10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022

Bài này viết về tiền như là một phương tiện thanh toán trong kinh tế tỷ đô và thương mại. Đối với các ý nghĩa khác của tiền, xem Tiền (định hướng).

Show

10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022

Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Bạn có thể giúp cải thiện trang này nếu có thể. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết.

10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022
Tiền giấy của Công quốc BraunschweigTiền giấy 10.000.000 Mark của thành phố Danzig (1923)
10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022
Tờ tiền 200 Euro
10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022
Tờ tiền 100 đô la Mỹ

Tiền là vật ngang giá chung để trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Tiền được mọi người chấp nhận sử dụng, do Nhà nước phát hành và bảo đảm giá trị bởi các tài sản khác như vàng, kim loại quý, trái phiếu, ngoại tệ.

Tiền thường được nghiên cứu trong các lý thuyết về kinh tế cũng như trong triết học và xã hội học.

Định nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền ra đời từ nhu cầu kinh tế thực tế của con người. khi nền sản xuất đạt đến một trình độ nhất định và con người có thể tự do đi lại, thay vì phải chuẩn bị hành lý cồng kềnh cho chuyến đi dài ngày, một lượng nhỏ kim loại quý hoặc tiền có thể được sử dụng thay thế.

Luật pháp yêu cầu mọi người chấp nhận rằng tiền là một phương tiện dùng để thanh toán. Trong kinh tế học, người ta có nhiều khái niệm về tiền:

  • Tiền mặt: Là tiền dưới dạng tiền giấy và tiền kim loại (hiện kim), có thể bao gồm tiền mã hóa theo định nghĩa của từng quốc gia.
  • Tiền gửi ngân hàng: Là tiền mà các doanh nghiệp và cá nhân gửi vào ngân hàng thương mại nhằm mục đích phục vụ các thanh toán không dùng tiền mặt. Chúng có thể dễ dàng chuyển thành tiền mặt.
  • Những tài sản có thể dễ dàng chuyển thành tiền: Trái phiếu, kỳ phiếu, hối phiếu, tiền tiết kiệm, ngoại tệ

Sự hình thành[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền là một phương tiện trao đổi đa năng để đơn giản hóa các hoạt động thương mại. Trong khi trước kia tiền thường là các phương tiện trao đổi có giá trị thực (ví dụ như đồng tiền bằng vàng) thì tiền ngày nay thường được làm từ vật liệu mà chính nó không có giá trị (tiền giấy).

Trong trao đổi quốc tế người ta gọi các đơn vị tiền khác nhau là tiền tệ. Giá trị của tiền hình thành từ trị giá đối ứng mà tiền đại diện.

Ngày xưa vàng và bạc là các vật bảo đảm giá trị của tiền tại châu Âu. Ngày nay việc này không còn thông dụng nữa và tiền là tượng trưng cho giá trị của hàng hóa mà người ta có thể mua được. Chính vì thế mà khi đưa thêm tiền giấy hay tiền kim loại vào sử dụng thì tổng giá trị của tiền lưu thông trong một nền kinh tế không được nâng cao thêm mà chỉ dẫn đến lạm phát.

Nguồn gốc và lịch sử của tiền[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày nay, chúng ta sử dụng cả tiền xu và tiền giấy, nhưng trước kia thì không Trước khi những đồng tiền kim loại và tiền giấy xuất hiện, người ta đã sử dụng nhiều thứ trao đổi khác, Chẳng hạn có những nơi người ta sử dụng răng cá mập như là vật trao đổi trung gian. Ở nhiều nơi khác, tiền có thể là những chiếc lông chim sặc sỡ và những chiếc vỏ sò quý hiếm. Có nơi người ta còn dùng cộng lông cứng trên đuôi voi để làm tiền.

Lông chim là loại tiền nhẹ nhất đã từng có từ trước đến nay. Chúng được sử dụng trên đảo Santa Cruz. Đá là loại tiền nặng nhất. Chúng được sử dụng trên đảo Yap ở Thái Bình Dương. Có hòn nặng trên 500 cân Anh (1 cân Anh = 0,4536 kg). Loại tiền nhỏ nhất từ trước đến nay được phát hiện ở Hy Lạp. Nó được làm bằng kim loại, nhưng có kích thước nhỏ hơn hạt táo.

Không ai biết chính xác người ta bắt đầu sử dụng tiền dưới những hình thức đồng tiền kim loại từ khi nào. Các nhà khảo cổ đã phát hiện những đồng tiền kim loại có từ năm 600 trước công nguyên, vì thế ta biết chúng đã được lưu hành trong suốt một thời gian dài. Lúc đầu người ta sử dụng những kim loại quý như vàng và bạc để chế tiền xu. Họ in hình người hoặc (con) thú trên mỗi đồng tiền để xác định giá trị của nó. Trong những năm 1200, người Trung Quốc đúc những đồng tiền bằng sắt. Những đồng tiền này giá trị chẳng là bao, cho nên người dân phải sử dụng một số lượng lớn khi mua hàng. Do đó rất bất tiện khi phải mang một số lượng lớn những đồng tiền sắt nặng nề nên chính phủ đã cho in những giấy biên nhận. Người ta mang các biên nhận này đến ngân hàng để đổi ra tiền xu. Đây là ví dụ đầu tiên ta có được về việc phát hành và sử dụng tiền giấy. Ngày nay, hầu hết các nước đều sử dụng cả tiền xu lẫn tiền giấy. Ở Mỹ, các loại tiền giấy đều có cùng kích cỡ và màu sắc như nhau. Chẳng hạn, tờ một đô la có cùng kích cỡ và màu sắc y như tờ một trăm đô la. Ở nhiều quốc gia khác, tiền giấy được in dưới nhiều kích cỡ và màu sắc khác nhau. Tờ có kích thước nhỏ hơn thì có giá trị thấp hơn. Việc này tạo điều kiện cho chúng ta chỉ cần nhìn thoáng qua là có thể xác định được giá trị của chúng. Tất cả những sự kiện này khiến lịch sử tiền tệ trở thành một công cuộc nghiên cứu lý thú.

