Công trình kiến trúc phật giáo nào sau đây được xây dựng ở nước ta

Ðôi nét về kiến trúc Phật giáo thời Lý

Vương triều Lý [1009-1225] được xem như là giai đoạn mở đầu cho thời kỳ hưng thịnh lâu dài của phong kiến Việt Nam về chính trị - kinh tế cũng như về văn hóa - nghệ thuật. Sau một nghìn năm Bắc thuộc, nhà Lý quyết tâm xây dựng một nền độc lập lâu dài với một niềm tự hào tự tôn dân tộc, với khát vọng Ðại Việt cũng có thể sánh ngang hàng với Ðại Ðường, Ðại Tống ở Trung Hoa.

Tiếp nối tinh thần Phật giáo từ các triều đại trước, Phật giáo thời Lý trở thành quốc giáo và phát triển mạnh mẽ. Có lẽ tinh thần từ bi, bác ái của Phật giáo hòa hợp với tinh thần ôn hòa, bình dị của người Việt. Theo Ðại Việt sử ký toàn thư thì thời ấy, nhân dân 'lũ lượt đi ở chùa'. Mọi người làm việc gì cũng nghĩ đến sự phù trợ của Ðức Phật, Lý Thường Kiệt sau khi đánh Tống, bình Chiêm đã cho xây dựng chùa Báo Ân [Thanh Hóa] để tỏ lòng cảm tạ. Linh Nhâm thái hậu xây dựng cho mình đến hàng trăm ngôi chùa. Khi vừa lên ngôi, Lý Thái Tổ chưa xây dựng tôn miếu xã tắc, nhà vua đã cho xây dựng tám ngôi chùa. Sử cũ mô tả những ngôi chùa hết sức bề thế, uy nghiêm, trong khi cung điện của triều đình thì mô tả sơ sài. Rõ ràng là thời ấy, kiến trúc Phật giáo có vị trí quan trọng và nổi trội hơn cả các công trình kiến trúc khác. Tuy nhiên, ngày nay nói đến những ngôi chùa thời Lý ta chỉ còn hình dung qua nền móng và các thư tịch cổ để lại, vì không có công trình nào còn lại nguyên vẹn. Chùa Một Cột [chùa Diên Hựu] ở Hà Nội chỉ là một mô phỏng của ngôi chùa xưa, nhưng có quy mô nhỏ hơn rất nhiều.

Nói đến các công trình kiến trúc Phật giáo thời Lý, người ta thường nói đến tính quy mô của nó. Chùa Một Cột xưa [xây năm 1049] được dựng trên cột đá cao hàng vài chục mét, vươn lên giữa hai hồ Linh Chiểu và Bích Trí, như hình bông sen nở ngàn cánh, trong chùa có tượng mình vàng. Ðặc biệt chùa có quả chuông lớn, chuông Quy Ðiền nặng đến nỗi không thể treo được, phải đặt dưới đất. Chùa Phật Tích [Phượng Hoàng, Từ Sơn, Bắc Ninh] với tên chữ Vạn Phúc tự xây dựng năm 1057 gắn liền với truyền thuyết một tòa tháp cao chọc trời khi vỡ hiện ra pho tượng mình vàng uy nghi. Chùa được xây dựng với bốn cấp nền ăn sâu vào triền núi, mỗi lớp nền cao từ 4 đến 5 m. Lớp đầu tiên là nền đất, có chiều rộng 60 m, và chiều sâu 100 m, ba lớp nền sau được bó đá với chiều rộng khoảng 60 m, chiều sâu khoảng 100 m và được gắn kết với nhau bằng các bậc cầu thang. Kiến trúc ngôi chùa xưa chỉ còn lại bốn lớp nền, vừa qua chùa được xây dựng lại với quy mô khá bề thế để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

Cùng với kiến trúc chùa Phật Tích, chùa Dạm [Quế Võ, Bắc Ninh] được xây dựng năm 1086, trên núi Dạm. Ngôi chùa cũng gồm bốn lớp nền ăn sâu vào triền núi, mỗi lớp có chiều cao khoảng 5-6 m. Với diện tích rộng gần 8.000 m2, bề mặt của mỗi lớp rộng khoảng 65 m và chiều sâu của bốn lớp khoảng 120 m. Ngôi chùa bề thế đến mức Trần Nhân Tông khi đi vãn cảnh chùa đã viết: Bức tranh kiến trúc mười hai lớp - Mắt thấy thiên nhiên rộng vạn lần [Thập nhị lâu đài khai họa lục - Tam nhiên thế giới diệc thị màu]. Tiếc rằng ngôi chùa bề thế đó ngày nay chỉ còn lại các nền móng, song vẫn có thể hình dung về quy mô của nó. Trong dân gian vẫn còn giai thoại kể về câu ca Trăng mười tám đóng cửa chùa Dạm rằng, dân thôn Tự Môn [Cửa Chùa] mỗi khi cùng nhà chùa đóng cửa, thì kể từ tiếng trống thu không điểm đến lúc trăng mười tám mọc mới đóng xong hết cửa chùa. Cùng với chùa Phật Tích, chùa Dạm, Bà Tấm, chùa Hương Lãng cũng là những công trình kiến trúc hết sức bề thế. Chùa Bà Tấm [Gia Lâm, Hà Nội] có bậc cửa ra vào rộng 12 m, thượng điện rộng đến 60 m, còn diện tích nội tự của chùa Hương Lãng rộng gần 40.000 m2.

