Thể loại thần thoại là gì

Thần Thoại Là Gì – Thần Thoại Trong Văn Học Dân Gian

Nguyễn Thị HuếĐào tạo01 Tháng 11 2011Lượt xem: 27993

Thần thoại những dân tộc VN, chuyên mục and thực chất

I. Khái niệm thần thoại

Thần thoại là gì? Thần thoại theo Mác nói chính là sắc đẹp “một đi không quay về” của loài người khi thế giới nguyên thuỷ kết thúc. Sự thực thì trên toàn cầu, bất kể dân tộc nào cũng có thần thoại.

Bài Viết: Thần thoại là gì

E.M. Mêlêtinxki đã định nghĩa thần thoại như sau: Thần thoại có nền tảng từ tiếng Hy Lạp, nghĩa đen là truyền thuyết, huyền thoại. Thường người ta hiểu chính là các truyện về những vị thần, những nhân vật đc sùng bái hoặc có quan hệ nền tảng với những vị thần, về những dòng đời có mặt trong thời điểm khởi đầu tham gia thẳng trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc tạo lập toàn cầu y hệt như vào việc tạo lập nên các yếu tố của nó – thiên nhiên and văn hoá[1].

Thần thoại là bề ngoài sáng tác của con người thời buổi xa xưa, nó biểu thị ý thức muốn thăm dò thiên hà, lý giải thiên hà and chinh phục toàn cầu bỗng nhiên của con người. Luôn giao tiếp với thiên nhiên kỳ vĩ, bí mật, con người đã tưởng tượng, lý giải thiên nhiên bằng trí hình dung của tớ, tạo được cho những hiện tượng bao quanh  mình các hình ảnh sáng tạo, các câu chuyện đa chủng loại, tưởng tượng ra những vị thần to lao, các lực lượng siêu nhiên, hữu linh. Bằng phương pháp đó, con người đã làm ra thần thoại.

II. Tiền đề thế giới – cơ sở hình thành and lưu truyền thần thoại

Theo quan điểm của Mác thì thần thoại gắn liền với thời kỳ ấu thơ của nhân loại “trong các tình huống thế giới vĩnh viễn không khi nào quay về nữa”, nó là thứ “nghệ thuật vô ý thức”. Cũng theo Mác thì “Thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối and nhào nặn các sức khỏe bỗng nhiên ở trong trí hình dung and bằng trí hình dung”. Nghĩa là đã không còn nào hiểu and lý giải đúng thần thoại nếu tách nó ra ngoài thế giới nguyên thuỷ, toàn cầu quan thần linh and có nhu cầu lý giải, chinh phục bỗng nhiên, thế giới của con người thời cổ đại. Áp dụng trí hình dung để tưởng tượng, giải thích and chinh phục toàn cầu, người nguyên thuỷ đã tạo được thần thoại and thần thoại là một hình thái ý thức nguyên hợp nhiều công dụng [là khoa học and nghệ thuật vô ý thức, đồng thời còn là tín ngưỡng, tôn giáo của những người nguyên thuỷ].

Với Việt Nam, chắc chắn thần thoại cũng đã ra đời khá sớm, đc thoát thai từ triết lý sống bỗng nhiên của con người, đc sáng tạo được trong thời kỳ những thị tộc, bộ lạc đã sớm có ý thức về địa vực cư trú and ý thức về giống nòi. Đi sâu vào content thần thoại các bạn sẽ cảm nhận thấy sống lại không khí sinh động của 1 thời kỳ mà tài liệu chính sử đã không nói đến. Thần thoại gợi lên cho các bạn sự cảm thông với dân tộc thuở nguyên vẹn, tươi trẻ của con người buổi khởi đầu.

Trong các công trình nghiên giúp về nghệ thuật nguyên thuỷ, những nhà khoa học đã nhận được cảm nhận thấy rằng trong giai đoạn phát triển trước tiên của lịch sử loài người, y hệt như các vận động tinh thần khác, nghệ thuật không tồn tại bên dưới dạng độc lập, mà gắn bó and đa số hoà làm một với vận động thực tế của con người. Thần thoại là một bộ phận của nền nghệ thuật ấy, nó cũng phát sinh and nảy nở trên cơ sở đời sống lao động and các sinh hoạt của những người xưa.

Những nhà nhân chủng học cổ xưa châu Âu thế kỷ XIX đã nhìn cảm nhận thấy trong những thần thoại cách hồn nhiên, tiền [hayphản] khoa học khi giải thích toàn cầu bao quanh nhằm thoả mãn “sự tò mò” của những người nguyên thuỷ vốn bị đè nặng bởi các sức khỏe hung bạo của bỗng nhiên.

E.M. Mêlêtinxki đã có lần chỉ rõ: “Trong thần thoại có sự đan kết các nhân tố phôi thai của tôn giáo, triết học, khoa học and nghệ thuật. Quan hệ hữu cơ của thần thoại với lễ nghi vốn đc tiến hành qua những phương tiện âm nhạc, vũ đạo, những phương tiện “tiền sân khấu” and ngôn từ…”.

Ông cũng dẫn ra rằng người nguyên thuỷ chưa tách mình ra khỏi môi trường thiên nhiên bỗng nhiên and thế giới xung quanh and tư duy nguyên thuỷ còn giữ các tính chất của sự chưa phân tách, nó đa số chưa tách khỏi môi trường thiên nhiên điểm khác biệt, tự phát. Hệ quả của điều đó là sự nhân hoá hồn nhiên tất cả thiên nhiên, sự đối chiếu “ẩn dụ” những đối tượng người dùng thiên nhiên, thế giới, văn hoá. Người nguyên thuỷ tưởng tượng những hiện tượng bỗng nhiên như với con người, gán cho chúng tâm hồn, lí trí, cảm tình con người…[2].

Theo Đinh Gia Khánh, thì ở việt nam “Thần thoại đã nảy sinh từ cuộc sống của những người nguyên thuỷ and phát triển theo nhu yếu của thế giới Lạc Việt”[3], có nghĩa là thần thoại có từ trước công nguyên, trước thời Bắc thuộc, and vì các lý do riêng, các thiên thần thoại đó đã không còn gì giữ lại bề ngoài bước đầu của chúng nữa and thậm chí diễn biến cũng đã cân chỉnh đi nhiều.

Đồng quan điểm như trên, những nhà nghiên giúp Đỗ Bình Trị, Chu Xuân Diên cũng nêu ra những ý kiến: “Nói một phương pháp dễ chơi thần thoại là một loại truyện nói về thần, mang nhân tố thiên nhiên and có mặt vào thời kì khuyết sử”[4] and “Thần thoại chỉ có thể có mặt trong trong giai đoạn thấp của sự phát triển thế giới and của sự phát triển nghệ thuật. Trong giai đoạn đó, thần thoại đã có rất nhiều một vai trò tích cực trong đời sống tinh thần của con người: chính là phương tiện nhận thức quan trọng của những người nguyên thuỷ, cũng là một trong các nguồn hình thành các trị giá tinh thần cổ điển trước tiên của dân tộc”[5].

Con người thời kỳ nguyên thuỷ trong khi giao tiếp với thiên nhiên, giao tiếp với những hiện tượng thiên hà kỳ bí, họ đã muốn nỗ lực thăm dò, xuyên qua cái vẻ ngoài để nhận thức toàn cầu, nhận thức bỗng nhiên.

Sự nhận thức toàn cầu của con người lúc chính là hoang đường and ấu trĩ. Con người hình dung ra and đặt niềm tin vào sự hình dung ấy, rằng toàn cầu là do những vị thần linh tạo được. Trái đất đó luôn bí mật and lớn to, nó chế ngự con người and luôn luôn đe doạ đời sống của họ.

Trong các bước lao động, chế tạo, con người nguyên thuỷ đã vận dụng lý trí non nớt, sự phân biệt thô sơ của tớ về thiên nhiên, thiên hà để tìm câu vấn đáp cho các gì xảy ra bao quanh như: Tại sao lại thêm ngày? Tại sao lại thêm đêm? Tại sao lại thêm bầu trời? Tại sao lại thêm mặt đất? Tại sao lại thêm  mặt trời, mặt trăng and những vì sao? Tại sao lại thêm sự sống, sự chết? Con người sinh ra từ đâu? Tại sao lại thêm mưa gió, bão lụt, hạn hán?…And còn rất đông thắc mắc khác. Chính vì vậy, họ đã làm ra thần thoại. And Mác đã gọi thần thoại là thứ nghệ thuật đc người xưa sáng tạo được một phương pháp không tự giác.