Tối ưu hóa thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Người ta tin rằng đầu tiên hàng hóa và các dịch vụ được trao đổi trực tiếp với nhau (thương mại trao đổi). Vì điều này không thực dụng nên hàng hóa và dịch vụ được trao đổi với các loại hàng hóa khác mà có thể được tiếp tục trao đổi một cách dễ dàng. Loại hàng hóa là tiền này là những vật có giá trị đẹp hay hữu ích như bò, lạc đà, lông súc vật, dao, xẻng, vòng trang sức, đá quý, muối và nhiều loại khác. Khi người ta khám phá ra rằng một số vật không còn được sử dụng nữa mà chỉ được tiếp tục trao đổi thì các bản sao chép nhỏ hơn và ít có giá trị hơn của các vật này được sử dụng làm phương tiện thanh toán. Thuộc về các loại hàng hóa trở thành tiền là các vỏ sò cho đến khi người Trung Quốc tiến quân vào năm 1950 (chữ "bối" 貝 trong "bảo bối" 寶貝 chỉ đến con sò).

Đó là các hình thức thanh toán đầu tiên trước khi có tiền. (Tiền trong tiếng La tinh là pecunia bắt nguồn từ pecus có nghĩa là con bò vì đồng tiền kim loại đầu tiên của La Mã tượng trưng cho giá trị của một con bò.) Khả năng có thể đếm được, dễ bảo toàn, dễ vận chuyển đã đóng một vai trò quan trọng trong việc lựa chọn vật liệu cũng như khả năng có thể giữ được giá trị. Các thỏi hay sợi dây bằng đồng thiếc hay bạc đáp ứng được các yêu cầu này vì có giá trị bền vững và có thể bảo toàn dễ dàng.

Các đồng tiền kim loại đầu tiên được người Lydia ở phía Tây của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay đúc từ vàng, trong thời gian giữa 640 và 600 TCN, có nhiều kích thước và giá trị khác nhau và được dùng như là một phương tiện thanh toán để đơn giản hóa việc trả lương cho những người lính đánh thuê. Một lượng nhất định của các hạt bụi vàng được nấu chảy thành đồng tiền và sau đó hình của nhà vua được dập nổi lên trên. Nhà vua người Lydia cuối cùng, Croesus, vì thế mà mang danh là giàu có vô hạn. Các đồng tiền kim loại này đã làm cho việc thương mại dễ dàng đi rất nhiều vì chúng có ưu điểm là bao giờ cũng có kích thước, trọng lượng và hình dáng không thay đổi và thay vì là phải cân thì có thể đếm được.

Các chỉ trích và phê phán về thuyết cho rằng tiền hình thành từ thương mại trao đổi xuất phát từ những người đại diện cho Chủ nghĩa Nợ (tiếng Anh: Debitism), đặc biệt là Paul C. Martin. Lý luận được đưa ra là sử dụng một vật trao đổi thứ ba trước tiên là sẽ làm cho việc trao đổi phức tạp thêm. Từ một giao dịch biến thành hai giao dịch. Điều quyết định chính là chức năng của tiền, dùng để nối tiếp thời gian giữa nhu cầu cần dùng hàng hóa A và sự sản xuất hàng hóa B. Vì thế mà tiền ngay từ đầu không phải là hàng hóa và cũng không phải là một vật trao đổi mà là dấu hiệu cho một mối quan hệ nợ.

Tiền kim loại[sửa | sửa mã nguồn]

Mãi cho đến trong thế kỷ 18 giá trị của các loại tiền tệ của châu Âu được định nghĩa thông qua lượng kim loại quý. Bên cạnh việc theo dõi sản xuất trong nước, các xưởng đúc tiền quốc gia còn theo dõi cả việc đúc tiền của nước ngoài. Một tiền tệ được đánh giá quá cao hay quá thấp khi đồng tiền được tính trên hay dưới giá trị của kim loại trong lúc tính toán với các tiền tệ khác trên thế giới.

10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022
Chứng phiếu vàng của chính phủ Hoa Kỳ (1922)

Việc cố tình mài mòn đồng tiền để lấy bớt đi kim loại đã tạo nên nhiều vấn đề rất lớn trong việc sử dụng tiền kim loại. Việc giá trị của các kim loại quý biến động khi so sánh với nhau còn mang lại nhiều vấn đề lớn hơn. Giá trị của các loại tiền tệ khác nhau, bao gồm các đồng tiền bằng vàng, bạc và đồng, không thể giữ ổn định khi so sánh với nhau được. Bạc được mang ra khỏi Tây Ban Nha và Anh vì các thương gia người Tây Ban Nha và người Anh đánh giá các đồng tiền vàng cao hơn một ít so với các đối tác thương mại quốc tế của họ, tạo thành một vấn đề lan rộng khắp trong thương mại quốc tế: Ở châu Á người ta lại không thấy có lý do gì để đánh giá vàng cao hơn như ở châu Âu. Vì thế mà bạc được mang đến châu Á để đổi lấy vàng. Giải pháp cho vấn đề này trong đầu thế kỷ 18 tại Anh là loại tiền tệ về nguyên tắc dựa trên vàng, Ngân hàng Quốc gia Anh (Bank of England) bảo đảm sẽ trả cho người sở hữu đồng tiền Anh quốc giá trị tương ứng với giá trị của vàng trên thị trường tại mọi thời điểm. (Xem: Kim bản vị). Các vấn đề của cuộc cải cách này có thể nhìn thấy ngay trước mắt: Làm sao có thể bảo đảm là ngân hàng không phát hành tiền nhiều hơn là số lượng tiền được bảo chứng bằng vàng của ngân hàng? Trong thập niên 1730 đã có một cuộc khủng hoảng tín nhiệm và Ngân hàng Quốc gia Anh chỉ được cứu thoát khi giới đại thương nghiệp của Luân Đôn sẵn sàng gánh vác lấy sự bảo đảm này. Về mặt khác các thủ đoạn gian lận trong tiền kim loại và biến động giá trị giữa các loại tiền kim loại trong nước không còn nữa.

