Nơron thần kinh tiếng anh là gì
Liệt là một trong những lý do phổ biến nhất mà bệnh nhân đến gặp với các bác sỹ chăm sóc y tế ban đầu. Liệt là tình trạng mất cơ lực, mặc dù nhiều bệnh nhân còn sử dụng thuật ngữ này khi họ cảm thấy mệt mỏi hoặc có những hạn chế về chức năng (ví dụ do đau hoặc khớp hạn chế vận động) mặc dù cơ lực bình thường. Liệt có thể ảnh hưởng đến một vài hoặc nhiều cơ và tiến triển đột ngột hoặc từ từ. Các triệu chứng khác có thể xuất hiện tùy thuộc vào nguyên nhân. Liệt các nhóm cơ đặc biệt có thể gây rối loạn vận nhãn, nói khó, khó nuốt, hoặc liệt hô hấp. Vận động hữu ý được chỉ huy tại vỏ não vận động, ở phần sau của thùy trán. Các nơ-ron liên quan (nơ ron vận động trên hoặc bó vỏ gai) kết nối qua sy náp với các nơ-ron trong tủy sống (các tế bào thần kinh vận động dưới). Tế bào thần kinh vận động dưới truyền các xung động đến khớp nối thần kinh cơ để gây co cơ. Do vậy, các cơ chế chung của liệt bao gồm rối loạn chức năng
Vị trí của một số thương tổn tương quan với các triệu chứng thực thể:
Nguyên nhân thường gặp của liệt khu trú bao gồm Các nguyên nhân phổ biến nhất của liệt toàn thể là
Các nguyên nhân thường gặp của sự mệt mỏi bao gồm bệnh trầm trọng cấp tính do bất kỳ nguyên nhân nào, ung thư, nhiễm trùng mãn tính (ví dụ
HIV
Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau (HIV-1 và HIV-2) chúng phá hủy tế bào lympho CD4 + và làm giảm
khả năng miễn dịch... đọc thêm Việc đánh giá yếu nên cố gắng phân biệt liệt thật sự với mệt mỏi, sau đó kiểm tra các triệu chứng giúp xác định cơ chế hoặc vị trí gây bệnh (ví dụ, liệt do rối loạn chức năng của não, tủy sống, đám rối, dây thần kinh ngoại vi, khớp thần kinh cơ hoặc cơ) khi có thể, xác định nguyên nhân. Bệnh sử hiện tại nên bắt đầu với các câu hỏi mở, yêu cầu bệnh nhân mô tả chi tiết những gì họ đang trải qua khi bị liệt. Sau đó, có thể hỏi những câu hỏi cụ thể, đặc biệt về khả năng làm các công việc cụ thể, bao gồm đánh răng hoặc chải tóc, nói, nuốt, đứng dậy khỏi ghế, leo lên cầu thang và đi bộ. Các thầy thuốc lâm sàng cũng nên hỏi về sự khởi phát yếu (đột ngột hoặc từ từ) và tiến triển (ví dụ, cố định, xấu đi, không liên tục) của các triệu chứng. Cần hỏi câu hỏi đóng để phân biệt khởi phát đột ngột với sự phát hiện đột ngột; bệnh nhân có thể đột nhiên nhận ra các triệu chứng chỉ sau khi liệt tiến triển chậm vượt qua ngưỡng làm ngăn cản họ thực hiện một số công việc thông thường (ví dụ như đi bộ, buộc giày). Các triệu chứng quan trọng liên quan bao gồm thay đổi cảm quan, thị giác kép, mất trí nhớ, khó sử dụng ngôn ngữ, động kinh và nhức đầu. Các yếu tố làm liệt nặng lên, như nhiệt độ nóng (gợi ý bệnh xơ cứng rải rác) hoặc sử dụng lặp đi lặp lại một cơ (gợi ý nhược cơ). Thăm khám toàn thân nên tìm kiếm các triệu chứng gợi ý về nguyên nhân có thể gây ra, bao gồm những biểu hiện sau:
Tiền sử y khoa nên xác định các rối loạn đã biết có thể gây ra yếu hoặc mệt mỏi, bao gồm