Người cổ đại đã coi thần thoại là các thiên lịch sử. Họ biết trân trọng trong việc lưu truyền and thần thoại đều đc đặt thành văn vần cho dễ nhớ. Ở những dân tộc Mường, Tày, Thái hay những dân tộc Tây Nguyên… thì việc hát thần thoại, anh hùng ca là có, như Đẻ đất đẻ nước của những người Mường, sử thi – khan Đam San, Xing Nhã của những người Êđê, Djông của những người Bana… Nhưng ở người Việt do hoàn cảnh lịch sử mà những thần thoại đã không giữ lại đc nguyên vẹn, chỉ còn các truyện riêng rẽ, ngắn gọn mà thôi…

Như thế, có thể nói, mỗi dân tộc thời cổ đều chứa một kho thần thoại riêng. Ở các dân tộc sớm có tình huống phát triển thì nền văn hoá của họ rất được thành lập sớm hơn các dân tộc chậm phát triển, chữ viết đc hình thành đã là phương tiện cứu những dân tộc lưu lại đc sớm and có hệ thống các thần thoại truyền tụng đương thời. Ngược lại, ở những dân tộc chậm tiến, thần thoại của họ trong một các bước lâu dài đc lưu truyền bằng miệng. Nhiều nguyên nhân như chế độ thế giới cân chỉnh, thần thoại bị biến tướng, hoặc do văn hoá phía ngoài xâm nhập, thần thoại bị pha trộn, hay do không có chữ viết, thần thoại không đc ghi giữ lại nên chỉ còn từng mảnh rời rạc, thiếu vắng… Đến nay, do hoàn cảnh lịch sử, thần thoại Việt Nam đã bị mất mát khá nhiều, nhưng số truyện đc sưu tầm, ghi chép cũng có tới hàng trăm đơn vị. Cấu trúc phần nhiều đều ngắn gọn, diễn biến dễ chơi, ít chặt chẽ. Nó phản ánh thế giới, tư tưởng, tâm hồn and biểu thị đc các vấn đề căn bản của nhiều dân tộc ViệtNam.

Thần thoại những dân tộc thiểu số người VN đã phản ánh một phương pháp kỳ diệu nhận thức của con người về thiên hà, về công cuộc chinh phục thiên nhiên and về những sinh hoạt thế giới của những dân tộc trong thời kỳ xa xưa.

Bề ngoài dấu hiệu căn bản của thần thoại những dân tộc là các vận động trình diễn mang tính tổng hợp, đa chủng loại and phức hợp. “Thần thoại có quan hệ với tín ngưỡng and tôn giáo… Nhiều thần thoại gắn với những nghi lễ tôn giáo, ma thuật and dường như có mục đích giải thích nền tảng and content ý nghĩa của những nghi lễ đó”[6]. Nó kể cả những bề ngoài nghi lễ cổ sơ, những phong tục and những bề ngoài diễn xướng, nhảy múa, ca hát, v.v… Thí dụ, ở dân tộc Việt, các lời ca cổ cũng là các thiên thần thoại còn sót lại: “Ông Đếm cát, ông Tát bể, ông Kể sao, ông Đào sông, ông Xây rú…”

Ở dân tộc Mường, khi thực hiện những nghi lễ tang ma cũng đó chính là lúc họ diễn kể thần thoại[7]. Tất cả hệ thống mo Đẻ đất đẻ nước, áng mo thần thoại, đã đc hát kể trong mười mấy ngày đêm liền [có địa chỉ là 12 ngày đêm]. Trong không khí tiễn đưa người chết, người ta đc ông mo hát kể cho nghe về việc sinh ra Trời, sinh ra Đất, về việc đẻ Nước, đẻ Mường, về việc sinh ra Người and vạn vật cùng muông thú. Qua lời mo trong Đẻ đất đẻ nước, người Mường đã kể rằng:

Ông Thu Tha, bà Thu Thiên

Ra truyền: làm ra Đất ra Trời.

Mo Đẻ đất đẻ nước đã phản ánh nhân sinh quan, toàn cầu quan nguyên thuỷ and phản ánh về các bước hình thành dân tộc của những người Mường. Content chính của áng mo đó là các mẩu chuyện thần thoại đc link cùng với nhau bởi những lời ca mang content tự sự. Đẻ đất đẻ nước là tác phẩm mang đậm đặc điểm sử thi – thần thoại của dân tộc Mường[8].

Một số những dân tộc khác cũng có cổ điển hát kể thần thoại như dân tộc Mường, chính là dân tộc Thái, Tày and những dân tộc Tây Nguyên, thần thoại không các chỉ đc tồn tại, lưu truyền ở dạng các truyện kể lẻ loi, sơ khai mà còn đc gia nhập khẩu hệ thống hát kể mo, then, sử thi-khan của những dân tộc đó.

Sử thi – thần thoại Ẳm ẹt luông ở dân tộc Thái gồm ba phần chính: Ẳm ẹt luông [Khai sinh ra cái To], Ẳm ẹt nọi [Khai sinh ra cái Nhỏ dại] and Khay phắc phạ [Mở họng Trời]. Tác phẩm với các câu mở màn như sau:

Mo xin kể năm kể tháng mới có

Mo xin kể năm kể tháng trời mới làm ra

Ngày xưa thời trước, ngày xưa thời lâu

Họ hỏi: Đồ gì có sau Trời? Đồ gì có sau Đất?

Những tác phẩm này thường đc những thày mo đọc trong những buổi cúng lễ, bản chất là các áng văn vần dài kể lại nền tảng sinh ra trời đất and muôn loài, kể lại các bước đấu tranh khổ sở của loài người nhằm để sinh tồn and phát triển. Những tác phẩm này gần giống tác phẩm Đẻ đất đẻ nước của những người Mường.

So với những dân tộc Tây Nguyên, nhiều thần thoại and nhân vật thần thoại đã gia nhập and tái hiện vào những sử thi – khan. Sinh hoạt hát kể sử thi – khan là một có nhu cầu sinh hoạt tinh thần đã không còn nợ trong đời sống người dân Tây Nguyên hàng tỷ đời nay. Trong vốn từ vựng của những dân tộc này, sử thi – khan đc người Bana gọi là Hmon, người Êđê gọi là Khan, người Giarai gọi là Hri, người Mnông gọi là Ot Ndrông. Sử thi đc những nghệ nhân dân gian diễn xướng theo cách kết hợp những nhân tố hát, kể, đối thoại and làm điệu bộ diễn xướng. Theo ngôn ngữ của những người Mnông: Ot có nghĩa là hát, kể. Còn Ndrông là các câu chuyện xa xưa. Người Mnông hát kể Ot Ndrông sau các ngày phát rẫy, tra hạt, làm cỏ and thu hoạch mùa màng. Người Êđê sinh hoạt hát kể sử thi- khan trong những buổi uống rượu cần, trong những lễ hội and các đêm sau mùa gặt hái. Người Bana có thể hát, kể Hmon bên bếp lửa, trong hộ gia đình dòng họ, khi lên rẫy, đi rừng… Trong các tác phẩm sử thi – khan, các thiên thần thoại cùng những nhân vật của nó đã là các phần chính yếu tạo được cốt lõi của những tác phẩm[9].

Các bề ngoài sinh hoạt này đã cứu cho thần thoại đc bảo lưu một phương pháp bền vững and có hệ thống. Gắn bó với những vận động nghi lễ, phong tục, tuân thủ theo các bước, các quy tắc chặt chẽ của những nghi thức tang ma, cúng tế, hay hội lễ, thần thoại của những dân tộc nói trên đc diễn đi diễn lại, đc thực hành thường xuyên từ năm này sang năm khác, đời này sang đời khác, từ dòng đời này tới dòng đời khác. Cũng nhờ vậy mà những tác phẩm thần thoại luôn đc lưu truyền, bổ sung cập nhật, thêm bớt and ngày càng hoàn chỉnh, thú vị, cung cấp có nhu cầu thẩm mỹ và làm đẹp của những người kể, người nghe. Ở đây phải kể tới vai trò của những dòng đời thầy mo, thầy cúng, những ông then, bà then, những nghệ nhân kể sử thi ở những dân tộc ít người Việt Nam. Họ đã đóng vai trò là các người lưu giữ tích cực kho tàng thần thoại những dân tộc.