Mãi cho đến trong thế kỷ 19 một số tiền tệ ví dụ như Đô la Mỹ vẫn được bảo chứng bằng vàng. Sau đó, chế độ bản vị vàng đã bị hủy bỏ trên toàn cầu để phục vụ cho việc tự do phát hành thêm tiền phục vụ các mục đích riêng của các chính phủ - dẫn đến hậu quả lạm phát.

Tiền mã hóa[sửa | sửa mã nguồn]

Vì những nhược điểm của tiền kim loại và tiền pháp định, đồng thời với sự phát triển của mạng Internet, từ năm 2009, một loại tiền tệ mới đã được phát minh dựa trên sự đảm bảo của thuật toán mã hóa của mạng lưới máy tính, với tên gọi là tiền mã hóa. Bitcoin là loại tiền mã hóa đầu tiên và điển hình nhất, được phát minh bởi Satoshi Nakamoto. Đồng tiền này có khả năng cạnh tranh trực tiếp với vàng do có đầy đủ các tính chất của kim loại này và vượt qua được sự kiểm soát của chính phủ.[1]

Tiền ngân hàng[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền ngân hàng hay còn gọi là tiền ghi nợ đang được lưu thông phổ biến trong các nền kinh tế hiện đại. Một khoản tiền gửi chính là tiền ngân hàng vì đó là khoản tiền ngân hàng nợ chủ tài khoản. Chủ tài khoản có thể rút tiền mặt hoặc viết séc, ra lệnh cho ngân hàng chuyển tiền để thanh toán cho một bên thứ ba. Tiền ngân hàng là phương tiện thanh toán được chấp nhận rộng rãi.

Sử dụng tiền và các chức năng của tiền[sửa | sửa mã nguồn]

Nếu một người có tiền thì có thể dùng tiền để làm những việc sau đây:

  • Tiêu tiền (tiêu thụ, phương tiện thanh toán)
  • Gửi tiền để lấy tiền lãi (đầu tư)
  • Đổi lấy một loại tiền tệ khác (trao đổi)
  • Trữ tiền (bảo toàn giá trị)
  • Sưu tập tiền.

Tổng số tiền trong lưu hành phản ánh sự phân chia của sản phẩm quốc gia: Lượng tiền mà một người sở hữu tương ứng với lượng sản phẩm quốc gia mà người đó có thể có khi tiêu dùng lượng tiền sở hữu.

Chức năng là phương tiện thanh toán[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một nền kinh tế không có một chuẩn mực đo giá trị chung (Ví dụ như là tiền) thì một giao dịch thành công giữa 2 vật trong kinh tế đòi hỏi các nhu cầu trao đổi phải phù hợp với nhau. Một ví dụ: Một người nông dân muốn bán ngũ cốc và cần dụng cụ. Một thợ thủ công muốn đổi dụng cụ để lấy thịt. Giữa 2 người này sẽ không bao giờ có một cuộc mua bán trao đổi vì ý định bán của người nông dân không phù hợp với ý định mua của người thợ thủ công. Cả hai người có thể phải tìm kiếm rất lâu cho đến khi gặp được một người có ý định giao dịch phù hợp. Cùng với tiền quá trình này được đơn giản hóa đi rất nhiều: Người nông dân có thể bán ngũ cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được để đổi lấy dụng cụ tại người thợ thủ công. Người thợ thủ công có thể dùng tiền thu được mua thịt tại một người thứ tư.

Chức năng là đơn vị đo lường giá trị[sửa | sửa mã nguồn]

Khi tiền là một chuẩn mực chung để đo giá trị thì tất cả các giá cả của một nền kinh tế có thể được thể hiện bằng đơn vị tiền tệ. Trong một nền kinh tế với 1 triệu loại hàng hóa khác nhau khi so sánh giá trị trao đổi của mỗi hai loại hàng hóa một sẽ có vào khoảng 500 tỷ giá tương đối khác nhau (Ví dụ: 1 giờ lao động = 5 bánh mì; 1 giờ lao động = một cái áo; 1 giờ lao động = 1 kg thịt; 5 bánh mì = một cái áo; một cái áo = 1 kg thịt,...). Khi sử dụng tiền như là một chuẩn mực giá trị chung thì chỉ còn 1 triệu tỷ lệ trao đổi (5 đơn vị tiền = 1 giờ lao động = 5 bánh mì = một cái áo = 1 kg thịt =...), vì thế mà khi so sánh giá cả không còn phải tốn nhiều công sức nữa.