Nói đến tính quy mô của kiến trúc Phật giáo thời Lý còn phải kể đến các tháp Phật. Tháp chùa thời Lý khác với tháp của những ngôi chùa thời sau, đó là nơi thờ Phật chứ không phải mộ của các nhà sư, là nơi để hành lễ chứ không phải để tưởng niệm. Tháp thời Lý thường ở vị trí trung tâm của ngôi chùa, được làm nhiều tầng, trở thành biểu tượng thiêng liêng nối trời với đất, tạo ra sự hòa hợp âm - dương, gửi gắm ý nguyện của phật tử với Ðức Phật trên cõi Niết Bàn. Các tháp Phật thời Lý như tháp Phật Tích, tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn... nay cũng chỉ còn lại nền móng, dựa vào công thức xây dựng tháp cổ và mô hình tháp bằng đất nung khảo cổ học tìm được, các nhà nghiên cứu phỏng đoán các tháp thời Lý thường cao hơn mười tầng và có chiều cao hàng mấy chục mét. Gần đây Viện Mỹ thuật có nghiên cứu và xác định chiều cao của tháp Phật Tích khoảng 36 m.

Nói đến những kiến trúc Phật giáo thời Lý, bên cạnh tính quy mô của những công trình, còn cần nhắc đến kết cấu chắc chắn, cân đối, mà ở đó nổi bật lên là dạng kết cấu mặt bằng hình vuông hướng vào trung tâm là nơi thờ Phật như chùa Một Cột, hoặc kết cấu tầng tầng lớp lớp mở rộng không gian từ ngoài vào trong như kiến trúc chùa Phật Tích, chùa Dạm. Ngoài ra nói đến chùa thời Lý thường đi liền với cảnh quan thiên nhiên rất đẹp, gắn với núi, với sông, với những cánh đồng mênh mông tạo thành những phong cảnh hữu tình, hòa hợp giữa con người và trời đất. Và trang hoàng cho các công trình đó là những tác phẩm hội họa, điêu khắc, với hình ảnh rồng, phượng, mây, sóng, hoa sen, hoa cúc, nhạc công, tiên nữ... làm cho công trình trở nên bay bổng, tạo ra chốn tiên cảnh ở trần gian vừa như thực lại vừa như mơ. Ngày nay, qua dấu tích còn lại với những nền móng, chân tảng, những viên ngói bò chạm rồng chạm phượng, v.v. cùng các thư tịch người xưa để lại, chúng ta có thể hình dung ra kiến trúc Phật giáo thời Lý, một loại công trình nổi bật trong lịch sử kiến trúc Việt Nam. Và đó chính là những di sản văn hóa vật thể, thể hiện tâm hồn hiền hậu, lối sống hiền hòa vốn có của người Việt, đồng thời là khát vọng của một vương triều đã hòa chung với khát vọng của nhân dân để cùng cầu mong xây dựng một đất nước phồn vinh.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

  • Khai mạc Tuần Văn hóa -Du lịch Long An năm 2022
  • Tạp chí Văn hóa Doanh nghiệp Việt Nam kỷ niệm 5 năm ra số đầu
  • Quảng bá phim tài liệu Việt Nam sóng Truyền hình Quốc hội
  • Phối hợp tuyên truyền hiệu quả chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Cao Bằng
  • Nữ doanh nhân Khương Phương Anh đăng quang Hoa hậu Thương hiệu Việt Nam 2022
  • Bến Tre: Đảm bảo tiến độ thực hiện Đề án Làng Văn hóa du lịch Chợ Lách
  • Quy hoạch xây dựng công trình Khu tưởng niệm cụ Nguyễn Sinh Sắc phù hợp với tổng thể chung

[HNMCT] - Lý Công Uẩn lập ra vương triều Lý năm 1009, được sự ủng hộ rất lớn của giới Phật giáo, vì thế ông ủng hộ việc xây chùa. Thời đó, chùa chiền mọc lên khắp nơi, trong đó có hai công trình Phật giáo tiêu biểu đều được xây dựng ở kinh đô Thăng Long trong thế kỷ XI là chùa Diên Hựu [chùa Một Cột] và chùa Báo Thiên.

Chùa Một Cột.

Về thời điểm xây chùa và cái tên Diên Hựu, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Năm Kỷ Sửu, niên hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ 6 [1049]. Mùa đông tháng 10, dựng chùa Diên Hựu [mãi mãi tốt lành]. Trước đây, vua [Lý Thái Tông] nằm mơ thấy Phật Quan âm ngồi trên đài sen dẫn vua lên đài. Đến khi tỉnh dậy nói lại với quần thần, có kẻ cho là điềm bất thường. Có thiền sư là bậc mẫn tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá giữa mặt đất, làm đài sen và tượng Quan âm ở đỉnh cột như đã thấy trong mộng, cho các sư đi vòng quanh tụng kinh cầu cho vua được trường thọ. Cho nên đặt tên như vậy”.