Xem Ngay:  Embryo Là Gì - Nghĩa Của Từ Embryo

Trong tình huống kể trên, hệ thống thần thoại những dân tộc đã là các chứng tích, các tài liệu sống, cứu các bạn tưởng tượng lại đc dáng dấp sinh hoạt, phương pháp thức tư duy and sáng tạo văn hoá, sáng tạo nghệ thuật của những dân tộc ít người từ thời xa xưa cho tới ngày nay.

III. Phân loại and content phản ánh của thần thoại

Trên cơ sở thần thoại những dân tộc thiểu số VN đã đc sưu tầm and tuyên bố, có thể phân loại thần thoại VN thành hai nhóm, tương đương với hai chủ đề  chính như sau:

– Thần thoại suy nguyên kể về nền tảng thiên hà and nền tảng muôn loài.

– Thần thoại kể về việc chinh phục thiên nhiên and sáng tạo văn hoá.

1. Thần thoại suy nguyên kể về nền tảng thiên hà and nền tảng muôn loài

1.1. Thần thoại suy nguyên kể về nền tảng thiên hà

Trong bộ phận thần thoại nói về sự hình thành thiên hà, thiên nhiên này, nhân vật thường là những vị thần đc hình dung ra với các nét chấm phá khởi đầu qua các biểu tượng vừa rõ ràng, vừa tấp nập, hồn nhiên, vừa vươn tới dạng thái khái quát của tư duy triết học thuở khởi đầu của loài người. Khi sáng tạo được những vị thần, tư duy thần thoại đã lấy con người làm mẫu, nên những thần đều mang bóng dáng của con người.

Thần thoại Việt [Kinh] có truyện Thần Trụ Trời phản ánh khá rõ quan niệm của những người Việt cổ về nền tảng and các bước hình thành toàn cầu. Truyện kể rằng: Ban sơ thiên hà là một cõi hỗn độn, mờ mịt, tối tăm, lạnh lẽo. Từ cõi hỗn độn ấy, thần Trụ Trời đã có mặt, ông lấy đầu đội trời lên cao and sử dụng chân đạp đất xuống thấp. Đất, trời đã phân phương pháp nhưng chưa xa nhau, ông lại đào đất đá, xây trụ chống trời lên cao mãi. Khi trời đã thật cao, đất đã thật rộng, ông mới phá cột trụ đi “Trời tròn như bát úp, đất phẳng như cái mâm vuông”. Thần ném vung đất đá đi khắp chốn. Mỗi hòn đá văng ra bấy giờ thành một hòn núi hay một hòn đảo. Đất tung toé mọi địa chỉ thành cồn, thành đồi, thành cao nguyên. Bởi vậy mà hiện giờ mặt đất có chỗ cao, chỗ thấp. Các địa chỉ thần đào đất xây trụ thì mặt đất lõm xuống thành đầm hồ, sông biển. Các địa chỉ đất đá văng ra khi cột trụ bị phá thì mặt đất nhấp nhô thành núi, thành gò, chỗ ráp quanh giữa trời and đất đc gọi là chân trời.

Coi thiên hà do một vị thần tạo được, and vị thần ấy cũng phải vất vả đào đắp cũng giống như con người lao động vậy, chính ở thần thoại Thần Trụ Trời này, con người đã nêu lên đc vấn đề lao động sáng tạo and cải tạo thiên hà. Họ đã tạo được một toàn cầu mới cân sức hình dung đa chủng loại and lớn mạnh của tớ.

Tiếp theo thần thoại Thần Trụ Trời, người Việt còn kể đến nhiều vị thần khai sáng, thành lập thiên hà như trong bài ca:

Ông Đếm cát

Ông Tát bể

Ông Kể sao

Ông Đào sông

Ông Xây rú…[10]

Trong toàn cầu thần thoại, người nguyên thuỷ đã coi thiên hà có ba cõi chính: Trời, Đất and Nước do ba vị thần cai quản: Ông Trời vừa cai quản cõi Trời, vừa cai quản cả toàn cầu thiên hà. Thần Đất cai quản cõi Đất, thần Nước trông coi cõi Nước… ở mỗi cõi còn tồn tại nhiều vị thần khác, mỗi vị thần phụ trách một việc làm ổn định.

Phần lớn trong thần thoại những dân tộc, những vị thần ở cõi Trời phần đông tương ứng với những hiện tượng bỗng nhiên có nhiều tác động đến đời sống mà con người thời cổ đã quan sát đc như thần Trời, thần Gió, thần Mưa, thần Sấm sét, thần Mặt trăng. Những truyện đều rất dễ chơi, mộc mạc…

Theo thần thoại Việt, trên cõi Trời, ông Trời là Chúa tể [sau đc gọi là Thượng đế, Ngọc hoàng] đc nói nhiều đến trong các thần thoại: Cóc kiện trời, Sáng tạo được loài người, Cuộc tu bổ lại những giống vật, … Trời là người quản trị, điều hành, vua của muôn loài, Trời hành động theo quy luật của bỗng nhiên and thế giới. Trời có quyền uy nhưng cũng bình đẳng, công bình với những thần khác, với loài người and loài vật.

Trong số những vị thần ở trên cao trời có ba vị đc nói nhiều hơn cả là ông Trời and nữ thần Mặt Trời, Mặt Trăng. Thần thoại Việt kể: thiên hà khởi đầu lạnh lẽo tối tăm. Trời đã cho có mặt chín mặt trời, mười mặt trăng, thi nhau chiếu sáng and thiêu đốt mặt đất. Có nhân vật thằng Quải đã sử dụng nỏ bắn những mặt trời, mặt trăng khiến trời đất lại tối. Người phải cho gà trống đi gọi lại một mặt trời and một mặt trăng. Mặt trăng nóng nảy hay sà xuống gần mặt đất khiến cho con người nóng không chịu đc. Thằng Quải phải lấy tro bếp ném lên mặt của mặt trăng, từ đó mặt trăng không sà xuống thấp nữa and cũng biến thành mát dịu.

Có truyện còn kể về hiện tượng trăng tròn trăng khuyết là do sự ngoảnh mặt của trăng. “Nghe nói cô Mặt Trăng xưa kia tính tình nóng nảy. Hạ giới rất buồn bã vì tính tình gay gắt của cô. Việc ấy về sau đến tai Ngọc Hoàng. Bà mẹ phải trát cho nữ thần một lần tro vào mặt. Từ đó, cô cũng biến thành dịu dàng, hiền lành; ở hạ giới ai cũng ưa thích. Người ta bảo, mỗi lần cô ngoảnh mặt nhìn xuống nhân gian thì lúc chính là trăng rằm; cô ngoảnh lưng lại tức là ba mươi, mồng một; cô ngoảnh lưng lại lần nữa tức là thời kỳ trăng thượng huyền hay hạ huyền. Các lúc trăng có quầng là lúc bụi tro trát mặt ngày trước đặt ra”[11].

Ngoài ra, còn tồn tại truyện kể về Ngày tháng Năm dài, ngày tháng Mười ngắn. Chính là ngày tháng Mười thì ngắn, ngày tháng Năm thì dài. Là vì mặt trời thì làm ra ngày, thường ngồi trên kiệu có những phụ nữ khiêng, họ thường mải chơi vừa đi vừa dừng nên khiến cho ngày dài ra vào khoảng thời điểm tháng 5, mùa nắng. Còn vào tháng mười, mùa đông, kiệu đc những bà già khiêng, chịu khó, đi nhanh nên khiến cho ngày ngắn lại.

Đối với thần thoại Việt, thần thoại của những dân tộc anh em cũng rất đa chủng loại với các dấu hiệu tương ứng về những chủ đề, mô típ and biểu tượng về thiên hà, thiên nhiên.