Phương tiện tích luỹ[sửa | sửa mã nguồn]

Một phương tiện thanh toán phải giữ được giá trị của nó. Vì thế mà hầu như chỉ là các loại hàng hóa không hư hỏng mới được thỏa thuận là "tiền" (Ví dụ như là vàng hay kim cương). Nếu tiền không tồn tại thì một người nông dân chỉ có khả năng trao đổi ngũ cốc để lấy các hàng hóa khác cho đến khi ngũ cốc này bị hư hỏng. Vì thế mà người nông dân tốt nhất là nên trao đổi ngũ cốc sớm để đổi lấy tiền "không bị hư hỏng". Điều này còn được gọi là chức năng bảo toàn giá trị hệ quả (consecutiv). Chức năng bảo toàn giá trị tạo thành (constitutiv) là chức năng tạo tài sản từ tiền bằng cách cất giữ, tức là giữ tiền duy nhất chỉ vì muốn bảo toàn giá trị.

Tiền là đơn vị đo trọng lượng[sửa | sửa mã nguồn]

Trong quá trình trao đổi thương mại xưa và nay, Tiền còn là một đơn vị đo trọng lượng hàng hóa.

Trung Quốc thị chế (Dùng tại Trung Quốc Đại Lục hiện nay):

1 cân = 10 lượng; 1 lượng = 10 tiền; 1 tiền = 5 khắc (=> 1 cân = 500 khắc)

Trung Quốc cựu chế: Dùng trong xã hội Trung Hoa xưa và nay vẫn đang dùng tại Hương Cảng. Riêng tại Việt Nam: hiện vẫn dùng trong thị trường vàng bạc, đông dược:

1 cân 斤 = 16 lượng 兩(lạng); 1 lượng = 10 tiền 錢; 1 tiền = 3.73 khắc 克 (=> 1 cân = 596.8 khắc). Trong Đông y hiện vẫn dùng đơn vị tiền = 1/10 lượng (Dân Việt quen gọi TIỀN 錢 là đồng cân hay chỉ). Trên thị trường vàng bạc hiện nay, đơn vị lượng vẫn rất thông dụng: 1 lượng = 10 chỉ (10 tiền).

Cung cấp tiền[sửa | sửa mã nguồn]

Quá trình cung cấp tiền ngày nay[sửa | sửa mã nguồn]

Trên lý thuyết có thể phân biệt hai loại tiền khác nhau. Loại thứ nhất là tiền của ngân hàng quốc gia, do ngân hàng quốc gia phát hành hay tiêu hủy, tiền mặt thuộc về loại tiền này. Loại thứ hai là tiền xuất phát từ các ngân hàng thương mại mà chính xác thì chỉ là các yêu cầu thanh toán tiền (các khoản phải thu). Phương cách cung tiền thông dụng nhất là cho vay.

Các ngân hàng thương mại cung cấp tiền bằng cách cho khách hàng vay tiền. Sau khi chấp nhận cho khách hàng vay tiền, ngân hàng sẽ ghi khoản tiền này vào tài khoản của khách hàng và người vay có thể chuyển khoản số tiền này đến các khách hàng khác của ngân hàng hay đến khách hàng của các ngân hàng khác. Tiền được tạo thành thông qua chu trình này vì một mặt tiền được đưa vào lưu hành nhưng về mặt khác chỉ hình thành yêu cầu thanh toán của ngân hàng đối với người vay và chỉ là một mục của các khoản phải thu trong bản cân đối kế toán của ngân hàng. Ngược lại khi hoàn trả nợ thì tiền được tiêu hủy đi vì tiền quay về ngân hàng và món nợ được thanh toán.

Vì khoản tiền vừa được tạo thành lại có thể là cơ sở để tạo thành các khoản tiền khác nên trên lý thuyết không có giới hạn tối đa cho các khoản tiền do ngân hàng tạo thành. Để kiểm soát quá trình này ngoài các quy định cân đối kế toán (nợ quá mức, bảo chứng vốn tự có) còn có dự trữ tối thiểu bắt buộc, tức là các ngân hàng thương mại phải ký thác tại ngân hàng quốc gia một tỷ lệ nhất định của số tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng.

Khi vốn tự có của ngân hàng cộng với tiền gửi của khách hàng không đủ để có thể cho vay nhiều như ý muốn ngân hàng thương mại có thể vay tiền từ ngân hàng quốc gia, người ta gọi đó là tái cấp vốn.

Ngân hàng quốc gia cũng có thể tạo thêm tiền mà không cần phải cho vay, ví dụ như bằng cách mua ngoại tệ, kim loại quý hay chứng khoán. Ngoài công cụ này ra ngân hàng quốc gia còn có thể chủ động mua trái phiếu hay cho ngân hàng thương mại vay. Việc cho chính phủ vay tiền đã bị cấm trong vùng Euro từ bước thứ hai của Liên minh Tiền tệ châu Âu trong năm 2004, tức là nhà nước không được phép vay tiền của ngân hàng quốc gia. Tại Mỹ thì lại khác: Ví dụ như vào ngày 17 tháng 11 năm 2004 mục "U.S. Treasury" (trái phiếu của ngân khố Mỹ) đã chiếm đến 89,3% tổng tài sản của Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Nói một cách khác đồng Đô la Mỹ được "bảo chứng" gần như hoàn toàn bằng nợ quốc gia của chính phủ Mỹ.

Để một khách hàng của ngân hàng có thể thanh toán các giao dịch bằng tiền ở bên ngoài hệ thống ngân hàng, ngân hàng quốc gia in tiền giấy và các ngân hàng có thể "vay" (đúng ra là "mua" cùng với một thỏa thuận mua lại của ngân hàng quốc gia) để trả cho khách hàng (tiền mặt). Ngân hàng quốc gia đưa ra một lãi suất nhất định khi đưa tiền cho các ngân hàng thương mại, gọi là lãi suất cơ bản.

