Xác định thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ việc dân sự như thế nào

1. Quy định chung về Tòa án nhân dân

Ở Việt Nam, hệ thống toà án nhân dân bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các toà án nhân dân địa phương, các toà án quân sự và các toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính...

Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở địa phương có các toà án nhân dân tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương; các toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Trong quân đội nhân dân Việt Nam có toả án quân sự trung ương, các toà án quân sự quân khu và tương đương, các toà án quân sự khu vực.

2. Khái niệm về vụ việc dân sự

Để tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, v.v. trước khi có Bộ luật tô' tụng dân sự năm 2004 Nhà nước ta đã ban hành nhiều vặn bản pháp luật về tố tụng, trong đó có Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự [năm 1989] , Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế [năm 1994] , Pháp lệnh thủ tục giải quyết các trạnh chấp lao động [năm 1996] , Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài [năm 1993] và Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài [năm 1995] . Các pháp lệnh này đã phát huy tôì đa tác dụng trong quá trình giải quyết các tranh chấp và yêu cầu của các bên.

Ở thời điểm các pháp lệnh này có hiệu lực chưa có khái niệm về việc dân sự và đương nhiên không có thủ tực cho loại việc này; cũng chưa có khái niệm về vụ việc dân sự. Lúc đó, chỉ có khái niệm vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, vụ án kinh tế, vụ án lao động và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, các pháp lệnh này đã có quy định về trình tự, thủ tục giải quyết cho từng loại việc tương ứng. Các trình tự, thủ tục giải quyết vụ án được quy định trong ba pháp lệnh nêu trên vừa có những điểm chung giống nhau, nhưng trong mỗi pháp lệnh lại có những quy định đặc thù rất khác nhau.

Qua thực tiễn cho thấy, có những điểm quy định khác trong các Pháp lệnh nói trên là không hợp lý, không phù hợp với thực tiễn nên rất khó áp dụng. Chúng ta đều biết, bản chất các tranh chấp về kinh doanh, thương mại và tranh chấp về lao động có cùng sự bắt nguồn từ dân sự, trong một số trường hợp việc phần biệt thẩm quyền giữa dân sự và kinh doanh, thương mại, lao động là rất khó khăn nên rất hay nhầm lẫn. Hơn nữa, để đáp ứng sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đòi hỏi luật nội dung cũng như luật tố tụng phải có sự tương thích của pháp luật trong nưdc với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết, hoặc gia nhập. Vì vậy, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã quy định một thủ tục chung về việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại, về dân sự, hôn nhân và gia đình, về lao động và đồng thời Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định những điểm đặc thù cho mỗi loại việc một cách hợp lý.

Trong đó có phân chia ra hai loại thủ tục đó là trình tự, thủ tục khỏi kiện để Tòa án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động [sau đây gọi chung là vụ án dân sự] và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động [sau đây gọi chung là việc dân sự].

Như vậy, theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ việc dân sự được hiểu là các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các việc về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

Trong phạm vi của chuyên đề này tác giả chỉ đề cập thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết các tranh chấp vể dân sự, hôn nhân gia đình và các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình.

3. Phân loại thẩm quyền của Tòa án

3.1. Thẩm quyền của Tòa án theo loại việc

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo loại việc là tổng hợp các loại vụ việc về dân sự mà Tòa án có thẩm quyền thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự [TTDS]. Thẩm quyền về loại việc của Tòa án sẽ phân định với những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan khác.

Bộ luật Tố tụng Dân sự [BLTTDS] năm 2015 được xây dựng dựa trên Hiến pháp năm 2013 và theo đó nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được ghi nhận tại Điều 4 BLTTDS năm 2015. Đáng chú ý là sự bổ sung khoản 2 Điều luật này: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”, đây có thể nói là sự thay đổi quan trọng nhất của BLTTDS năm 2015 so với BLTTDS năm 2004 [sửa đổi, bổ sung năm 2011] nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân, quyền tiếp cận công lý của người dân được thực hiện.

3.2. Thẩm quyền của Tòa án theo cấp

Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án năm 2014 quy định về hệ thống tổ chức Tòa án thì TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đối với các VADS. Do vậy, việc xác định đúng thẩm quyền của Tòa án theo cấp chỉnh là việc xác định xem đối với một VADS cụ thể TAND cấp huyện hay TAND cấp tỉnh sẽ có thẩm quyền giải quyết. Việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo cấp được quy định tại Điều 35, 37 BLTTDS năm 2015 dựa trên tính chất phức tạp của từng loại vụ việc, dựa vào điều kiện cơ sở vật chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ thực tế của đội ngũ cán bộ Tòa án.