Kể về chủ đề nền tảng thiên hà and toàn cầu bỗng nhiên, người Thái có sử thi-thần thoại Ẳm ẹt luông, người Lô Lô có Bài ca trời đất, người H’mông có thần thoại Khúa Kê… Trong đó có thể kể đến nhiều vị thần khai sáng thành lập thiên hà: ở người Lô Lô là ông bà Két Dơ, GaGia, ở người Thái là Xô Công Phạ, Xô Công Đin, có địa chỉ thì lại cho là do Thẻn Luông sinh ra trời đất and mọi vật. Trong thần thoại sử thi Đẻ đất đẻ nước của những người Mường là ông Thu Tha and bà Thu Thiên… Tên gọi những vị thần sáng tạo được thiên hà and thiên nhiên ở những dân tộc kể trên tuy có khác nhau, nhưng những vị thần ấy có điểm giống nhau: họ là các cặp bà xã chồng khai sáng thiên hà. Trời đất đã đc sinh ra từ sự hôn phối của hai ông bà có tầm vóc kỳ vĩ này. Chi tiết những tác giả của những thiên thần thoại cổ của những dân tộc ấy đã lấy sự sáng tạo được con người làm khuôn mẫu, thiên nhiên đã đc nhân hoá.

Trong thần thoại H’mông, Chử Làu là vua Trời, khi thiên hà còn hỗn mang mờ mịt, Chử Làu đã gọi ông Chày bà Chày để tạo được trời đất. Hai ông bà Chày vâng lời Chử Làu, ông Chày tạo được bầu trời and bà Chày tạo được thế gian. Cảm nhận thấy bầu trời vòm thì hẹp mà mặt đất phẳng phiu and rộng nên ông bà Chày bèn nắn mặt đất hẹp lại cho khớp với bầu trời. Do vậy mặt đất bị nhăn nhúm, lồi lõm. Chỗ trồi lên thì thành đồi, chỗ lún xuống thành thung lũng, biển hồ.

Thần thoại của những người Chăm thì kể rằng trời đất là do thần Trời [thần Cha] and thần Đất [thần Mẹ] sáng tạo được. Thần Cha còn gọi là Pô Chà Ta là đấng sáng tạo được thiên hà mênh mông cùng muôn vật. Bên dưới thần Trời là cả một hệ thống thần linh những Pô Yang khác. Thí dụ như thần Mặt Trời, khi thần này cúi lạy ông Trời Pô Chà Ta thì sinh ra Nhật thực. Còn khi thần này đi qua cung trăng có bà Chà ở đó, bà Chà đứng lên cúi chào thì sinh ra Nguyệt thực.

Còn ở một số dân tộc khác, thần thoại của họ lại kể về một vị thần duy nhất sáng tạo được thiên nhiên. Theo quan niệm của những dân tộc này thì từ thiên nhiên and vạn vật trong trời đất đến con người, cây cỏ đều từ một nền tảng mà ra: ở thần thoại người Dao là Chang Lô Cô, là Bàn Cổ [hoặc Nhiên vương]. Thần Bàn Cổ của những người Dao có tầm cỡ bao quát cả thiên hà con người: Đầu thần là trời, chân thần là đất, mắt bên trái của thần là mặt trời, mắt ở bên phải của thần là mặt trăng… Ở thần thoại của những người Êđê có thần Ai Điê sáng tạo được thiên hà cũng có diện mạo kỳ vĩ: đầu tròn của thần là bầu trời; trán thần nhăn là mây bay lượn, lưng thần biến thành không khí, hai cánh tay thần là hai cây trụ phân chia trời đất thành hai cõi tách riêng ra… Theo thần thoại của những người Êđê, thần Ai Điê là người cai quản toàn bộ những vị thần khác như thần Mặt Trời [Yang Hruê], thần Mặt Trăng [Yang Mlau], thần Núi [Yang Cư], thần Nước [Yang Eê]… Trong những vị thần ở trên cao trời, thì công việc ra mưa là do hai vị thần Mưa. Người Êđê quan niệm có mưa ở trên cao trời and có mưa ở bên dưới đất. Tuy mỗi địa chỉ đều do một vị thần trông nom riêng như thế, nhưng mỗi khi bị hạn hán phải cầu cúng xin trời mưa, người ta đến cầu khấn cả hai: Aê Mghăn – thần Mưa ở trên cao trời and Aê Mghi – thần Mưa ở bên dưới đất.

Theo thần thoại của những người Mnông thì toàn bộ các gì trong thiên hà, theo phương pháp nhìn and phương pháp biểu thị của họ, dường như chúng đều có hồn and tấp nập. Người Mnông tin tưởng rằng ở trên cao trời, y hệt như ở bên dưới đất đều có rất đông vị thần trú ngụ. Vị thần tối cao, toàn diện, toàn năng nhất ở tầng trời là thần Mặt Trời với những tên gọi Yang Nar, Yang TNghe, Yang Măt. Ở tầng trời, quyền lực tối cao sau thần Trời là thần Sét [Yang N’glai]. Vị thần đó là một người quý ông lớn to, có giọng nói dữ tợn, có thanh gươm chặt ra lửa. Đó chính là vị thần nửa thiện, nửa ác. Trừng trị các kẻ gây tội ác cho con người là nhiệm vụ chính của thần Sét, do vậy ở vị thần này, phần thiện trội hơn phần ác and thần cũng được con người hâm mộ.

Thần thoại của những người Bana thì kể rằng “Khi chưa có trời đất thiên hà, đã có rất nhiều hai vị thần. Thần nam là Bok Kơi Dơi, thần nữ là Ia Kon Keh. IaKonKeh sử dụng cám vắt ra trời đất, Bok Kơi Dơi thì làm ra mặt trăng, mặt trời and những ngôi sao. Họ sống chung cùng với nhau and sinh đc ba người con. Con cả là Ia Pôn ở lại làm thần Trời, hai anh em nam nữ Ia Bok xuống thế gian, biến thành tổ tiên của loài người. Họ đc ông bà Bok Kơi Dơi – IaKonKeh cho những giống cây cỏ, chim muông, quái thú xuống làm vui cho mặt đất”[12].

Người Bana còn tưởng tượng ra thần Sét [thần Bot Gơ Lai] là một vị thần linh thiêng ghê gớm nhất, tay có lông lá, ngày xuân thì ngủ, còn mùa nắng thì cầm búa đi tuần tra bên dưới thế gian…

Trong hệ thống thần thoại những dân tộc Việt Nam còn tồn tại những thần thoại kể về các vị thần ở cõi đất, gồm có:  Thần Đất [có địa chỉ gọi là ông Địa, Thổ công], thần Bếp, thần Lửa [bà Hoả]… 

Thần Đất thường đặt ra với diện mạo một cụ già. Thần có phép dời cát thay núi chỉ trong nháy mắt. Oai quyền của thần rất to. Kẻ nào phạm vào việc cân chỉnh đất đai mà không xin phép thần, ổn định kẻ ấy sẽ bị thần trừng phạt.

Thần Núi cũng thường hiện hình là những ông già đầu râu tóc bạc. Có nhiều vị thần Núi, mỗi thần cai quản một dãy núi to, bao và cả các núi con.

Thần Lửa là một bà già mặt mũi rất hung dữ. Người ta thường gọi là bà Hoả. Thần chuyên giữ một thứ lửa rất màu nhiệm có thể đặt nồi không mà nấu ra đủ các thức ăn ngon lành… Thần Lửa cũng có nhiều khi hung dữ cho bộ hạ đi tàn phá nhân dân, cây xanh. Người ta thường nhận biết lửa của thần trong khi đốt nhà là một thứ lửa màu xanh xanh liếm từ trên nóc nhà liếm xuống. Trong số bộ hạ thần Lửa có thằng Bợ quen thói hung ác, nó ở với thần Lửa nhiều năm, một hôm ăn cắp lửa của thần rồi trốn đi. Nó là đối phương của loài người. Có vẻ về sau, nó bị thần bắt đc and đày xuống âm ti.

Xem Ngay: In Relation Lớn Là Gì – Relation Là Gì, Nghĩa Của Từ Relation

Ngoài thần Lửa còn tồn tại thần Bếp hoặc còn gọi là thần Táo hay Núc, vị thần chuyên trông nom củi lửa bếp núc cho hạ giới. Trái với thần Lửa, thần Bếp hiền lành dễ tính, thần Bếp gồm chứa một bộ ba: một người thiếu nữ với hai ông chồng. Những thần đc Trời [hay còn gọi là Ngọc Hoàng] giao cho việc trông nom việc thổi nấu ăn uống của nhân gian, xem xem trong từng hộ gia đình mỗi một năm có các hành động tốt nhất xấu thế nào để đến ngày 23 tháng Chạp sẽ lên báo cáo cho Trời biết.