Toàn bộ hệ thống tiền tệ có thể được miêu tả dưới dạng của một bản cân đối kế toán. Ở một bên là tiền trong lưu hành, bên kia là các khoản nợ tương ứng, dự trữ vàng và tiền cộng với chứng khoán thuộc về sở hữu của ngân hàng quốc gia. Mỗi một khoản tiền có trong tài khoản và mỗi một tờ tiền giấy đều tương ứng với một mục nợ (khoản phải thu) hay là một mục tài sản trong bản cân đối kế toán của ngân hàng quốc gia.

Thị trường tiền[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng giống như cho hàng hóa và dịch vụ, có thị trường tiền với cung và cầu tồn tại cho việc vay tiền. Các tư nhân và doanh nghiệp có nhu cầu tiền và đồng thời cũng là nguồn cung ứng khi gởi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Hệ thống ngân hàng là người môi giới giữa 2 nhóm này và vì thế làm cho thị trường có hiệu quả hơn vì người tiết kiệm tiền và người muốn vay tiền không phải tự tìm kiếm cho từng giao dịch nữa. Ngân hàng lấy tiền công cho dịch vụ này bằng hiệu số giữa lãi suất tiết kiệm và lãi suất cho vay. Lãi suất hình thành từ thị trường này được quyết định bởi cung và cầu và trên nguyên tắc chính là giá phải trả cho việc mượn tiền.

Ngân hàng quốc gia có thể tạo ảnh hưởng lên thị trường tiền bằng cách hoặc là gián tiếp tác động đến cung và cầu thông qua lãi suất dành cho tiền của ngân hàng quốc gia hoặc là chủ động tạo ảnh hưởng đến việc cung ứng tiền trong khuôn khổ của chính sách gọi là chính sách thị trường mở. Trong chính sách này ngân hàng quốc gia mua một số chứng khoán nhất định và trả bằng tiền của ngân hàng quốc gia. Tiền được đưa thêm vào trong hệ thống lưu hành. Ngược lại ngân hàng quốc gia cũng có thể bán chứng khoán và qua đó mà lấy tiền ra khỏi hệ thống. Lãi suất dành cho tiền của ngân hàng quốc gia hay dành cho tiền gửi tại ngân hàng quốc gia chỉ ảnh hưởng gián tiếp đến thị trường tiền vì chỉ khuyến khích các ngân hàng thương mại cho vay tiền hay gửi tiền tại ngân hàng quốc gia.

Tiền pháp định[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền pháp định hay tiền định danh (fiat money) dùng để chỉ tiền được phát hành (thông thường là bởi một ngân hàng quốc gia) mà không có cơ sở bảo chứng đầy đủ, tức là hoặc là bảo chứng không toàn bộ hay lặp thừa (tautologic).

  • Một bảo chứng là không toàn bộ khi nhận lại những vật mà giá trị thực tế ít hơn là giá trị trên danh nghĩa.
  • Một bảo chứng là lặp thừa khi những vật nhận lại không có giá trị hay chỉ nhận lại được yêu cầu thanh toán (nợ phải thu) lại dựa trên fiat money.

Fiat money xuất phát từ tiếng La Tinh fiat lux (sẽ có ánh sáng) vì loại tiền như vậy có thể dễ dàng tạo thành khi có nhu cầu (sẽ có tiền) và người tạo ra chúng (thường là ngân hàng quốc gia) không cần phải có hàng hóa để bảo chứng. Tiền pháp định không có giá trị cố định và thường được xác định giá trị thông qua sắc lệnh của chính phủ.[2]

Khả năng tạo ra fiat money chỉ tồn tại cho đến chừng nào mà những người tham gia trên thị trường (tư nhân, ngân hàng và các doanh nghiệp khác) cho là tiền phát hành này vẫn có một giá trị nhất định. Những người ủng hộ fiat money cho rằng hình thức tạo nên tiền này không mang lại nguy hiểm cho kinh tế (vì người phát hành phải có một độ đáng tin cậy cao) trong khi những người chỉ trích lại nhìn thấy đây là một phương thức làm giàu không công bằng của chính phủ và làm đánh thuế một cách gián tiếp vào túi tiền của người dân vì nạn lạm phát (và có thể tham nhũng).

Lượng tiền tệ[sửa | sửa mã nguồn]

Khái niệm "tiền" không gắn liền với một vật nhất định. Một vật được định nghĩa là tiền khi thỏa mãn 3 chức năng tiền nói trên. Vì các vật khác nhau thỏa mãn các chức năng trên ở các mức độ khác nhau nên khó có thể xác định ranh giới giữa những gì là tiền và những gì không phải là tiền. Vì lý do này các ngân hàng quốc gia định nghĩa khái niệm tiền và lượng tiền theo nhiều cách khác nhau. Ngân hàng Liên bang Đức định nghĩa:

Lượng tiền M0 là tiền do ngân hàng quốc gia tạo nên, bao gồm các khoản tiền gửi không kỳ hạn của các ngân hàng tại ngân hàng quốc gia và tiền giấy cũng như tiền kim loại trong lưu hành. Lượng tiền này chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngân hàng quốc gia. Lượng tiền M1 bao gồm M0 và các chứng từ có thể sử dụng làm phương tiện thanh toán. Lượng tiền M2 (còn gọi là tiền rộng) bao gồm lượng tiền M1 và các khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn dưới 4 năm. Lượng tiền M3 bao gồm lượng tiền M2 và các khoản tiền gửi tiết kiệm có thời hạn báo trước theo quy định của pháp luật.