Các thầy thuốc lâm sàng cần đánh giá các yếu tố nguy cơ đối với các nguyên nhân có thể, bao gồm các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng (ví dụ như quan hệ tình dục không an toàn, truyền máu, tiếp xúc với lao) và đột quỵ (ví dụ, tăng huyết áp, rung nhĩ, xơ vữa động mạch). Nên xem xét toàn bộ tiền sử các thuốc đã dùng. Tiền sử gia đình nên bao gồm các rối loạn về di truyền đã biết (ví dụ rối loạn cơ di truyền, bệnh lý kênh ion, bệnh cơ chuyển hóa, các bệnh thần kinh di truyền) và các triệu chứng tương tự trong các thành viên gia đình (gợi ý một rối loạn di truyền không nhận dạng được). Bệnh thần kinh vận động di truyền thường không được nhận ra trong các gia đình vì biểu hiện kiểu hình khác nhau, không đầy đủ. Ngón chân hình búa, bàn chân lõm, và chơi thể thao kém có thể gợi ý một bệnh thần kinh vận động di truyền không được chẩn đoán. Tiền sử xã hội cần lưu ý những điều sau:
Khám thần kinh và cơ toàn diện để xác định vị trí hoặc các triệu chứng phục vụ chẩn đoán. Những triệu chứng chính thường liên quan
khám vận động Đánh giá Hệ vận động như thế nào Các chi và đai vai phải được bộc lộ đầy đủ, sau đó tìm kiếm những thông tin dưới đây: Teo cơ Phì đại cơ Phát triển không đối xứng Giật bó cơ đọc thêm bao gồm kiểm tra, đánh giá trương lực cơ và kiểm tra cơ lực. Khám toàn thân để tìm chứng vẹo cột sống (đôi khi gợi ý bằng triệu chứng liệt mạn tính của cơ cạnh sống), các vết sẹo phẫu thuật và do chấn thương. Tư thế loạn trương lực (ví dụ: vẹo cổ) có thể cản trở các động tác, và biểu hiện giống liệt. Khám cơ để tiềm dấu hiệu giật bó cơ và teo cơ; cả hai có thể khởi đầu khu trú hoặc không đối xứng trong bệnh xơ cứng cột bên teo cơ (ALS). Giật bó cơ có thể nhìn thấy rõ nhất ở lưỡi những bệnh nhân bị ALS giai đoạn nặng. Teo cơ lan tỏa có thể rõ nhất ở bàn tay, mặt và vùng đai vai. Trương lực cơ được đánh giá bằng cử động thụ động. Gõ vào một cơ (ví dụ, cơ mô út) có thể gây giật bó cơ trong các bệnh thần kinh ngoại vi hoặc co rút cơ trong bệnh loạn dưỡng cơ. Kiểm tra cơ lực Đánh giá cơ lực như thế nào Bệnh nhân phàn nàn yếu có thể có nghĩa là mệt mỏi, vụng về, hoặc yếu cơ thực sự. Do đó, người khám phải xác định chính xác đặc điểm của các triệu chứng, bao gồm vị trí, thời gian xuất hiện,... đọc thêm nên bao gồm các cơ vùng gốc chi, ngọn chi, cơ duỗi và cơ gấp. Một số xét nghiệm các cơ lớn vùng gốc chi bao gồm đứng lên từ tư thế ngồi; ngồi xổm và đứng lên; và uốn cong, duỗi dài, và xoay đầu chống lại sự đề kháng. Cơ lực thường được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 5:
Mặc dù những con số này có vẻ khách quan, nhưng đánh giá cơ lực từ 3 đến 5 (những mức điển hình trong liệt giai đoạn sớm, khi thường có chẩn đoán) lại khá chủ quan; nếu triệu chứng một bên, việc so sánh với bên không bị ảnh hưởng sẽ cải thiện khả năng phân biệt. Mô tả cụ thể những gì mà bệnh nhân có thể hoặc không thể làm thường hữu ích hơn là chỉ đơn giản đưa ra mức độ liệt, nhất là để đánh giá sự thay đổi của liệt theo thời gian. Suy giảm nhận thức có thể gây mất khả năng duy trì vận động (không có khả năng tập trung chú ý vào việc hoàn thành một nhiệm vụ vận động), động tác lặp lại nhiều lần, thất dụng, hoặc nỗ lực không đầy đủ. Sự giả vờ và những kiểu liệt chức năng khác thường đặc trưng bởi kiểu liệt đột ngột, trong đó đột ngột mất đi cơ lực bình thường khi gắng sức.