Thần Bếp có hai bộ hạ, bộ hạ thứ đặc biệt là cá chép cứu thần trong việc trở về từ hạ giới lên Thiên Đình, bộ hạ thứ hai là Nhện cứu thần tin báo cho người.

Xem Ngay:  Từ Tượng Thanh Là Gì

Về hệ thống thần ở cõi Nước gồm có: Thần Nước [còn gọi là Long Vương], vua Thuỷ Tề, thần Sông [Hà Bá] Ba Ba, Thuồng Luồng, Cá Voi…

Ở từng vùng, ở những địa phương, thần thoại cũng kể về những vị thần cai quản riêng, đc thờ ở những đền miếu thờ thần như Thủy thần, Sơn thần…

Như thế, nhóm thần thoại kể về nền tảng thiên hà and bỗng nhiên phản ánh phương pháp giải thích, nhìn nhận hết sức hồn nhiên của con người thời cổ về thiên hà, núi sông, biển cả, đất trời and muôn vàn những hiện tượng bỗng nhiên khác, đã chứa đựng cả khoa học and triết học duy vật sơ khai. Có thể tìm cảm nhận thấy trong đó cái logic biện chứng của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên and môi trường thiên nhiên sinh tụ thuở khởi đầu, khi con người mới định cư trên các vùng đất hoang sơ còn nhiều lạ lẫm.

Câu chuyện về những thần thiên hà, thần thiên nhiên [thần Trụ Trời, thần Sấm, thần Sét, thần Mưa, thần Gió, thần Biển, thần Nước… ] là sự phát triển một phương pháp sinh động các bước nhận thức về sự tồn tại khách quan của toàn cầu trải qua sự quan sát của con người tuy còn ở trình độ tự phát and ấu trĩ. Những thần đó chính là món đồ của niềm tin and sự sùng bái bỗng nhiên đan cài với nhận thức có tính vật chất về toàn cầu đc dựa trên hai “trực kiến thiên tài” [chữ sử dụng của Ăng ghen] của con người thời cổ đại: 1 là, toàn cầu không cần là hư vô mà nó đã tồn tại như 1 cõi hỗn mang trước khi Thần có mặt, những Thần chỉ làm nhiệm vụ cân chỉnh diện mạo của toàn cầu mà thôi. Hai là, những Thần cũng phải lao động cật lực mới biến cải đc toàn cầu bỗng nhiên y hệt như mới kiến tạo nên thiên hà. 

1.2.Thần thoại kể về nền tảng muôn loài

Tiếp theo những thoại kể về những vị thần làm việc làm sáng tạo được trời đất, hệ thống thần thoại của những dân tộc Việt Nam còn tồn tại đồng loạt những thần thoại khác kể về nền tảng muôn loài… Y như những vị thần cai quản toàn cầu ở trên cao trời, những vị thần cai quản trên mặt đất and bên dưới mặt đất, đã song song với những loài vật and con người tạo được cuộc sống thế gian.

Thần thoại của những dân tộc đã kể về đồng loạt những giống vật, cây xanh, núi sông, gò đống đều không phải bỗng nhiên mà có mà do những vị thần hợp sức sáng tạo được hoặc do một sự kỳ vĩ của thiên hà mà có mặt…

Trong thần thoại Việt, chính là những thần thoại như: Ngọc Hoàng tu bổ những giống vật kể về việc Ngọc Hoàng, vị thần tối cao của thiên hà làm việc làm tiếp theo với việc làm sáng tạo thiên hà là hoàn chỉnh, tu bổ nên những giống vật cho toàn cầu bên dưới mặt đất, tạo được sự sống. Truyện Lúa thần kể về các cây lúa có hạt cực to, tự bò về nhà… Truyện Cây thuốc thần, Chú Cuội cung trăng… là các thần thoại nói tới ước mơ sống sung túc, lao động không vất vả, về cuộc sống chống lại đc bệnh tật and con người đc cũng biến thành bất tử nhờ những giống lúa, giống cây thần diệu…

Trong thần thoại của những người Thái ở Tây Bắc, vị thần Chẩu răng dệt pú là người đắp nên núi cao, vị thần Chẩu răng dệt phẳng là người đào nên khe sâu, vị thần Chẩu chục chẩu chao là người san gò đống, đắp hồ ao, tạo được ruộng nương. Trong thần thoại của những người H’mông, Chử Làu [vua Trời] là người làm ra mọi thứ cỏ cây, muôn vật, mỗi thứ một giống rồi đến con người. Còn ở người Xrê, người Mạ ở Lâm Đồng [một trong số những dân tộc anh em ở Trường Sơn – Tây Nguyên] thì thần thoại của họ đã kể rằng Thần K’Bung [hoặc Yang K’Bung] là vị thần đã mang những thứ đất màu, những giống cây cỏ cho người thế gian. Yang K’Bung đã song song với con vượn già Đơ ghê trồng chuối rải khắp mặt đất. K’Bung cũng đã dạy người Mạ phương pháp đốn gỗ and chọn gỗ cẩm lai làm nỏ. Nữ thần Lúa của những người Mạ mang tên là Yang Koi, thần đc người Mạ thờ cúng suốt năm.

Thần thoại của những người Giarai kể về vị thần làm ra lửa mang tên gọi là Mơsao, vị thần này đã đem lửa trên trời xuống cho người thế gian. Mơsao đã đánh nhau với Yang Dai là thần Mặt Trời luôn canh giữ lửa. Theo người Giarai thì do đánh nhau với Mơsao bị thua nên thần Yang Dai tức bực, chui vào chăn giấu mặt mấy tháng không ra. Bởi vậy mà có mùa đông, đó đó chính là lúc Yang Dai xấu hổ không muốn nhìn cảm nhận thấy ai cả. And tiếp theo chính là rất đông những vị thần khác như thần Tang, thần Lút, thần Kon Xur, Blang Kyan… đã sáng tạo được cây cỏ như tranh, tre, chuối, dứa… and những muông thú như con kiến, con voi, con hổ…

Với quan niệm vạn vật hữu linh, người Bana cho rằng cây xanh, mọi vật trên mặt đất đều có thần linh ngự trị. Trong thần thoại của Bana, thần Cây đc gọi là Yang Hơlơn, thần Núi là Yang Gông Cơrôi, hay Yang Bót Rang, hay còn gọi là Yang Bót Keling. Hình dạng của mỗi thần mang bóng dáng thoát thai của tớ, như thần Sông thì giống hình con Rồng, thần Suối thì giống hình con Rắn, thần Cây là một người quý ông có cặp mắt lớn tròn như cối giã gạo v.v…

Theo thần thoại của những người Mnông thì, tựa như như ở tầng Trời, ở tầng Đất cũng có những vị thần. Trong số những vị thần ở tầng Đất là vị thần Lúa, là một vị thần có vai trò quan trọng [mang tên gọi là Truh Ba]. Thần Lúa có nhiệm vụ bảo vệ mặt đất, chăm cho cây lúa to nhanh, không cho sâu bọ làm hại mùa màng. Ngoài ra cư ngụ trên mặt đất còn tồn tại thần Núi [Brah Yok], thần Rừng [Brah Bri] cai quản núi rừng, thần Suối [Brah Dak] cai quản những ngọn núi, dòng sông, thần Brah Kuât and Brah Njuk là các thần hộ mệnh giữ gìn sức mạnh cho con người, thần Ng’Vich Ng’Val bảo vệ nòi voi…

Phần lớn những dân tộc đều có câu chuyện về thần Lúa của tớ. Người Bana kể, sau trận hồng thuỷ, có hai anh em sống sót, họ nhờ có con kiến đen đưa về cho một hạt lúa thần, đem gieo thì ngày hôm sau, lúa mọc lên đầy đồng bát ngát, mỗi hạt lúa có thể nấu đầy một nồi and ăn no một bữa. Người Mường kể về nàng Dặt Cái Dành là một người thiếu nữ Mường đảm đang khéo léo đã lên tận Mường Trời xin nữ thần Lúa – nàng Tiên Thiên Mái Lúa cho những giống lúa quý đưa về để người Mường trồng cấy đến tận ngày nay.

Người Thái cũng kể, sau trận lụt, hai anh em nhà kia đã tìm đc hạt thóc lớn bằng quả bầu. Hai anh em phải chặt cho chóc vỡ vụn ra mới nấu ăn đc. Chính vì vậy, ngày nay hạt thóc bé lại, người ta muốn trồng lúa ăn thì phải gieo thật nhiều hạt, khi ăn phải đâm giã rất vất vả.