Chính sách tiền tệ[sửa | sửa mã nguồn]

Nói chung các ngân hàng quốc gia thường theo đuổi một mục đích thực tế và cố định khi điều chỉnh lượng tiền. Mục đích này thường là sự bình ổn giá, tức là chống lại lạm phát. Để có thể giới hạn tỷ lệ lạm phát ở một mức độ hợp lý với nền kinh tế quốc dân, ngân hàng quốc gia cố gắng giữ lượng tiền đồng bộ với sự phát triển kinh tế. Lý thuyết lượng tiền (Quantity Theory of Money) đã nêu ra một mối quan hệ trực tiếp giữa tăng trưởng lượng tiền và mức giá cả.

Lạm phát[sửa | sửa mã nguồn]

Lượng tiền tăng quá nhanh hay tốc độ quay vòng của tiền tăng lên trong khi sản lượng (Y) không thay đổi sẽ dẫn đến giá cả tăng lên (M.V=P.Y). Sự mất cân bằng này sẽ làm tăng mức giá chung và người ta gọi đó là lạm phát. Nôm na là cùng một lượng tiền, hôm nay mua được 1 kg gạo, ngày mai chỉ còn mua được 0.5 kg gạo hoặc các mặt hàng khác có giá tăng theo thời gian.

Lạm phát có thể được phân loại theo vận tốc (lạm phát vừa phải, lạm phát phi mã, siêu lạm phát) hay theo giai đoạn (giai đoạn tăng tốc – giai đoạn ổn định – giai đoạn giảm tốc). Cung� tiền tăng chủ yếu vì chính sách lãi suất của ngân hàng quốc gia (xem: Siêu lạm phát tại Đức từ 1914 đến 1923) hay vì nợ quốc gia tăng đột ngột dẫn tới việc chính phủ phải in thêm tiền để trả.

Giảm phát[sửa | sửa mã nguồn]

Khi lượng tiền giảm đi hay tốc độ quay vòng tiền giảm xuống trong khi sản lượng (Y) không đổi thì giá cả có thể sẽ giảm liên tục trong một thời gian, người ta gọi đó là giảm phát. Lượng tiền giảm đi cũng có thể là do các biện pháp của ngân hàng quốc gia gây ra hay khi vận tốc quay vòng tiền giảm đi (khi người dân và doanh nghiệp hạn chế tiêu dùng và đầu tư hơn và tiền được tiết kiệm nhiều hơn là tiêu dùng).

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách các loại tiền tệ đang lưu hành
  • Tiền tệ

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Novogratz: Bitcoin is 'digital gold' and will end the year at $10,000”.
  2. ^ N. Gregory Mankiw, Macroeconomics (7th Edition), Worth Publishers, chương 6 trang 157

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Karl Marx: Grundrisse der Kritik der politischen Ökonomie (Đóng góp phê bình về kinh tế chính trị), Berlin (DDR): Dietz 1953 hay Marx Engels Toàn tập, quyển 42
  • Alfred Sohn-Rethel: Das Geld, die bare Münze des Apriori, Berlin: Wagenbach, 1990
  • Friedrich August von Hayek: Entnationalisierung des Geldes, J.C.B.Mohr
  • Helmut Creutz: Das Geldsyndrom (Hội chứng tiền), Wirtschaftsverlag Langen Müller (cũng có thể đọc dưới dạng E-Book không mất tiền tại [1])
  • Bernd Senf: Der Nebel um das Geld – Zinsproblematik – Währungssysteme – Wirtschaftskrisen (Mơ hồ chung quanh tiền - Vấn đề lãi suất - Hệ thống tiền tệ - Khủng hoảng kinh tế), Lütjenburg: Gauke
  • Günter Hannich: Sprengstoff Geld. Wie das Kapitalsystem unsere Welt zerstört (Chất nổ tiền. Hệ thống tư bản phá hoại thế giới của chúng ta như thế nào), 2004
  • Bernard A. Lietaer: Die Welt des Geldes (Thế giới của tiền)
  • Stephen Zarlenga: Der Mythos vom Geld – Die Geschichte der Macht (Thần thoại tiền - Lịch sử của quyền lực). Zürich: Conzett
  • Ottmar Issing: Einführung in die Geldtheorie (Giới thiệu lý thuyết tiền tệ), Verlag Vahlen
  • Wolfgang Weimer: Geschichte des Geldes (Lịch sử của tiền), Suhrkamp Taschenbuchverlag
  • Egon W. Kreutzer: Wolf´s wahnwitzige Wirtschaftslehre – Band III - Über das Geld, EWK-Verlag
  • Bernhard Felderer, Stefan Homburg: Makroökonomik und neue Makroökonomik (Kinh tế học vĩ mô và Tân kinh tế học vĩ mô), 7. Auflage, 1999, Springer Verlag
  • Oliver Blanchard, Gerhard Illing: Makroökonomie (Kinh tế vĩ mô), 3.Auflage, 2003, Pearson Studium
  • Mishkin, Frederic S. (2007). The Economics of Money, Banking, and Financial Markets (Alternate Edition). Boston: Addison Wesley. tr. 8. ISBN 0-321-42177-9.
  • Mankiw, N. Gregory (2007). “2”. Macroeconomics (ấn bản 6). New York: Worth Publishers. tr. 22–32. ISBN 0-7167-6213-7.
  • Boyle, David (2006). The Little Money Book. The Disinformation Company. tr. 37. ISBN 978-1932857269.
  • Abel, Andrew; Bernanke, Ben (2005). “7”. Macroeconomics (ấn bản 5). Pearson. tr. 266–269. ISBN 0201327899.
  • Jevons, William Stanley (1875). “XVI: Representative Money”. Money and the Mechanism of Exchange. ISBN 1596052600. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2009.
  • Bernstein, Peter (2008) [1965]. “Chapters 4–5”. A Primer on Money, Banking and Gold (ấn bản 3). Hoboken, NJ: Wiley. ISBN 978-0-470-28758-3. OCLC 233484849.
  • David Laidler (1997). Money and Macroeconomics: The Selected Essays of David Laidler (Economists of the Twentieth Century). Edward Elgar Publishing. ISBN 1-85898-596-X.
  • Milton Friedman, Anna Jacobson Schwartz (1971). Monetary History of the United States, 1867–1960. Princeton, N.J: Princeton University Press. ISBN 0-691-00354-8.
  • Sullivan, Arthur (2003). Economics: Principles in action. Upper Saddle River, New Jersey: Pearson Prentice Hall. tr. 258. ISBN 0130630853.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Tiền.
  • Tiền giấy
  • Tiền kim loại
  • Tiền giả
  • Tín dụng
  • Tiền Việt Nam
  • Tiền đô mệnh giá lớn
  • Tiền ảo
  • Tiền tệ

