1 từ là gì

Cô Nguyễn Hải [HOCMAI] sẽ giới thiệu cho các em học sinh trong về từ phân loại theo cấu tạo, trong đó có từ đơn và từ phức trong bài học hôm nay.

Một bài văn được tạo nên từ các đoạn văn. Và hình thành các đoạn văn chính là những câu văn. Trong mỗi câu văn lại là các từ, các cụm từ ghép với nhau để thành một câu hoàn chỉnh. Mỗi từ lại được tạo nên từ các tiếng. Để tìm hiểu về từ và cấu tạo của từ, cô Nguyễn Hải chia bài học thành hai nội dung chính:

  • Phần 1: Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt
  • Phần 2: Từ đơn và từ phức
Cô Nguyễn Hải hướng dẫn học sinh về Từ và cấu tạo từ trong Tiếng Việt

Tham khảo bài giảng chi tiết của cô Nguyễn Hải [Khóa HM6 – Tổng Ôn kiến thức] tại: //hocmai.vn/bai-giang-truc-tuyen/83513/bai-01-tu-va-cau-tao-tu.html

I/Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt

1] Ví dụ:

Câu thơ “Trong lời mẹ hát” của Trương Nam Hương

“Thời gian chạy qua tóc mẹ

Một màu trắng đến nôn nao”.

Ta thấy:

  • Hai dòng thơ có 12 tiếng và 9 từ [Thời gian, chay, qua, tóc, mẹ, một, màu trắng, đến, nôn nao]

=> Số từ và số tiếng không giống nhau nên một từ có thể gồm nhiều tiếng.

2] Ghi nhớ

  • Từ là ngôn ngữ nhỏ nhất dùng để đặt câu
  • Đơn vị cấu tạo từ là tiếng.

3] Phân biệt “Từ” và “Tiếng”

+/ Tiếng dùng để cấu tạo từ 

+/ Từ dùng để đặt câu

=> Một tiếng được gọi là từ khi được dùng để đặt câu.

  • Một từ có thể gồm một hoặc nhiều tiếng.

4] Từ phân loại theo cấu tạo

Từ phân loại theo cấu tạo – Bài học “Từ và cấu tạo từ”

Trong đó:

  • Từ đơn là từ có 1 tiếng
  • Từ phức là từ có 2 tiếng trở lên
  • Từ đơn đơn âm tiết
  • Từ đơn đa âm tiết
  • Từ ghép là loại từ phức được tạo nên bằng cách ghép các tiếng có mối quan hệ về nghĩa
  • Từ láy là loại từ phức được tạo nên bằng cách phối hợp các tiếng có âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và vần giống nhau.
  • Từ ghép tổng hợp [VD: Trong xanh – Hai tiếng “Trong” và “xanh” bình đẳng nhau về nghĩa]
  • Từ ghép phân loại [VD: Xanh rì – Hai tiếng “xanh” và “rì”, “xanh” là tiếng chính, “rì” là tiếng phụ, bổ sung ý nghĩa cho tiếng chính.
  • Từ láy toàn bộ [VD: Xanh xanh. Hai tiếng giống nhau hoàn toàn]
  • Từ láy bộ phận [VD: Xanh xao. Hai tiếng giống nhau về âm đầu]

II/Từ đơn và từ phức

1]Từ đơn

a] Khái niệm

VD: Cây [Danh từ], đọc [động từ], cao [tính từ],…

b] Phân loại
  • Từ đơn đơn âm tiết: Từ đơn chỉ có một tiếng
  • Từ đơn đa âm tiết: Từ đơn được tạo nên từ nhiều âm tiết 
  • Tên một số loài vật: Ba ba, chuồn chuồn, châu chấu,…
  • Từ mượn tiếng nước ngoài: Ti vi, cà phê, in-ter-net,…

2] Từ phức

a] Khái niệm
  • Là từ có hai tiếng trở lên.

VD: Sạch sẽ, sạch sành sanh, lúng ta lúng túng,..

b] Phân loại
  • Từ ghép: Loại từ phức được tạo nên bằng cách ghép các tiếng có mối quan hệ về nghĩa.

VD: Cao lớn [Có mối quan hệ ngang hàng bình đẳng về nghĩa] , cao vút [Có mối quan hệ với nhau về nghĩa, từ “cao” là tiếng chính, “vút” là tiếng phụ bổ sung nghĩa cho tiếng chính]

  • Từ láy: Loại từ phức được tạo nên bằng cách phối hợp các tiếng giống nhau về âm đầu, vần hoặc cả âm đầu và vần. 