1.3. Thần thoại về nền tảng loài người

Từ trong bộ phận thần thoại nói về sự hình thành thiên hà, về thiên nhiên, núi sông, cây cỏ với các vị thần sáng tạo có tầm vóc to lao kỳ vĩ, ta từ từ cảm nhận thấy có mặt cả bóng dáng con người với sự hình dung, với các nét chấm phá ngày càng rõ rệt, ngày càng đậm đà. Để sau đó thần thoại những dân tộc thiểu số VN sẽ cho cảm nhận thấy rằng con người sẽ là chủ của thiên nhiên, của cả toàn cầu thiên hà to lao cho tới những cây cỏ, loài vật, núi sông, đồng ruộng, quốc gia…

Phản ánh nhận thức con người tách biệt ra khỏi thiên nhiên chính là bộ phận thần thoại tưởng tượng ra con người có nền tảng từ đâu, do ai mà sinh ra. Con người khiếp sợ trước thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ, nhưng con người cũng đã nhận được thức đc mình là một bộ phận của thiên nhiên and hơn nữa còn muốn định vị mình là bộ phận tinh tuý nhất của thiên nhiên.

Trong thần thoại của những dân tộc, con người trước tiên có mặt, đều do một đấng siêu nhiên sinh ra. Ở người Kinh [Việt] có câu chuyện kể Ông Trời sau khi tạo được muôn vật, đã sử dụng đất sét, thứ đất bùn nhão tinh tuý để nặn ra con người, nặn xong đem phơi nắng cho khô, tượng đó hoá thành người có đủ mắt mũi, chân tay. Tương tự như, ở người H’mông, có truyện Sáng tạo được loài người, nói về nhân vật Chử Làu [tức Ông Trời] lấy đất nặn thân hình con người trước tiên, hà hơi vào miệng, cho hồn vào bụng, cho khẩu ca ở cổ họng. Con người quý ông trước tiên có mắt mũi, có khẩu ca and đi lại trên mặt đất. Chử Làu lại nặn tiếp người thiếu nữ khiến cho họ lấy nhau, để sinh con đẻ cái đông đúc như ngày nay.

Thần thoại kể về nền tảng tộc người, nền tảng dân tộc mang tính thịnh hành toàn nhân loại, nhưng cũng mang nét rạo rực riêng, phản ánh tâm thức and trình độ phát triển thế giới của từng dân tộc.

Những dân tộc Việt Nam có rất đông thần thoại giải thích nền tảng của loài người, giải thích nền tảng những dân tộc. Ở người Kinh [Việt] tiêu biểu đặc biệt là câu chuyện về Lạc Long Quân [giống Rồng] and Âu Cơ [giống Tiên] với bọc một trăm trứng nở ra một trăm người thiếu niên. Thần thoại này đã biến đổi thành truyền thuyết bố Rồng mẹ Tiên phản ánh content về nền tảng sinh ra giống nòi and mang ý nghĩa phản ánh về việc phân chia địa vực.

Thần thoại của những người Mường thì có truyện Trứng Điếng kể chuyện đôi chim Tùng, chim Tót [có địa chỉ còn gọi là chim Ây cái Ứa hoặc chim Tráng, chim Trò v.v…] đẻ ra trứng and từ trứng nở ra người. Hệ thần thoại này đc kể trong sử thi Đẻ đất đẻ nước với cảnh sinh ra những vị tổ tiên người Mường and những dân tộc láng giềng của họ như sau:

Cảm nhận thấy nở trứng Điếng

Nghe ồn ào tiếng Lào

Nghe lao nhao tiếng Kinh

Nghe ình ình tiếng Mọn [Mường][13].

Cảnh tượng này gần giống chuyện chim Ông Tôn của những người Thái đc kể trong sử thi – thần thoại Ẳm ẹt luông v.v…

Điều đó chứng tỏ có sự nhất quán to giữa thần thoại những dân tộc, chính là các truyện kể về những nhân vật khổng lồ, những cặp bà xã chồng khổng lồ trước tiên đã sinh ra nòi giống con người and kiến tạo địa bàn sinh tụ. Chính là các Ông Đùng – Bà Đà [Việt], ông Thu Tha – bà Thu Thiên [Mường], Ải Lậc Cậc [Thái], Pựt Luông, Tài Ngào, Báo Luông – SLao Cải [Tày] and đôi bạn trẻ Lạc Long Quân – Âu Cơ [Việt].

Tính chất, thần thoại những dân tộc còn lưu giữ nhiều ký ức về trận lụt to, về nạn đại hồng thuỷ, nó cũng giống như một đại hoạ khủng khiếp để cho loài người bị tuyệt diệt and song song với chính là ký ức về sự tái sinh của con người nhờ các quả bầu kỳ lạ.

Nói về trận hồng thuỷ, người Giáy có truyện Nước ngập trời: “Bỗng một năm, mặt đất mưa mấy tháng liền không dứt cơn, hạt mưa lớn như quả mận. Núi non sạt lở, đất nhão thành bùn, cây lớn cây nhỏ dại trôi ầm ầm về phía cửa trời and đá tảng cũng lăn theo chỗ đó… Nước lụt dâng lên vùng thấp, dâng lên núi cao, ngập hết mọi địa chỉ, nước dâng lên tận trời khiến cho người and vạn vật đều chết hết”.

Người Thái có thần thoại Hồng thuỷ: “Ngày xưa có Trời, Đất, Cỏ, Cây. Trời giống hình cái nấm khổng lồ làm bằng bảy miếng đất, ba khối đá, chín con sông… Trời bỗng cũng biến thành tối tăm, sấm sét nổi dậy. Trong vòng một ngày có trên một trăm ngàn trận mưa rơi đầy mặt đất. Cục bộ khe suối, ao hồ đều tràn ngập. Đồng ruộng cũng đầy toàn quốc. Nước dâng cao lên đến tận Trời, toàn bộ mọi sinh vật sống trên mặt đất đều chết sạch”.

Người H’mông kể về Hồng thuỷ với “các trận mưa liên tiếp luôn bốn mươi ngày đêm, nước dâng lên ngập mặt đất, dâng lên đến tận trời cao”. Người Lô Lô thì kể “loài rồng dâng nước lên khắp địa chỉ trên cộng đồng, nước dâng lên ngày càng cao. Cuối cùng các ngọn núi cao nhất cũng phải chịu ngập nội địa, mọi người đều bị chết đuối hết”.

Người Bana kể: “Nước dâng lên ngập sông, ngập biển and đến tận trời. Cục bộ mọi sinh vật đều chết hết, trừ có hai người, hai anh em trai and gái vào nấp trong một chiếc trống to. Họ đem theo mỗi giống vật một đôi… Nước lụt bảy ngày bảy đêm. Nước rút… Hai anh em lấy nhau, sinh đẻ nhiều con cái”.

Người Raglai cũng lưu lại truyện Hồng thuỷ : “Nước lụt từ biển dâng lên đến ngọn núi, nước lên cao đến tận trời. Có hai người ở miền Thượng, một trai một gái chui vào một cái trống… Sau trận lụt to ấy, toàn bộ đều chết sạch, chỉ trừ hai người còn sống sót ở trong cái trống. Họ lấy nhau rồi dần dà sinh sôi nảy nở ra loài người”.