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tiền giấy Đông Dương thời Pháp thuộc

Tesla và Honda mỗi người kiếm được bốn vị trí trong top 10 của năm 2022 Cars.com Chỉ số do người Mỹ sản xuất. Xe của Lincoln và Jeep làm tròn bảng xếp hạng hàng đầu.

Các chuyên gia từ các phương tiện xếp hạng thị trường mua sắm xe hơi được bán ở Bắc Mỹ hàng năm xếp hạng chúng dựa trên vị trí lắp ráp, tìm nguồn cung ứng các bộ phận được xác định bởi Đạo luật ghi nhãn ô tô Mỹ, việc làm nhà máy của Hoa Kỳ liên quan đến sản xuất xe, tìm nguồn cung ứng động cơ và truyền tải.

Trong số 379 mô hình trên thị trường hiện nay, chỉ 95 người đi vào chỉ số. Trong số những người đã làm, hầu hết trong số họ đã được tập hợp tại năm tiểu bang: Michigan, Ohio, Indiana, Alabama và Tennessee.

Mô hình Tesla Y đã vinh danh hàng đầu trong năm nay, tiếp theo là Tesla Model 3. Ở vị trí thứ ba là Lincoln Corsair theo sau là Honda Passport và Tesla Model X và S. The Jeep Cherokee, Honda Ridgeline, Honda Odyssey và Honda Pilot hoàn thành sự lựa chọn.

10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022

Mô hình Tesla Y là chiếc xe sản xuất nhiều nhất cho người Mỹ cho năm 2022.

Không có xe tải bán chạy nhất của Mỹ, như Ford F-150, Chevrolet Silverado, GMC Sierra hoặc Ram 1500 đã xếp hạng cao nhất.

Phần lớn các phương tiện Tesla trong danh sách được lắp ráp tại nhà máy Fremont, California của công ty. Model Y cũng được xây dựng tại nhà máy mới của Tesla ở Austin, Texas.

Các mô hình của Honda đều được tập hợp tại Lincoln, Alabama. Thương hiệu cao cấp của Ford, Lincoln, làm cho Corsair ở Louisville, Kentucky trong khi Jeep Cherokee được thực hiện một vài quốc gia ở Belvedere, Illinois.

"Thành phần của chỉ số do Mỹ sản xuất nhiều năm nay đặc biệt thú vị trong bối cảnh thị trường hiện tại của chúng tôi, nơi giá khí đốt cao và hàng tồn kho khan hiếm đáp ứng sự quan tâm của người tiêu dùng cao điểm đối với xe điện và nhu cầu tăng cao đối với các sản phẩm do Mỹ sản xuất", nói Jenni Newman, Tổng biên tập Cars.com.

10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022

Jeep Cherokee năm 2022 là một trong những phương tiện sản xuất nhiều nhất trong năm nay. Jeep

"Đó là Tesla-một sản xuất hoàn toàn bằng điện do Mỹ sản xuất-xuất hiện thường xuyên và cao trong danh sách có thể cho thấy sự liên kết sắp tới của các lực lượng thị trường có thể thực sự bùng nổ khi chúng ta vượt qua các vấn đề về chuỗi cung ứng vi mạch, đặc biệt là nếu giá khí vẫn còn cao trong lịch sử. "

Các thương hiệu khác của Mỹ không hoàn toàn đóng cửa danh dự trong năm nay. General Motors thống trị danh sách tổng thể với các mô hình của nó chiếm khoảng 20 phần trăm của chỉ số tổng thể. Toyota và Ford mỗi người đại diện cho 12 phần trăm của danh sách.

Các bảng xếp hạng đến khi nhiều người Mỹ đang tìm mua các sản phẩm trong nước. Cars.com chia sẻ rằng khảo sát tháng 5 năm 2022 của họ cho thấy ưu tiên của người tiêu dùng đối với các phương tiện do Mỹ sản xuất đã tăng 22 % so với năm trước lên 40 %.

Mặc dù nhiều người mua phải đối mặt với đánh dấu đại lý, nhưng ít giao dịch và tình trạng thiếu hàng tồn kho Cars.com nói rằng khả năng chi trả của xe đã tăng 15 %. Những khách hàng đang xem xét một mô hình điện hoặc hybrid tăng 21 % từ số liệu của 2021.

Khi nói đến các phương tiện, nó không hoàn toàn đơn giản như chỉ nói nó ở Mỹ. Có những chiếc xe được thực hiện 100% được chế tạo từ đầu đến cuối cùng với tất cả các bộ phận của người Mỹ bởi tất cả người dân Mỹ nữa. Cars.com đã đưa ra một hệ thống lập chỉ mục để xác định phương tiện nào là người Mỹ nhất.