VD: Đo đỏ [Hai tiếng giống nhau về cả âm đầu và vần] , lao xao [hai tiếng giống nhau về vần] , xôn xao [Hai tiếng giống nhau về âm đầu]

c] Một số trường hợp dễ “nhầm lẫn” giữa “từ đơn” và “từ phức”.
  • Nhầm lẫn “từ đơn đa âm tiết” và “Từ láy”.

Dấu hiệu nhận biết: Từ láy có giá trị biểu cảm. Từ đơn là danh từ, để gọi tên sự vật, không có giá trị biểu cảm.

VD: Các từ ba ba, thuồng luồng, châu chấu là từ đơn đa âm tiết, dù về hình thức có các tiếng giống nhau về âm đầu, vần, cả âm đầu và vần. Không phải từ láy. 

  • Phân biệt từ phức và tổ hợp từ đơn

VD: “Cà chua quá!”. Câu này gồm 3 từ. “Cà” và “chua” là hai từ đơn độc lập, không phải từ phức. 

Là giáo viên trường THCS Archimedes, cô Nguyễn Hải có rất nhiều kinh nghiệm giảng dạy và luyện thi vào lớp 6 môn Tiếng Việt. Bài học “Từ và cấu tạo từ”, nằm trong khóa học “HM6 – Tiếng Việt” của cô. Qua bài học, các em dễ dàng nắm bắt những phần kiến thức trọng tâm cần phải ghi nhớ. Đặc biệt, là những nội dung nâng cao không có trong sách giáo khoa là “Từ đơn đa âm tiết”. 

Hơn nữa, cô Nguyễn Hải cũng chỉ ra những phần từ loại dễ bị nhầm lẫn nếu gặp phải trong quá trình làm bài thi. Với các kì thi vào trường CLC và trường top đầu thì ngoài kiến thức cơ bản, việc học thêm những kiến thức bên ngoài là vô cùng cần thiết. Những kĩ năng làm bài cũng nên  được quan tâm đến.

Để tăng tốc cho kì thi vào lớp 6 và giành được thành tích tốt, giải pháp “HM6 – Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh” là một sự hỗ trợ toàn diện dành cho tất cả các em học sinh. Với những kinh nghiệm và thành tựu đạt được trong lĩnh vực luyện thi vào 6, đây chắc chắn là một gói giải pháp đầy chất lượng khi bao quát tất cả nội dung kiến thức cần ôn luyện và hướng dẫn luyện đề, giải đề thi hiệu quả.

Phụ huynh và học sinh tham khảo về chương trình tại: //bit.ly/Giải-pháp-toàn-diện-ôn-thi-vào-6

• Đơn vị cấu tạo • Phương thức cấu tạo: Từ đơn tiết và từ ghép • Phương thức cấu tạo: Từ láy và từ ngẫu hợp • Biến thể của từ

Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt và chấp nhận một cách nhìn để làm việc thì quan niệm về từ đã trình bày ở phần trên là có thể dùng được cho tiếng Việt. Có thể phát biểu lại như sau:

Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu.

Ví dụ:

nhà, người, áo, cũng, nếu, sẽ, thì,…

đường sắt, sân bay, dạ dày, đen sì, dai nhách…

1. Đơn vị cấu tạo

Đơn vị cơ sở để cấu tạo từ tiếng Việt là các tiếng, cái mà ngữ âm học vẫn gọi là các âm tiết.

Mặc dù nguyên tắc phổ biến là các từ được cấu tạo từ các hình vị, nhưng hình vị trong các ngôn ngữ khác nhau có thể không như nhau.

1.1. Tiếng của tiếng Việt có giá trị tương đương như hình vị trong các ngôn ngữ khác, và người ta cũng gọi chúng là các hình tiết [morphemesyllable] – âm tiết có giá trị hình thái học.

– Về hình thức, nó trùng với âm đoạn phát âm tự nhiên được gọi là âm tiết [syllable].

– Về nội dung, nó là đơn vị nhỏ nhất có nội dung được thể hiện. Chí ít nó cũng có giá trị hình thái học [cấu tạo từ]. Sự có mặt hay không có mặt của một tiếng trong một "chuỗi lời nói ra" nào đó, bao giờ cũng đem đến tác động nhất định về mặt này hay mặt khác. Ví dụ:

đỏ – đo đỏ – đỏ đắn – đỏ rực – đỏ khé – đỏ sẫm…

vịt – chân vịt – chân con vịt…

1.2. Xét về ý nghĩa, về giá trị ngữ pháp, về năng lực tham gia cấu tạo từ… không phải tiếng [hình tiết] nào cũng như nhau.