Kiểm tra khả năng phối hợp
Làm thế nào để Đánh giá Dáng đi, Tư thế và Phối hợp động tác Dáng đi, tư thế và phối hợp động tác bình thường đòi hỏi sự toàn vẹn của con đường vận động, tiền đình,
tiểu não, và nhận cảm cảm giác ( xem thêm Bệnh lý vận động và tiểu não). Một tổn thương... đọc thêm bao gồm nghiệm pháp ngón tay chỏ-mũi và gót chân-đầu gối, bước đi nối gót để kiểm tra rối loạn chức năng tiểu não. Rối loạn này có thể xảy ra khi bị đột quỵ vùng tiểu não, teo thùy nhung tiểu não (ví dụ: do lạm dụng rượu),
một số chứng thất điều do teo bó gai tiểu não có tính di
truyền Thất điều di truyền Bệnh lý tiểu não có nhiều nguyên nhân, bao gồm dị tật bẩm sinh, thất điều di truyền và các bệnh mắc phải. Các triệu chứng khác nhau
tùy theo nguyên nhân nhưng thường bao gồm mất điều hòa (suy... đọc thêm , bệnh đa xơ
cứng Xơ cứng rải rác (MS) Xơ cứng rải rác (MS) được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện
và rối... đọc thêm Dáng đi được quan sát để tìm những triệu chứng sau:
Kiểm tra khả năng đi trên ngón chân và gót chân; yếu cơ ngọn chi làm cho những động tác này trở nên khó khăn. Đi bộ trên gót đặc biệt khó khăn khi tổn thương đường họng là nguyên nhân của sự yếu đuối. Đi giày dép là đáng chú ý đối với việc kéo (chân hơi cong ở hông và đầu gối, khiến cho đầu gối, đùi và đùi đập hoặc nhảy theo kiểu kéo) và đi bộ trên ngón chân. Dáng đi bàn chân ngựa và bước chân rơi có thể xuất hiện trong bại não thần kinh peroneal. Cảm giác ngứa ran và áp lực trong phân bố da liễu là một dấu hiệu tủy sống xảy ra với cả tổn thương bên trong và bên ngoài.
Việc đánh giá cũng bao gồm
Nếu bệnh nhân không liệt vận động rõ ràng, thì khám toàn thân rất quan trọng; ở những bệnh nhân này, cần tìm kiếm các rối loạn không do thần kinh cơ. Cần lưu ý dấu hiệu suy hô hấp (ví dụ như thở nhanh, thở yếu). Kiểm tra dấu hiệu vàng da, nhợt nhạt, phát ban, và sưng tấy. Những phát hiện quan trọng khác trong quá trình khám bệnh bao gồm mặt tròn như mặt trăng của hội chứng Cushing và sưng vùng mang tai, da trơn không có lông, cổ trướng và sao mạch do uống rượu kéo dài. Nên khám hạch vùng cổ, nách, và vùng bẹn; lưu ý tuyến giáp to. Nghe tim và phổi để phát hiện ral nổ, tiếng khò khè, kéo dài thì thở ra, tiếng thổi và tiếng ngựa phi. Khám bụng tìm khối u, cầu bàng quang nếu rối loạn chức năng tủy sống. Khám trực tràng để kiểm tra máu trong phân. Đánh giá phạm vi chuyển động của khớp. Nếu nghi ngờ liệt do côn trùng đốt cần phải kiểm tra kỹ, da, đặc biệt là da đầu, để tìm vết đốt. Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:
Bệnh sử giúp phân biệt liệt với mệt mỏi, xác định quá trình tiến triển theo thời gian của bệnh, và đưa ra những triệu chứng để định khu giải phẫu của liệt. Liệt không hoàn toàn và mệt mỏi có xu hướng gây ra các triệu chứng khác nhau:
Các mô hình thời gian của các triệu chứng rất hữu ích.
