ngữ, cả chủ ngữ và vị ngữ, ...Ě Trình bày: yêu cầu học sinh trình bày một cách sạch sẽ, đẹp mắt, trongthang điểm nên có một phần điểm trình bày ( tối đánh giá là một điểm).- Lời phê phải tương ứng với điểm số.- Mỗi bài văn trong những kì thi quan trọng cần có 2 giáo viên chấm độc lập vớinhau và người chấm bài không được biết học sinh nào đã làm bài văn đó.2.2.3. Trắc nghiệm khách quan:2.2.3.1. Dạng câu đúng / sai: ٭Cấu tạo: là một dạng câu hỏi được cấu tạo bằng một câu cho trước, dạngđơn giản, người làm phải trả lời một trong hai phương án trả lời sẵn có.Ví dụ:Câu 1: Bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu in trong tập thơ Thơ, xuất bản năm1938.ĐÚNGSAICâu 2: Huấn Cao cho chữ viên quản ngục để mong được đối xử tốt hơnĐÚNGSAI- Người ra đề phải viết câu hướng dẫn cách làm bài cho học sinh để tránh sựnhằm lẫn.Ví dụ: Hãy gạch chéo vào ô ĐÚNG nếu phát biểu sau đây là đúng, vào ô SAI nếuphát biểu là sai.- Câu hướng dẫn được đặt trước các câu đúng / sai. Nếu có nhiều câu đúng / saithì ta gom về một nhóm và chỉ cần dùng một câu hướng dẫn cách làm bài. ٭Sử dụng: Dạng câu đúng / sai có thể sử dụng để kiểm tra kiến thức họcsinh ở mức độ nhớ, hiểu. Trong một vài trường hợp, ta có thể kiểm tra được khả năngsuy luận của học sinh. Tuy nhiên đối với dạng trắc nghiệm khách quan ở môn ngữ vănthì ta dùng phổ biến nhất ở kiến thức nhớ. ٭Ưu điểm và nhược điểm:+ Ưu điểm:Ě Xây dựng câu hỏi tương đối dễ dàng, độ bao phủ kiến thức rất cao. Vìta có thể ra nhiều câu đúng / sai, rải đều trong chương trình học sinh đã học.Ě Chấm bài rấy nhanh, dễ dàng. Kết quả chấm bài có độ tin cậy rất cao.(giáo viên không thể đưa chủ quan vào chấm bài, nhưng khi ra đề vẫn còn yếu tố chủquan).+ Nhược điểm:Ě Không thể kiểm tra được khả năng nhận thức cấp cao của học sinhnhư: dùng từ, đặt câu, viết văn, ...Ě Học sinh vẫn có thể gian lận khi thi hoặc kiểm tra như nhìn bài nhau,bắt buột chúng ta phải nghĩ ra cách chống gian lận.Ě Xác xuấn chung cho học sinh đoán mò là đúng đến 50%. ٭Lưu ý:- Nên sử dụng kết hợp với các hình thức kiểm tra khác trong một bài kiểm tracó độ dài từ 45 phút trở lên, và trong suốt cả học kỳ, cả năm.- Câu hỏi cần đơn giản, tránh phức tạp dài dòng và chỉ nên tập trung vào một,cho đến tối đánh giá là hai thông tin quan trọng cần hỏi.- Nếu kiểm tra mức độ hiểu thì cần tránh sử dụng những câu nguyên văn ở sáchgiáo khoa hoặc sách giáo viên.- Phải đảm bảo chắc chắn câu đó đúng hoặc sai là đơn giá trị.2.2.3.2. Dạng câu điền khuyết: ٭Cấu tạo: Dạng câu điền khuyết được cấu tạo bằng một câu cho trước màtrong đó, ta lấy từ một đến hai thông tin quan trọng nhất. Nhiệm vụ người làm là phảichọn đúng thông tin để điền vào chổ trống trong câu.Ví dụ:Câu 1: Bài ký “ Người lái đò sông Đà” in trong tập .........................của...............xuất bản năm 1960.Câu 2: Câu ghép là câu có từ ............... cụm C – V trở lên và các cụm C – V......................