10 phương tiện do Mỹ sản xuất hàng đầu năm 2022
Ảnh: Andy Steil/Flickr

Các yếu tố quyết định các phương tiện ‘merica-ness
  • Vị trí lắp ráp
  • nội dung phụ tùng trong nước
  • Nguồn gốc động cơ
  • Nguồn gốc truyền
  • Nhân viên sản xuất của Hoa Kỳ được hỗ trợ trên mỗi chiếc xe

CAR Cars.com đã phân tích các phương tiện chở khách hạng nhẹ được chế tạo ở Hoa Kỳ (tổng cộng hơn 120) để lọt vào top 10.

Top 10 phương tiện sản xuất hàng đầu của Mỹ

  1. Jeep Wrangler
  2. Jeep Cherokee
  3. Ford Kim Ngưu
  4. Honda Ridgeline
  5. ACURA RDX
  6. Ford F-150
  7. Ford Expedition
  8. GMC Acadia
  9. Honda Odyssey
  10. Phi công Honda

Theo Index Cars.com, chiếc xe jeep có một số nội dung phụ tùng trong nước cao nhất ở mức 75% cho Wrangler và 70% cho Cherokee. Wrangler được tập hợp tại Toledo, Ohio. Cherokee được tập hợp tại Toledo, Ohio và Belvidere, Illinois.

Các nhà sản xuất có nhà máy ở Hoa Kỳ

Tuy nhiên, có hơn 100 phương tiện được sản xuất tại Mỹ và rất nhiều nhà sản xuất có thực vật ở đây trên sân nhà. Tất cả các thương hiệu xe hơi mới mà Fremont Motors cung cấp xe xây dựng ở Hoa Kỳ. Công ty Ford Motor có các nhà máy ở Michigan, Ohio, Kentucky và Illinois.

General Motors có nhà máy ở Michigan, Texas, Missouri và Indiana. Fiat, Chrysler, Dodge, Jeep Ram có các nhà máy ở Michigan và Ohio. Các nhà máy của Toyota bao gồm Mississippi, Kentucky, Indiana và Texas. Volkswagen xây dựng Atlas và Passat ở Tenessee.

Nathan Bomey, một phóng viên của CNBC cho biết, các nhà sản xuất ô tô đã tắm đầu tư sản xuất Hoa Kỳ với công khai sau khi Tổng thống Trump nhậm chức và đe dọa sẽ đàm phán lại Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ để trừng phạt các công ty ô tô sản xuất phương tiện ở thị trường nước ngoài và bán cho người Mỹ . ¹

Khi nói đến việc mua một chiếc xe mới, điểm lắp ráp hay nguồn gốc của nội dung phụ tùng quan trọng đối với bạn? Bạn sẽ trả nhiều tiền hơn cho cùng một chiếc xe được sản xuất ở Mỹ so với sản xuất ở Mexico?

1.Bomey, Nathan. Jeep Jeep đứng đầu danh sách xe do người Mỹ sản xuất, lật đổ Toyota. & & NBSP; CNBC. CNBC, ngày 26 tháng 6 năm 2017. Web. 29 tháng 6 năm 2017

2.Mays, Kelsey. Những chiếc xe năm 2017. Chỉ số do American do Mỹ sản xuất | Tin tức từ Cars.com. & NBSP; Cars.com. N.P., ngày 26 tháng 6 năm 2017. Web. 29 tháng 6 năm 2017.

Chiếc xe được sản xuất nhiều nhất của Hoa Kỳ là gì?

Tesla thống trị danh sách hầu hết những chiếc xe do Mỹ sản xuất.

10 thương hiệu xe hơi hàng đầu ở Mỹ là gì?

Thương hiệu xe hơi tốt nhất vào năm 2022..
Cadillac. Long The Suthury Huy hiệu lựa chọn cho Plutocrats Mỹ, thương hiệu xe hơi thuộc sở hữu của GM này tự hào có một quá khứ xuất sắc. ....
Chevrolet. Những người đam mê sẽ luôn thêm "Corvette" khi Chevy được đặt tên và với lý do rất chính đáng. ....
Xe jeep. ....
Tesla. ....
Buick. ....
Lincoln. ....
Rivian. ....
Lucid..

Những chiếc xe nào được sản xuất hoàn toàn ở Hoa Kỳ?

Những chiếc xe mới tốt nhất được chế tạo trong các nhà máy ô tô của Mỹ. Mua một chiếc xe được chế tạo ở Mỹ bởi các công nhân Hoa Kỳ là một cách tuyệt vời để hỗ trợ cơ sở sản xuất của đất nước. ....
2021 Honda Insight. ....
2021 Lexus es. ....
2021 Subaru Legacy. ....
2021 Subaru Outback. ....
2021 Chevrolet Camaro. ....
2021 Toyota Sienna. ....
2021 Toyota Avalon ..

Có phương tiện nào là 100% người Mỹ không

Trong khi một số nhà sản xuất ô tô bắt đầu sản xuất xe hơi ở Mỹ, bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ phương tiện nào trên thị trường do Mỹ sản xuất 100%.Ngày nay, các nhà sản xuất thuê ngoài sản xuất xe của họ.Vì vậy, các thương hiệu có nguồn gốc Mỹ hiện đang tạo ra những chiếc xe của họ ở các quốc gia khác và các thương hiệu nước ngoài thuê ngoài một số sản xuất ở Mỹ.you won't find any vehicles on the market that are 100% American-made. Today, manufacturers outsource their car production. So brands with American origins now make their cars in other countries, and foreign brands outsource some production in America.