Về vị trí, sách Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ viết: “Chùa Diên Hựu ở thời Lý tục gọi là chùa Một Cột, nằm ở bên ngoài cửa Bạch Hổ của hoàng thành, về phía Đông Nam trường Thái Hòa”.

Cho đến nay, tài liệu được cho là cổ nhất về chùa Diên Hựu là văn bia Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi đời vua Lý Nhân Tông. Văn bia này mô tả rất kỹ kiến trúc chùa trong lần trùng tu lớn trước đó 16 năm như sau: “Mở rộng chùa Diên Hựu ở viên lâm phía tây cấm thành, noi theo quy chế cũ trước đây nhưng thực hiện những mưu tính mới theo ý vua, đó là đào ao sen Linh Chiểu, giữa ao vọt lên một cột đá. Trên đỉnh cột đặt hoa sen ngàn cánh, trên hoa đặt vững một tòa điện tía. Trong điện đặt tượng Quan âm dát vàng. Bên ngoài ao có hành lang vẽ vây quanh, bên ngoài vòng hành lang là ngòi nước biếc, mỗi mặt đều bắc cầu vồng đi thông vào. Nơi cây cầu ở sân phía trước, hai bên đầu cầu có hai ngọn bảo tháp lợp ngói lưu ly”.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và sau này là Lịch sử Thủ đô Hà Nội [Viện Sử học xuất bản năm 1960] thì chùa Diên Hựu được trùng tu nhiều lần do xuống cấp. Ngày 11-9-1954, chùa bị lính Pháp đặt mìn phá hủy, chỉ còn cây cột với mấy cái xà gỗ. Sau năm 1954, Nhà nước cho phục dựng chùa như hiện nay.

Ngôi chùa thứ hai là Sùng Khánh Báo Thiên tự [còn gọi là Báo Thiên tự]. Chùa được xây dựng vào năm 1056, dưới triều vua Lý Thánh Tông. Trong chùa có một quả đại hồng chung nặng 7.260kg cùng rất nhiều đồ thờ bằng đồng như tượng Phật, thiền trượng, giới đao hộ pháp nhà Phật... Giữa sân chùa có một ngôi bảo tháp cao 12 tầng [tương đương 80m] tên là Đại Thắng Tư Thiên. Tháp có chóp làm bằng đồng, được xây dựng một năm sau khi chùa khánh thành. Bên trong tháp có nhiều tượng bằng đá với hoa văn tinh xảo. Tháp được xếp vào một trong “tứ đại khí” của An Nam gồm tượng Phật chùa Quỳnh Lâm, vạc Phổ Minh, chuông Quy Điền và tháp Báo Thiên.

Nhà thơ Phạm Sư Mạnh đời Trần từng ca ngợi tháp Báo Thiên: “Trấn áp đông tây cũng đế kỳ/ Khung nhiên nhất tháp độc nguy nguy/ Sơn hà bất động kinh thiên bút/ Kim cổ nam ma lập địa chùy/ Phong bãi chung linh thời ứng đáp/ Tinh di đăng chúc dạ quang huy/ Ngã lai dục tủy đề thi bút/ Quản lãnh xuân giang tác nghiễn trì” [Trấn áp đông tây, giữ đế kỳ/ Một mình cao ngất tháp uy nghi/ Chống trời cột trụ non sông vững/ Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy/ Chuông khánh gió đưa vang đối đáp/ Đèn sao đêm đến rực quang huy/ Đến đây những muốn lưu danh tính/ Mài mực sông xuân viết ngẫu thi - bản dịch của Viện Hán Nôm].

Kéo dài gần 400 năm từ triều Lý đến triều Trần, chùa Báo Thiên là ngôi chùa nổi tiếng của kinh đô Thăng Long. Về nguyên nhân tháp bị mất, theo cuốn Hà Nội nghìn xưa [Trần Quốc Vượng, Vũ Tuân Sán] và bộ sách 3 tập Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX của Nguyễn Văn Uẩn thì: “Thời Minh thuộc, tướng giặc Vương Thông bị nghĩa quân Lam Sơn vây khốn trong thành Đông Quan, chúng đã phá các chùa chiền, vơ vét chuông khánh đồng để đúc binh khí chống lại quân ta. Tháp và chùa Báo Thiên bị phá hủy nặng nề và chuông Báo Thiên bị mất”. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết khác là tháp bị sét đánh đổ. Như vậy, có thể khẳng định, tháp Báo Thiên chỉ tồn tại đến trước khi Lê Thái Tổ lên ngôi [1428]. Vị trí của chùa Báo Thiên xưa nay là khu vực quanh Nhà thờ Lớn. 

Trong hai công trình Phật giáo tiêu biểu thời Lý nói trên nay chỉ còn chùa Diên Hựu. Chùa được phục dựng theo nguyên mẫu Diên Hựu thời Nguyễn, là công trình có kiến trúc vô cùng độc đáo trong khu vực Đông Nam Á.

Video liên quan

Chủ Đề