- Người ra đề phải viết câu hướng dẫn làm bài: hãy điền thông tin đúng vào chổtrống trong câu. ٭Sử dụng: Người giáo viên có thể sử dụng loại câu điền khuyết để kiểm trakiến thức nhớ của học sinh là chính. Và cũng không nên hoặc hạn chế kiểm tra cácnăng lực nhận thức khác bởi vì thông tin điền vào chổ trống có thể là đánh giá nghĩa (hiểu đánh giá nghĩa). ٭Ưu điểm và nhược điểm:+ Ưu điểm:Ě Thiết kế câu hỏi dễ dàng, chấm bài nhanh, chính xác, kết quả có độ tincậy cao.+ Nhược điểm:Ě Nếu lạm dụng hình thức điền khuyết thì sẽ dẫn học sinh đến chỗ họcđối phó, học vẹt, ...Ě Học sinh có thể gian lận trong kiểm tra, thi.Ě Không thể kiểm tra được những năng lực nhận thức cấp cao. ٭Lưu ý:- Chỉ nên sử dụng câu điền khuyết kết hợp với các dạng câu khác và trong mộtđề kiểm tra nên sử dụng với một số lượng câu vừa phải, tránh lạm dụng.- Các thông tin đúng để điền vào khoảng trống có độ dài ngắn khác nhau nhưngcác khoảng trống mà ta để trong câu phải bằng nhau. ( Tạo yếu tố gây nhiễu).2.2.3.3. Dạng ghép đôi: ٭Cấu tạo: Có 2 cột thông tin tương ứng với nhau. Cột 1 là câu dẫn và cột 2là câu trả lời. Nhiệm vụ của người làm là ghép thông tin ở cột thứ 1 với cột 2 chođúng, hoặc là nối chúng với nhau tùy theo yêu cầu của người ra đề. Ta cũng cần cómột câu hướng dẫn cách làm bài.Ví dụ: Điền vào khoảng trống ở bên trái của bài thơ chữ cái tương ứng với tác giảcủa bài thơ đó theo cột bên phải:....b....1. Tỏ lòng.....a.... 3. Cảnh ngày hè.....c.... 2. Vận nước.....g.... 4. Cáo bệnh bảo mọi người.....d.... 5. Hướng trở về.....e.... 6. Nhàn.....f.... 7. Đọc tiểu thanh kí.a. Nguyễn Trãi.b. Phạm Ngũ Lão.c. Pháp Thuậnd. Nguyễn Trung Ngạn.e. Nguyễn Bỉnh Khiêm.f. Nguyễn Du.g. Mãn Giác ٭Sử dụng: Để kiểm tra kiến thức ghi nhớ của học sinh là chính. Có thểkiểm tra kiến thức học sinh về mối tương quan giữa 2 mảng kiến thức khácnhau, chủ yếu là ghi nhớ. ٭Ưu điểm và nhược điểm:+ Ưu điểm:Ě Kiểm tra nhiều vấn đề trong một khoảng thời gian ngắn.Ě Chấm dễ, nhanh, khách quan, kết quả tin cậy cao.+ Nhược điểm:Ě Thiết kế câu hỏi không dễ, tốn thời gian.Ě Không kiểm tra được những năng lực nhận thức cấp cao của học sinh.Ě Nếu lạm dụng thì sẽ dẫn học sinh đến chổ học vẹt, học mà không hiểu.Ě Học sinh có thể gian lận khi thi. ٭Lưu ý:- Thông tin mỗi cột phải cùng loại và đồng nhất.- Danh sách các thông tin ở mỗi đề mục không nên quá dài, không vượt quá 10.- Số lượng thông tin ở cột trả lời nên dùng nhiều hơn cột câu dẫn (để gây độnhiễu cao, tránh đoán mò).- Các thông tin ở mõi cột nên đánh số theo số thứ tự số học và thứ tự chữ cái.- Người giáo viên phải nói cho học sinh rõ cách làm ngay từ đầu để tránh nhằmlẫn.