Trước hết có thể thấy ở bình diện nội dung:

a. Có những tiếng tự nó mang ý nghĩa, được quy chiếu vào một đối tượng, một khái niệm như: cây, trời, cỏ, nước, sơn, hoả, thuỷ, ái…

b. Có những tiếng tự thân nó không quy chiếu được vào một đối tượng, một khái niệm, nhưng có sự hiện diện của nó trong cấu trúc từ hay khong, sẽ làm cho tình hình rất khác nhau. Đó là chưa kể không ít trường hợp đã tìm ra nghĩa của chúng trong quá khứ lịch sử của tiếng Việt. Chúng, nhiều khi là kết quả của hiện tượng hao mòn ngữ nghĩa [desemantic] đến mức tối đa như vẫn thường gặp. Ví dụ: [dai] nhách; [xanh] lè; [áo] xống; [tre] pheo; [cỏ] rả; [đường] sá; [e] lệ; [trong] vắt; [nắng] nôi;…

c. Có những tiếng tương tự như loại b. vừa nêu, nhưng chúng lại xuất hiện trong những từ mà tất cả các tiếng tham gia tạo từ đều như thế cả [đều không quy chiếu vào một khái niệm, một đối tượng, nếu tách rời nhau]. Ví dụ: mồ – hôi – bồ – hòn – mì – chính – a – pa – tít… Các từ ở đây có thể thuộc nguồn gốc Việt như: mồ hôi, bồ hòn… nhưng cũng có thể thuộc nguồn gốc ngoại lai như: mì chính, a-pa-tít…

Sự tranh luận về giá trị và ý nghĩa của tiếng, thực sự chỉ tập trung ở những tiếng thuộc loại b.c., nhất là loại c. Tuy nhiên, tư cách và giá trị tương đương với hình vị trong tiếng Việt vẫn có thể chứng minh được [mặc dù chưa thực sự có sức thuyết phục tuyệt đối cho tất cả mọi trường hợp] qua các hiện tượng tách rời, lặp, chen thành tố, rút gọn… Ví dụ:

sung sướng – ăn sung mặc sướng

[quần] xi mi li – [quần] xi

v.v…

Mặt khác, cũng cần thấy rằng các tiếng thuộc loại c. này không chiếm số lượng nhiều trong tiếng Việt; và đa số trong số đó lại thuộc nguồn gốc ngoại lai. Chúng thuộc phạm vi ở vùng biên chứ không phải ở vùng tâm của tiếng Việt. Hơn nữa, mặt dù chưa có những chứng cứ đầy đủ về mặt tâm lí ngôn ngữ học, nhưng chúng ta cũng phải lưu ý đến một điều là: trong ứng xử ngôn ngữ, dường như người Việt luôn luôn có tâm lí chờ đợi ở mỗi tiếng [bất kể tiếng đó như thế nào] một phần nghĩa nào đấy; hoặc sẵn sàng cấp cho nó một nghĩa nào đấy. Nếu không vậy thì làm sao người ta có thể chấp nhận được những tiếng, những câu như sau: “Trời đất khen sao khéo khéo phòm” của Hồ Xuân Hương?

Nói tóm lại, trong Việt ngữ học hiện nay, nếu lấy tiêu chí “có chỉ ra, có quy chiếu vào đối tượng nào, khái niệm nào hay không” thì người ta vẫn quen phân loại và gọi các tiếng thuộc loại a. kể trên là loại tiếng có nghĩa; còn các tiếng thuộc loại b.c. là tiếng vô nghĩa.

1.3. Về năng lực hoạt động ngữ pháp, có thể căn cứ vào tiêu chí: “có khả năng hoạt động tự do hay không” để chia các tiếng thành hai loại:

x – Loại tiếng tự do: Có thể hoạt động tự do trong lời nói với tư cách từ. Thật ra thì chúng là những tiếng mà tự thân một mình đã đủ khả năng tạo thành từ. Chẳng hạn: làng, xã, người, đẹp, nói, đi…

y – Loại tiếng không tự do: Loại này gồm hai nhóm:

+ Những tiếng không tự do nhưng tự thân chúng có mang nghĩa: thuỷ, hoả, hàn, trường, đoản, sơn…

+ Những tiếng không tự do mà tự thân không mang nghĩa: [lạnh] lẽo; [đen] nhánh; mồ, hôi, cà, phê…

Tuy nhiên, ranh giới của các loại tiếng không phải là hoàn toàn tuyệt đối. Cần phải lưu ý đến những trường hợp trung gian giữa loại này với loại kia, phạm vi này với phạm vi kia.

Video liên quan

Chủ Đề