Sau trận hồng thuỷ, con người đã đc tái sinh. Hệ thống thần thoại những dân tộc đã lưu truyền rộng rãi các câu chuyện kể về Quả bầu nở ra hàng vạn người con với nhiều giống người. Loại truyện Quả bầu này có trong kho tàng dân gian Đông Nam Á and nó đã đc dân tộc hoá tuỳ theo sự sáng tạo của từng dân tộc. Truyện Quả bầu của những người Thái ở Tây Bắc thì kể rằng dây bầu mọc bên bờ sông Nậm Rốn đã đẻ ra người Thái, người Xá, v.v… Truyện của những người Thái, người Dao đều kể: “Sau trận lụt, chỉ có hai anh em nhà kia sống sót nhờ nấp trong quả bầu nên họ đành phải lấy nhau. Ba năm sau, họ sinh ra một quả bầu. Cảm nhận thấy trong quả bầu có tiếng ồn ào, họ đem dùi ra đục. Một cặp nam nữ mình đen ra trước. Chính là người Xá. Người Thái, người Lự, người Lào, sau rốt là người Kinh chui ra. Con cái nhiều quá, nuôi không xuể, hai ba mẹ mới phân chia những con đi những ngả kiếm ăn. Cặp con cả ở lại với ba mẹ là tổ tiên của những người Xá hiên giờ. Cặp con út đi xa xuống đồng bằng ven biển là tổ tiên người Kinh ngày nay vậy” [Thái]. Hoặc là “Từ vỏ, cùi, hạt bầu đều hoá thành người. Vỏ bầu ít hoá thành người Dao, người Mèo ở trên cao núi cao. Cùi bầu nhiều hơn thì hoá thành người Tày người Nùng ở lưng chừng núi. Còn vô vàn hạt bầu hoá thành người Kinh [Việt] ở vùng thấp, vùng đồng bằng ven biển đông đúc” [Dao]. Truyện Quả bầu của những người Khơ Mú nhận rằng nền tảng của tộc người đó là từ một quả bầu mẹ sinh ra. Người ta tin rằng quả bầu ấy có hồn thiêng. Mỗi khi trong nhà có người ốm, thì lấy áo của những người bệnh trùm lên quả bầu khô khấn vái, xin giữ hồn vía cho người ốm đừng để ma dữ bắt đi. Truyện Quả bầu ở Tây Nguyên thì kể rằng nó đã đẻ ra người Vân Kiều, người Bru, người Khau, ngoài ra còn tồn tại cả người Xrô [Xô], người Cùi ở bên Tây Trường Sơn của nước Lào nữa.

Xem Ngay:  Lumen Là Gì - Phân Biệt Với Lux

Thần thoại của một số dân tộc Tây Nguyên đã định vị sự sinh ra của loài người, của những dân tộc Việt Nam đều từ một gốc. Thần thoại Bana kể lại rằng những dân tộc anh em [kể cả người Bana, người Êđê, người Giarai, người Mnông, người Xtiêng, and người Kinh] đều từ ông tổ BokXơgơr sinh ra…

Về nguyên nhân những dân tộc phân tán đi nhiều địa chỉ sinh sống trở nên các địa vực cư trú mới, thần thoại Việt Mường giải thích là do ba mẹ chia con đem một số lên rừng, một số khác xuống biển v.v… như thần thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ, sử thiĐẻ đất đẻ nước.

Thần thoại Hồng thuỷ của những người Lô Lô nói con cái của hai người sống sót sau trận lụt đc sinh ra từ cục thịt. Họ xẻ ra thành nhiều mảnh đem vứt bên dưới gốc đào, gốc lê, mận, táo… Miếng vứt ở gốc đào trở thành làng họ Đào, miếng vứt ở gốc lê mang họ Lý [Lê]. Loài người sinh sôi đông đúc, nói khẩu ca khác nhau. And những dân tộc đều là anh em, đều chung một tổ tiên, chung một bọc mà ra.

Còn ở thần thoại những dân tộc khác như thần thoại Bana thì lại kể nguyên nhân là do tai hoạ tại trời gây ra. Như truyện Bok Xơgơr kể rằng: Con cháu ông Xơgơr dựng nhà rông lên cao quá đã làm Trời tức giận, Trời còn khiến cho anh em không nghe, không hiểu đc tiếng nhau. Họ bèn ôm nhau khóc lóc rồi chia ly nhau. Từ đấy anh em mỗi người một ngả, ra ở các chỗ khác nhau and từ từ biến thành những dân tộc anh em ngày nay… “Kẻ nói tiếng Bana thì đến xứ Bana, các người nói tiếng khác nữa thành ra tổ tiên của những dân miền núi như Giarai, Xêđăng, Êđê, Xtiêng, Raglai… Chỉ có người con cả nói tiếng Kinh thì ở lại với bố mẹ, họ khôn ngoan and giàu có hơn những em”[14].

Như thế, thần thoại về nền tảng loài người, nền tảng những dân tộc ở Việt Nam gặp nhau and giống nhau ở điểm căn bản [có cùng một gốc] and chỉ khác nhau ở phương pháp kể rõ nét, những cốt truyện [phương pháp quan niệm, suy đoán về nguyên nhân phân tán]. Chủ đề to đó đc biểu thị qua hệ thống biểu tượng có các mối quan hệ gần gũi, đồng thời lại thêm các nét khác biệt: hoặc là quả bầu, hoặc là bọc trăm trứng, hoặc là bọc trăm con, hoặc là ông tổ chung… Từ cái nền chung đó, thần thoại những dân tộc ViệtNam đã khắc hoạ đc cốt lõi đời sống trái đất những dân tộc Việt Nam thời xa xưa.

2. Thần thoại kể về sự chinh phục thiên nhiên and sáng tạo văn hoá

Bên phía trong hệ thống kho tàng thần thoại những dân tộc VN còn tồn tại nhóm thần thoại mang content phản ánh các kỳ tích của con người trong các bước chinh phục thiên nhiên, sáng tạo văn hoá… tạo được các nhân vật anh hùng thần thoại, anh hùng văn hoá.

Việc chinh phục thiên nhiên, khai phá núi sông, hủy diệt các lực lượng thần linh ma quái thuở khởi đầu đc con người thời cổ kể lại, khắc hoạ các biểu tượng đó bằng kích thước lớn to, khác thường. Thần thoại Bố Rồng mẹ Tiên, Lạc Long Quân – Âu Cơ… trong hệ thống truyện Họ Hồng Bàng của những người Việt kể về vua Rồng với các câu chuyện mang đậm tinh thần đấu tranh chống thiên nhiên của những người Việt cổ. Ở đây, người anh hùng Lạc Long Quân có sức khoẻ hơn người đã ra tận biển Đông để chiến đấu, hủy diệt loài cá to đã thành tinh [Ngư tinh] chuyên ăn thịt dân thường and làm đắm thuyền bè qua lại. Lạc Long Quân còn vào sâu trong đất liền giết con cáo chín đuôi đã thành tinh quấy phá một vùng [Hồ tinh] and Long Quân còn sử dụng mưu mẹo để giết đc con tinh ở trên cao cây [Mộc tinh]. Bằng những chiến công, Long Quân trừ đc một tai hoạ cho loài người. Cũng từ đó, hễ chỗ nào người Việt gặp mất an toàn lại cất tiếng gọi: “Bố ơi chỗ nào về giúp chúng con” là Long Quân tức khắc đến ngay.

Ảnh người anh hùng chinh phục thiên nhiên trong thần thoại Mường là vị vua Dịt Dàng với chiến tích chặt cây Chu Đồng, săn con muông Tìn Vìn Tượng Vượng đc kể trong sử thi thần thoại Đẻ đất đẻ nước. Ở thần thoại của những người Thái là chàng khổng lồ Ải Lậc Cậc với việc làm khai phá những cánh đồng to ở Tây Bắc. Ở thần thoại người Tày là hai bà xã chồng ông bà khổng lồ Báo Luông – Slao Cải đã mở rộng những cánh đồng to ở Hoà An, Nguyên Bình… của vùng Cao Bằng, Bắc Cạn. Còn thần thoại của những người Êđê là truyện kể về chàng khổng lồ Prông Pha, đạp đất núi lấy nước uống, hủy diệt yêu tinh trừ lũ lụt and hạn hán. Thần thoại của những người Bana thì kể lại ba anh em Việt – Bana – Lào hợp sức diệt xà tinh, trừ những tai hoạ dông bão, lũ lụt and nạn hoả hoạn…

Kể về chủ đề chinh phục bỗng nhiên, thần thoại của những dân tộc bằng nhiều phương pháp khác nhau đều nhằm lưu lại and ngợi ca các chiến tích lao động của tổ tiên trong buổi đầu tạo dựng and nhất định địa bàn cư trú.