√ Nhận xét chung: Cả 3 hình thức trắc nghiệm: Đúng/Sai, điền khuyết và ghépđôi. Hiện nay sử dụng ở trường phổ thông tươn g đối ít. Nhất là đối với mônngữ văn. Người giáo viên sử dụng hình thức này với lượng vừa phải và kết hợphình thức kiểm tra khác để đánh giá học sinh chính xác hơn. Quan trọng làtránh sự lạm dụng.2.2.3.4. Dạng trắc nghiệm nhiều lựa chọn:32 ٭Cấu tạo: Được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới cũng như ở ViệtNam. Người ta cũng sử dụng nhiều trong các trò chơi trên các phương tiệnthông tin đại chúng.- Cấu tạo loại trắc nghiệm này có 2 phần: phần dẫn là phần câu hỏi nêu lênvấn đề chính, nó có thể là một câu hỏi trực tiếp hoặc là câu chưa hoàn chỉnh.Nếu là câu hỏi trực tiếp thì ở cuối câu có dấu chấm hỏi (?). Nếu là câu chưahoàn chỉnh thì cuối câu có dấu hai chấm (:). Phần câu dẫn không nên quá dài.- Trả lời là những đáp án có sẵn, gọi là các phương án trả lời. Trong đó chỉcó 1 phương án là đúng hoặc đúng nhất.Nhiệm vụ của người làm bài là lựa chọn ra phương án đúng hoặc đúngnhất. Những phương án còn lại gọi là câu nhiễu. Độ gây nhiễu càng cao thì câutrắc nghiệm càng tốt.Thông thường 1 câu trắc nghiệm có từ 3 đến 5 phương án trả lời.Nếu dùng 3 phương án thì tỉ lệ đoán mò của học sinh là đúng đến 33%, 4phương án là 25%.Thông thường người ta dùng 4 phương án là tốt nhất. 3 phương án thì tỉ lệđoán mò còn cao, 5 phương án thì khó viết câu gây nhiễu. ٭Sử dụng: kiểm tra nhiều năng lực của học sinh: nhớ, biết, hiểu, sángtạo.- Có thể sử dụng ở cả 2 phân môn: Đọc Văn và Tiếng Việt. ٭Ưu điểm và nhược điểm:+ Ưu điểm:Ě Kiểm tra học sinh ở tầm phổ quát rộng cả về năng lực.Ě Kiểm tra học sinh được nhiều câu, hạn chế việc học tủ của họcsinh.Ě Kết quả đem lại độ tin cậy rất cao.Ě Hạn chế được tình trạng gian lận trong kiểm tra, thi.Ě đánh bài nhanh, dễ, khách quan.+ Nhược điểm:33Ě Thiết kế một câu tốn nhiều thời gian vì vậy người giáo viên có ýthức lựa chọn dần dần để có một ngân hàng đề kiểm tra.Ě Không kiểm tra được năng lực nhận thức cấp cao của học sinhnhư: trình bày vấn đề, khả năng cảm thụ môn học, khả năng sử dụng ngôn ngữ.Ě Vẫn còn tình trạng học sinh nhìn bài nhau và đoán mò nhiều khivẫn đúng. ٭Lưu ý:- Mỗi câu chỉ hỏi một vấn đề duy nhất.- Một câu hỏi đảm bảo có một đáp án trả lời đúng nhất.- Không nên thiết kế câu hỏi theo quan điểm cá nhân để tránh gây sự tranhcãi không cần thiết.+ Câu dẫn:Ě Câu hỏi rõ ràng, trong sáng, học sinh đọc lên hiểu ngay.Ě Nếu sử dụng câu hỏi trực tiếp thì cuối câu đạt dấu chấm hỏi (?),nếu là câu chưa hoàn chỉnh thì cuối câu phải có dấu hai chấm (:).Ě Không dùng từ ngữ không cần thiết.+ Câu trả lời:• Các đáp án phải trình bày theo hàng dọc và dùng chữ cái inhoa A, B, C, D.• Các đáp án phải độc lập với nhau. Một câu hỏi cũng mangtính độc lập với câu khác. Không để học sinh lấy dáp án câunày giải cho câu khác.• Các đáp án phải cùng loại.• Hạn chế dùng các đáp án như: tất cả đều đúng, tất cả đềusai.3. QUY TRÌNH THIẾT KẾ BÀI KIỂM TRA VÀ VIỆC ĐÁNH GIÁ KẾTQUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH3.1. Xác định mục đích đánh giá:3.1.1. Mục đích chung (Tính chất của kiểm tra):34 |