Các mô hình giải phẫu của liệt được đặc trưng bởi những khó khăn khi thực hiện các động tác. Các mô hình giải phẫu gợi ý một số chẩn đoán nhất định:
Khám thực thể tiếp tục giúp định khu tổn thương. Thứ nhất, các mô hình chung được phân biệt:
Những phát hiện bổ sung có thể giúp định khu tổn thương chính xác hơn. Ví dụ,
Liệt đi kèm các dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động dưới có thể do một rối loạn gây ảnh hưởng đến một hoặc nhiều dây thần kinh ngoại vi; rối loạn như thế có kiểu biểu hiện liệt rất đặc trưng (ví dụ, bàn tay rủ cổ cò trong chấn thương thần kinh quay). Khi bị tổn thương đám rối cánh tay hoặc thắt lưng cùng, các rối loạn vận động, cảm giác và phản xạ thường không đều và không theo bất kỳ sự phân bố của dây thần kinh ngoại vi nào. Bệnh nhân có nhiều bệnh có thể bị hạn chế chức năng nhưng không mất cơ lực thực sự. Ví dụ, rối loạn chức năng tim phổi hoặc thiếu máu có thể gây ra sự mệt mỏi do khó thở hoặc không dung nạp các bài tập. Rối loạn chức năng khớp (ví dụ, do viêm khớp) hoặc đau cơ (ví dụ, do đau đa cơ dạng thấp hoặc đau cơ xơ) có thể gây khó khăn cho các hoạt động thể chất. Những rối loạn thể chất này gây ra nhiều than phiền về liệt (ví dụ: cúm, nhiễm trùng tăng bạch cầu đơn nhân, suy thận) thường đã được chẩn đoán hoặc được gợi ý bởi những phát hiện trong bệnh sử, khám thực thể, hoặc cả hai. Nhìn chung, nếu bệnh sử và khám thực thể không phát hiện các bất thường gợi ý các rối loạn thực thể thì các rối loạn này khó xảy ra; Các rối loạn gây mệt mỏi liên tục, toàn thân không kèm theo kiểu thái dương hoặc giải phẫu sinh lý (ví dụ: trầm cảm; hội chứng mệt mỏi mãn tính; bệnh toàn thân chưa được phát hiện như thiếu máu nặng, suy giáp hoặc bệnh Addison; tác dụng phụ của thuốc) cần được xem xét. Mặc dù nhiều xét nghiệm có thể được thực hiện nếu bệnh nhân bị liệt thật sự, nhưng các xét nghiệm như vậy thường chỉ hỗ trợ. Nếu không có liệt thật sự, các triệu chứng lâm sàng khác (ví dụ, khó thở, nhợt, vàng da, tiếng thổi ở tim), nếu có, được sử dụng để định hướng xét nghiệm. Nếu bệnh nhân không có bất thường trên lâm sàng, thì thường kết quả xét nghiệm sẽ không bất thường. Trong những trường hợp như vậy, các phương pháp xét nghiệm rất khác nhau. Các xét nghiệm ban đầu thường bao gồm một số kết hợp của công thức máu (CBC), chất điện giải (bao gồm canxi và magiê), glucose, xét nghiệm chức năng thận và gan, hormone kích thích tuyến giáp (TSH), tốc độ máu lắng (ESR) và xét nghiệm huyết thanh viêm gan C. Nếu liệt toàn thân đột ngột hoặc nghiêm trọng hoặc có bất kỳ triệu chứng hô hấp, cần phải kiểm tra dung tích sống gắng sức và dung tích hít vào tối đa để đánh giá nguy cơ suy hô hấp cấp. Bệnh nhân có dung tích sống < 15 mL/kg hoặc dung tích hít vào gắng sức < 20 cm H2O có nguy cơ cao. Nếu liệt thật sự (và thường là sau khi đánh giá nguy cơ suy hô hấp cấp tính), xét nghiệm ban đầu tập trung chủ yếu vào việc xác định cơ chế liệt. Trừ phi nguyên nhân là rõ ràng, các xét nghiệm thường quy (công thức máu, điện giải (gồm canxi và magiê), xét nghiệm glucose, các chức năng thận và gan, TSH, ESR, xét nghiệm huyết thanh viêm gan C) thường được thực hiện. Các xét nghiệm được thực hiện để xác định vị trí và cơ chế của điểm yếu phụ thuộc vào các phát hiện lâm sàng. Nếu nghi ngờ rối loạn chức năng nơ-ron vận động trên là nguyên nhân của liệt, xét nghiệm chính là chụp MRI. CT được sử dụng khi không thể làm có xét nghiệm MRI (ví dụ ở bệnh nhân có máy tạo nhịp tim). Nếu nghi ngờ bệnh