Ngoài các anh hùng văn hoá chinh phục thiên nhiên là những nam thần, trong thần thoại những dân tộc cũng có rất đông những anh hùng văn hoá là những nữ thần: Trong thần thoại của những người Việt có bà Nữ Oa, bà Tồ Cô, nữ thần Lửa, nữ thần Lúa, nữ thần nghề mộc… Thần thoại người Mường có bà Nhân, người có công xếp đặt lại đất đai, trồng ra mọi thứ cây cỏ đc kể trong bài ca Đang Vần Va. Thần thoại của những người Chăm có nữ thần Pôư Nagar hoặc là Thiên Ya Na [theo phương pháp gọi của những người Việt] là nữ thần văn hoá, dạy dân cày cấy đc kể trong thần thoại Pôư Nagar. Trong kho tàng thần thoại còn tồn tại biểu tượng của nhiều thần tổ lĩnh vực, những bà chúa… họ ở khắp địa chỉ dạy dân trồng lúa, làm nghề mộc, thuần dưỡng vật nuôi, cây cối, tìm giống mới, tìm phương pháp làm nhà, tìm nghề mới, v.v…

Trong tình huống khí hậu khắc nghiệt xưa, hạn hán and bão lụt là các thứ tai hoạ thiên nhiên thường xuyên đe doạ đời sống con người từ thời cổ. Event này đc biểu thị ở nhiều thần thoại những dân tộc với thiên thần thoại Nạn hồng thuỷ lưu lại bóng dáng của một trận lụt to. Thần thoại Sơn tinh Thuỷ tinh của những người Việt kể về cuộc giao tranh giữa thần Núi [Sơn tinh] and thần Nước [Thủy tinh] là sự phóng đại với trí hình dung hào hùng việc chống lũ lụt hay việc trị thuỷ tóm lại để bảo vệ mùa màng and đời sống…

Để bảo vệ địa bàn sinh tụ, đan xen với các cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên là các cuộc đấu tranh thế giới của con người. Thần thoại cũng đã phản ánh cuộc đấu tranh này với sự phóng đại cường điệu đầy tính thần kỳ với hình ảnh của những anh hùng bộ tộc, bộ lạc chống giặc ngoại xâm. Ở thần thoại Việt, thần thoại về thời kỳ Hùng Vương, An Dương Vương [Văn Lang, Âu Lạc] là truyện kể chung, tên gọi chung cho nhiều dòng đời thủ lĩnh, anh hùng văn hoá đã tổ chức ra nhà nước and những cuộc thắng cuộc của bộ tộc. Đó cũng là biểu tượng người anh hùng làng Dóng giết giặc Ân đc kể trong truyện Thánh Dóng, biểu tượng Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh [với khá nhiều nhân tố thần thoại lẫn cổ tích] có chiến công diệt yêu quái gần với các chiến công của Lạc Long Quân. Ở thần thoại những dân tộc Tây Nguyên, chính là rất đông biểu tượng những anh chàng dũng sĩ đã đc kể lại trong những sử thi – khan như chàng Đam Noi, anh hùng Đam Dông của dân tộc Bana, chàng Đam Săn, Xing Nhã của dân tộc Êđê, chàng Đăm Duông của dân tộc Xêđăng, chàng Diông của dân tộc Giarai, v.v…

IV. Trị giá and ý nghĩa thẩm mỹ và làm đẹp của thần thoại

Thần thoại Việt Nam ra đời từ rất sớm. Thời kỳ phát triển bùng cháy rực rỡ nhất của nó là thời kỳ xây dựng địa vực cư trú, địa vực đất nước. Content đa chủng loại nhất của nó là phản ánh một phương pháp hoang đường kỳ vĩ về các hiện tượng thiên hà, thiên nhiên, về sự hình thành, thành lập and bảo vệ quốc gia.

Do đặc điểm truyền miệng and không đc ghi chép nên nhiều thần thoại đã không lưu giữ lại đc đầy đủ. Chính bởi vậy, nhiều nhà nghiên giúp trước nay đã cho thần thoại của dân tộc Việt chỉ là các mảnh vụn bị vỡ ra, các mẩu vụn của thần thoại Việt cổ. Nhưng có lẽ, cho đến hiện nay đây, các bạn nên xem xét kho tàng thần thoại Việt cổ ấy trên cái nền bóng dáng chung của thần thoại những dân tộc ít người để cảm nhận thấy đc các đặc trưng, các content to của thần thoại Việt Nam.

Trong các bước lâu dài của lịch sử, thần thoại VN đã phát triển, từ các mẩu thần thoại phản ánh sự nhận thức từng mặt của con người về thiên hà thiên nhiên, loài vật,… những dân tộc trong trái đất Việt đã có rất nhiều các hệ thống thần thoại to như hệ thống truyện Họ Hồng Bàng của những người Việt, sử thi mo Đẻ đất đẻ nước của những người Mường, sử thi – khan của những dân tộc Tây Nguyên như Đăm San, Xing Nhã của dân tộc Êđê, v.v… And khi quốc gia ta bị những lực lượng ngoại bang đánh chiếm, bị sự ách thống trị lâu dài của phong kiến phương Bắc, thần thoại Việt đã bị phân hoá thành những hướng: hoặc bị Hán hoá những thần thoại Việt Mường, hoặc bị phong kiến hoá, bị cắt rời thành các phiên bản rời rạc… Sự tác động thế giới này đã sớm đẩy nhiều thần thoại Việt Nam sang giai đoạn bị truyền thuyết hoá, cổ tích hoá, đặc thù đã tạo được nhiều truyền thuyết có tính lịch sử. Có thể tìm cảm nhận thấy rất đông trong thần thoại VN các thần thoại bị lịch sử hoá, truyền thuyết hoá, đặc thù là trong các truyện về thời kỳ Văn Lang, Âu Lạc của dân tộc Việt như Âu Cơ – Lạc Long Quân, Sơn tinh – Thủy tinh, An Dương Vương, Thánh Dóng… And bị cổ tích hoá như Thạch Sanh v.v…Ngoài ra ta cũng cảm nhận thấy có thể có các thần thoại về anh hùng văn hoá chinh phục thiên nhiên biến thành cổ tích như Thạch Sanh kể về nhân vật có các chiến tích tiêu diệt yêu quái, Mai An Tiêm kể về người có công khai minh bạch phá vùng ven biển and tìm ra một loại cây ăn quả mới, Chử Đồng Tử kể về người có công tìm ra địa chỉ cư trú mới ở vùng đầm lầy…

Trong thần thoại của những dân tộc VN, nhiều môtip thần thoại về loài vật như Con Cóc, Con Rùa, Con Rắn đc nhào nặn lại, phát triển để biến thành các môtíp của chuyên mục khác. Thí dụ, ở những dân tộc, con cóc đi từ thần thoại [Cóc kiện trời, Lệnh Trừ] để sang truyện cổ tích [Chàng rể Cóc, Người lấy Cóc]. Con Rùa đi từ thần thoại Thần Biển đến truyền thuyết Thần Kim Quy v.v…

Cả hệ thống thần thoại những dân tộc VN đã đi được từ nguyên sơ đến chỗ phát triển cao hơn với dung tích rộng to hơn trong những áng mo, những sử thi – khan với những bề ngoài diễn xướng dân gian, and qua các bước giao lưu, tiếp biến, thần thoại đã song song với những chuyên mục khác của văn học dân gian trở nên kho tàng văn hoá quý giá của cả dân tộc VN ta.

Thần thoại Việt Nam đã là nguồn tư liệu quý giá cho toàn bộ những ngành khoa học thế giới ngày nay. Thần thoại tuy không cần là tài liệu sử học thực sự nhưng vì nó đã phản ánh ít nhiều tình trạng sinh hoạt thế giới loài người trong lịch sử, bởi vậy những sử gia phong kiến Việt Nam xưa trong khi viết sử đã đọc thêm nhiều ở thần thoại. Việc đặt thần thoại lên đầu quyển sử, làm thành 1 phần Ngoại kỷ như Ngô Sĩ Liên tuy là “Không đúng cách nhưng cũng nói lên một điều là thần thoại đã có rất nhiều cống hiến trong chừng mực nào đó cho lịch sử, là cái bóng của các sự việc lịch sử đời xưa” [Nguyễn Đổng Chi][15].

Xem Ngay: Segments Là Gì – Phân Khúc Thị Trường [Market Segmentation] Là Gì

Thần thoại còn đặt nền móng cho tôn giáo. So với người nguyên thuỷ thì chưa có tôn giáo, mà vạn vật đều hữu linh, thần thoại đã tạo được tín ngưỡng bái vật giáo nguyên thuỷ, là dây nối giữa vật tổ and thị tộc, thần thoại từ từ đã tô điểm, bổ sung cập nhật and làm nền móng cho toàn cầu thần của tôn giáo.

Thần thoại còn là nguồn cảm hứ
Thể Loại: San sẻ Kiến Thức Cộng Đồng

Video liên quan

Chủ Đề