3.3. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của các bên đương sự

Về nguyên tắc việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ phải được tiến hành dựa trên cơ sở bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn, bảo đảm việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự nhưng vẫn đảm bảo Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án thuận lợi nhất cho việc tham gia tố tụng của đương sự, là Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất để giải quyết vụ án. Về căn bản các quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ tại Điều 39 và Điều 40 BLTTDS năm 2015 đã kế thừa các quy định của BLTTDS trước đây.

4. Cơ sở của việc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ

Cơ sở pháp lý cho việc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ là Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Pháp luật quy định việc phân chia thẩm quyền theo lãnh thổ đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự theo trình tự sơ thẩm giữa Tòa án cùng cấp với nhau là nhằm chỉ rõ Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự đó, tránh sự chồng chéo trong việc thực hiện thẩm quyền giữa Tòa án cùng cấp, và bảo đảm sự hợp lý và thuận lợi cho việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng, đúng đắn, tiết kiệm thời gian, công sức đi lại, thu thập, kiểm tra, xuất trình chứng cứ của đương sự và của Tòa án, tạo thuận lợi cho các bên đương sự đặc biệt là đương sự bị khởi kiện tham gia tố tụng, từ đó bảo đảm được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đồng thời góp phần hạn chế việc khởi kiện thiếu căn cứ, gây khó khăn, phiền nhiễu cho bên bị khởi kiện.

5. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ [Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành]

Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự theo trình tự sơ thẩm là Tòa án nơi bị đơn, nơi người bị yêu cầu cư trú, làm việc [nếu là cá nhân] hoặc nơi bị đơn có trụ sổ [nếu là cơ quan, tổ chức], trừ trường hợp tài sản tranh chấp là bất động sản thì do Tòa án nơi có bất động sản giải quỳết. Ngoài ra, các bên có quyền thỏa thuận chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hay có trụ sở giải quyết.

- Từ nguyên tắc chung nói trên việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ án về dân sự, hôn nhân và gia đình theo trình tự sơ thẩm của Tòa án theo lãnh thổ là:

+ Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì nếu bị đơn là cá nhân sẽ do Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết, nếu bị đơn là cợ quan tổ chức thì Tòa án nơi bị đơn có trụ sở có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26, 28 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành.

Trong thực tế có một số Tòa án lúng túng trong việc xác định thẩm quyền khi nơi cư trú, làm việc của bị đơn khác nhau, về vấn đề này cần phải xác định như sau:

Pháp luật quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trứ, làm việc nếu bị đợn là cá nhân, vì vậy nếu bị đơn cư trú một nơi, làm việc một nơi thì phải xác định thẩm quyền là nợi mà bị đơn cư trú. Trong trường hợp không thể xác định được nơi cư trú thì Tòa án nơi bị đơn làm việc có thẩm quyển giải quyết.

Việc xác định nơi cư trú là một vấn đề cũng khá phức tạp. Có trường hợp bị đơn ở một nơi hộ khẩu một nơi, thậm chí không rõ nơi ở thường xuyên, không có hộ khẩu mà chỉ có tạm trú, đặc biệt là đôì với người, chưa thành niên, người thường làm nghề lưu động; quân nhân thì xác định nơi cư trú như thế nào là vấn đề nhiều Thẩm phan còn lúng túng.

Để xác định nơi cư trú của một cạ nhân trước tiên phải căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự, từ đó giải thích cụ thể nhằm áp dụng cho các trưòng hợp sẽ gặp trong thực tiễn.

Theo quy định tại Điều 40 Bộ luật dân sự năm 2015 thì nơi cư trú của một cá nhân là nơi người đó thường xuyên sinh sống, chứ không đòi hỏi thêm điều kiện phải có hộ khẩu thường trú nhự Bộ luật dân sự năm 1995,

Trong trường hợp không xác định được nơi người đó thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là nơi người đó đang sinh sống.

xác định nơi cư trú của cá nhân là nợi người đó thường xuyên sinh sống có thể sẽ gặp khó khăn, vì họ không sông thường xuyên ố một nơi cố định, trọng trường hợp này việc xác định nơi người đó đang sinh sống được coi là nơi họ cư trú. Do không phải là nơi họ thường xuyên sinh sống; mà chỉ là nơi người đó đang sinh sống; do đó, sẽ có trường hợp sau khi Tòa án nhận đơn, thụ lý thì đương sự đã di chúyển đến nơi khác sống. Nếu Tòa án đã thụ lý và thông báo nội dung khởi kiện, nội dung yêu cầu mà khi đương sự di chuyển đi nơi khác sinh sống không thông báo cho người khởi kiện, ngưòi yêu cầu hoậc cho Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự thì được coi là họ cố tình dấu địa chỉ, Tòa án đã thụ lý vụ việc dân sự tiếp tục yêu cầu bên khởi kiện, bên yêu cầu thực hiện nghĩa vụ chứng minh và giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục chung.