tủy sống, phim MRI có thể phát hiện các tổn thương ở tủy sống. Xét nghiệm này cũng phát hiện được các nguyên nhân khác của liệt có biểu hiện giống bệnh lý tủy, bao gồm tổn thương đuôi ngựa, rễ thần kinh tủy sống, và đám rối thần kinh cánh tay và thắt lưng cùng. Có thể sử dụng chụp CT có bơm thuốc cản quang khi không có xét nghiệm MRI. Các xét nghiệm khác đã thực hiện (xem bảng
Một số nguyên nhân gây yếu cơ
Một số nguyên nhân gây liệt Nếu nghi ngờ bệnh đa dây thần kinh, bệnh cơ, hoặc bệnh lý synap thần kinh cơ, xét nghiệm quan trọng giúp phân biệt những nguyên nhân gây liệt này là xét nghiệm điện sinh lý (điện cơ và đo tốc độ dẫn truyền thần kinh). Sau khi bị tổn thương dây thần kinh, sự thay đổi tốc độ dẫn truyền thần kinh và sự rối loạn phân bố thần kinh trong cơ có thể mất vài tuần để phát triển, do đó các xét nghiệm điện sinh lý có thể không giúp ích khi bệnh mang tính cấp tính. Tuy nhiên, các xét nghiệm này có thể giúp phân biệt giữa một số bệnh cấp tính nhất định, chẳng hạn như bệnh thần kinh mất myelin cấp tính (như hội chứng Guillain-Barré), ngộ độc botulism cấp và các bệnh lý synap thần kinh cơ cấp khác. Nếu nghi ngờ bệnh cơ (gợi ý bởi cơ yếu, chuột rút cơ, và đau), có thể đo nồng độ các men cơ (ví dụ, creatine kinase [CK], aldolase, lactic dehydrogenase [LDH]). Tăng nồng độ các men này tương ứng với bệnh cơ nhưng cũng có thể cao trong các bệnh thần kinh (phản ánh sự teo cơ) và rất cao ở bệnh tiêu cơ vân do thiếu máu. Ngoài ra, nồng độ các men có thể không cao trong tất cả các bệnh cơ. Việc sử dụng cocaine thường xuyên cũng có thể làm tăng cao nồng độ CK kéo dài (giá trị trung bình, 400 IU/L). Các thầy thuốc lâm sàng có thể sử dụng MRI để xác định tình trạng viêm cơ, thường xảy ra trong các bệnh cơ do viêm. Cuối cùng, sinh thiết cơ có thể là cần thiết để chẩn đoán bệnh cơ hoặc viêm cơ. MRI hoặc điện cơ có thể giúp tìm một vị trí phù hợp để sinh thiết cơ. Tuy nhiên, nhiễu do kim sinh thiết có thể biểu hiện giống bệnh lý cơ; do đó, không nên thực hiện sinh thiết trong cùng một cơ được làm điện cơ. Xét nghiệm di truyền có thể giúp khẳng định một số chứng bệnh cơ di truyền. Có thể cần xét nghiệm các bệnh lý đặc hiệu:
Nguyên nhân của yếu cơ được điều trị. Đối với bệnh nhân liệt cấp tính, nguy cơ đe dọa tính mạng, có thể cần đến hỗ trợ hô hấp. Vật lý liệu pháp và vận động liệu pháp có thể giúp mọi người thích ứng với liệt kéo dài và giảm thiểu mất chức năng, bất kể nguyên nhân. Một số giảm phản xạ gân xương là phổ biến khi lão hóa, nhưng sự bất cân xứng hoặc mất phản xạ ngay cả khi dùng các biện pháp để tăng khả năng bộc lộ sẽ là bất thường. Bởi vì người cao tuổi có nhiều khả năng bị teo khối cơ trước đó,nằm liên tục trên giường có thể gây mất cơ nhanh chóng, đôi khi chỉ sau vài ngày. Người cao tuổi uống nhiều thuốc hơn và dễ bị bệnh cơ, bệnh thần kinh và mệt mỏi do thuốc; do đó, thuốc là nguyên nhân phổ biến gây ra liệt của người cao tuổi. Cảm giác quá yếu không thể đi lại được thường có nhiều nguyên nhân. Các yếu tố có thể bao gồm:
Đánh giá nên tập trung vào các yếu tố có thể điều trị. Vật lý trị liệu và phục hồi chức năng nói chung hữu ích cho dù nguyên nhân của liệt là gì.
|