Nếu Tòa án chưa kịp thông báo và không có chứng cứ chứng minh đương sự bị khởi kiện, bị yêu cầu chuyển đi nơi khác sinh sống là do cố tình dấu địa chỉ thì được coi là không xác định được địa chỉ của bị đơn, người yêu cầu. Tại khoản 2 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định: “Trong trường hợp người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 189 của Bộ luật này thì Toà án tiếp tục việc thụ lý vụ án; nếu họ không sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện”. Như vậy, nếu như người khởi kiện không bổ sung được địa chỉ của bị đơn thì Tòa án căn cứ khoản 2 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành trả lại đơn khởi kiện.

Về nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khấc nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà ngưòi chưa thành niên thường xuyên sinh sống.

Nơi cư trú của quân nhân. Nơi cư trú của quân nhân đang làm nghĩa vụ quân sự là nơi đơn vị của quân nhân đóng quân.

Nơi cư trú của sĩ quan quân đội, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng là nơi người đó thường xuyên sinh sống, nếu họ không có nơi thường xuyên sinh sống thì là nơi đơn vị của người đó đóng quân.

Nơi cư trú của người làm nghề lưu động: Nơi cư trú của người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền, phương tiện hành nghề lựu động khác là nơi người đó thường xuyên sinh sống, nếu họ không có nơi thường xuyên sinh sống thì nơi cư trú là nơi đăng ký tàu, thuyền, phương tiện đó.

Nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức theo quy đỉnh tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì Tòa án nơi bị đơn có trụ sở có thẩm quyền giải quyết thẹo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động theo quy định tại Điều 26, 28, 30, 32 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Trong thực tiễn có Tòa án lụng túng trong xác định thẩm quyền khi bị đơn thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 469 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành. Theo quan điểm của các Tòa án này thì không áp dụng điểm a khoản 1 Điều 39 vì điểm a khoản 1 Điều 39 không đề cập Điều 469. Vì vậy, phải áp dụng điểm c khoản 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành “nếu bị đơn không có trụ sở ỏ Việt Nam thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết”, có thể cho rằng, Điều 469 Bộ luật tô tụng dân sự hiện hành chỉ đề cập việc xác định thẩm quyền cho Tòa án Việt Nam, không có ý nghĩa phân biệt thẩm quyền theo lãnh thổ. Đó là lý dó vì sao Điều 39 không dẫn chiếu đến Điều 469 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành.

Tại điểm a, khoản 2 Điều 469 nêu trên đã quy định “bị đơn là cơ quan, tổ chức nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc bị đơn có cơ quan quản lý, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam”, như vậy, điểm a khoản 1 Điều 469 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành đã chỉ rõ bị đơn có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam, điều đó có nghĩa là các cơ quan này phải nằm trên một vùng lãnh thổ nhất định của Việt Nam nên không áp đụng điểm c, khoẫn 1 Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành mà căn cứ vào trụ sở, chi nhánh... của cơ quan, tổ chức đó đóng trên địa bàn hành chính của Tòa ẵn quận, huyện nào ở Việt Nam thì Tòa án đổ áp dụng điểm á, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành để xác định thẩm qúyền.

Đối với các trường hợp bị đơn là các công týi chi nhánh, v.v. có trụ sở rõ ràng ở một địa danh nhất định, nhứng không xác định được địa chỉ của Giám đốc, Thủ trưởng các cơ quan đó, có Tòa án trả lại đơn khởi kiện cửa nguyên đơn vôi lý do không xác định được địa chỉ của bị đơn là không chính xấc. Đối với các công ty, xí nghiệp, chi nhánh, v.v. đã xác định được địa chỉ thì dù chưá xác định được địa chỉ của người, đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quỹền, các Tòa án nơi công ty, xí nghiệp, V.V. .có trụ sở phải thụ lý. Vì chính các công ty, xí nghiệp mới là bị đơn, chứ không phải người đặi diện theo pháp luật, đại diện theo ủy qúyền là bị đơn.

+ Các đương sự có quyền thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gỉa đình.

Tuy nhiên cần lưu ý là: sự thỏa thuận nói trên phải bằng văn bản, đồng thời sự thỏa thuận của các đương sự phải phù hợp với quy định của pháp luật về thẩm quyền của Tòa án các cấp, được quy định tại Điều 33 và Điều 34 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì mới có giá trị.

Ví dụ: loại vỉệc đó thuộc thẩm quyển của Tòa án cấp huyện thì không đước thỏa thuận để Tòa án cấp tỉnh giải quyết và ngược lại.

+ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp; về bất động sản [điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành].

Bất động sản là loại tài sản có đặc điểm là không di dời được, đó là. đất đai và các tài sản khác gắn liền vổi.đất đai như nhà ỏ, công trình xây dựng, V.V.. Thông thường các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản sẽ do cơ quan tài nguyên môi trường, nhà đất chính quyền nơi có bất động sản đó lưu giữ. Vì thế, Tòa án nơi có bất động sản sẽ là Tòa án có điều kiện thuận lợi nhất trong việc xác minh, kiểm tra, xem xét tại chỗ tình trạng của bất động sản, cũng như thu thập tài liệu có liên quan đến bất động sản.

Đối với cấc tranh chấp về bất động sản, các bên đương sự không có quyền thỏa thuận về việc yêu cầu Tòa án nơi không có bất động sản giảỉ quyết.

Chỉ những quan hệ pháp luật có đối tượng tranh chấp là bất động sản thì mới thực hiện theo quy định là Tòa án nơi có bất động sản giải quyết. Do đó, trong vụ án tuy có loại tài sản là bất động sản nhưng loại tài sản là bất động sản đó không phải là vật có tranh chấp hoặc tuy có tranh chấp nhưng đó không phải là quan hệ pháp luật chính cần giải quyết thì không áp dụng điểm c khoản 1 Điểu 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành.

Ví dụ 1: Trong việc dân sự yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú: Anh Q và chị L đều cư trú tại huyện H, anh Q có yêu cầu Tòa án giải quyết việc thông báo tìm kiếm chị L là người vắng mặt tại nơi cư trú và áp dụng biện pháp quản lý tài sản là nhà đất của chị L ở huyện N thì thẩm quyển giải quyết loại việc này là Tòa án nhàn dân huyện H. Như vậy, trong trường hợp này không phải Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết mà phải là Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm ngưòi vắng mặt tại nơi cư trú có thẩm quyền giải quyết.

Ví dụ 2: Trong vụ án ly hôn: Anh p và chị Y đều cư trú ỏ huyện R. Anh p có đơn khởi kiện xin ly hôn chị Y và có yêu cầu Tòa án giải quyết quan hệ tài sản là nhà đất của vợ chồng ỏ huyện c. Trong trường hợp này Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc lỵ hôn và chia tài sản chụng của vợ chồng anh A là Tòa án nhân dân huyện R.

Ví dụ 3: Ông A ở huyện K, ông B ở huyện Q tranh chấp nhà đất ở huyện H thì Tòa án có thẩm quyện giải quyết là Tòa án nhân dân huyện H.

Tóm lại: trong vụ án về hôn nhân và gia đình, thừa kế tài sản... các việc dân sự mà có tranh chấp về bất động sản hoặc có liên quan đến bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được xác định theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điểu 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành.

- Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

Việc dân sự, hôn nhân và gia đình là loại việc không có tranh chấp, nên không có nguyên đơn, bị đơn mà chỉ có người yêu cầu và người bị yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do đó, việc quy định thẩm quyền giải quyết theo lãnh thổ đối với việc dân sự cũng đi theo xu hướng là Tòa án nơi cư trú, làm việc của người bị yêu cầu giải quyết. Song, do đặc thù của loại việc dân sự nên cũng có những quy định khác, cụ thể nhự sau:

+ Đối với việc yêu cầu tuyên bô' một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự thì sẽ do Tòa án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết;

+ Đối với việc yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết thì sẽ dó Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm ngưòi vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có hơi cư trú Cuối cùng giải quyết;

+ Tòa án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hòặc là đã chết có thẩm quyền gỉải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bô'mất tích hoặc là đã chết;

+ Đốỉ với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì sẽ do Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện giải quyết;

+ Đốì vói yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn thì sẽ do Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc giải quyết;

+ Đối với yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi ngườitrực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì sẽ do Tòa án hơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc giải quyết;

+ Đối với yêu cầú hạn chế quyền củã cha, mẹ đối với còn chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn sẽ do Tòa án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc giải quyết;

+ Đối với yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thì sẽ do Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hóặc con nuôi cư trú làm việc giải quyết.

+ Đối với yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì sẽ do Tòa án nơi phòng công chứng, văn phòng công chứng đã thực hiện việc công chững có trụ sở có thẩm quyền giải quyết.

+ Toà án nơi Cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyển sử dụng tặi sản, phân,:chia tài sản chung để thi hành án theo quỵ định của pháp luật.

Lưu ý: Việc xác định nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành được xác định tại thời điểm nộp đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự.

Video liên quan

Chủ Đề