Vì sao phải quản lý giao thông đô thị

2022-01-26 09:38:09

Tại hội nghị, Đại tá Đỗ Thanh Bình, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông cho biết, liên quan đến Luật Đường bộ và Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ, Bộ  Công an và Bộ Giao thông Vận tải [GTVT] đã có nhiều cuộc làm việc. Về lý do, tại sao phải tách luật, Đại tá Đỗ Thanh Bình đã đưa ra 7 luận điểm để làm rõ.

Cần thiết có luật riêng về an toàn giao thông đường bộ

Cụ thể, theo Cục Phó Cục Cảnh sát giao thông, trước năm 2001, các quy định về trật tự, an toàn giao thông, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông và vận tải đường bộ là 3 lĩnh vực khác nhau được điều chỉnh riêng biệt ở các văn bản dưới luật. Năm 2001, Quốc hội thông qua Luật Giao thông đường bộ và năm 2008 thông qua Luật thay thế,  kết cấu hạ tầng giao thông và Vận tải đường bộ. Thời điểm ban hành Luật trong bối cảnh giao thông nước ta chủ yếu là mô tô, xe máy, hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ còn hạn chế. Sau hơn 13 năm thực hiện Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã phát sinh nhiều tồn tại, hạn chế, không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, do thực tiễn đã có nhiều vận động, thay đổi, đòi hỏi khách quan phải ban hành những đạo luật mới thay thế, điều chỉnh từng lĩnh vực về hạ tầng, vận tải và trật tự, an toàn giao thông.

Đại tá Đỗ Thanh Bình, Phó Cục trưởng Cục CSGT phát biểu tại Hội nghị do Tổng cục Đường bộ Việt Nam tổ chức.

Thứ hai, An toàn giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông và vận tải đường bộ là các lĩnh vực rất lớn, mục tiêu, đối tượng điều chỉnh khác nhau, nhưng lại được điều chỉnh trong cùng một luật dẫn đến không thể quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng nhiều nội dung quan trọng thuộc từng lĩnh vực, phải ban hành rất nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn thực hiện. Trong đó, an toàn giao thông thuộc lĩnhvực trật tự, an toàn xã hội; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng giao thông và vận tải đường bộ thuộc lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật. Tên gọi Luật Giao thông đường bộ là chuyên ngành nhưng nội dung, phạm vi điều chỉnh không đúng là luật chuyên ngành dẫn đến hiểu không đúng về mục tiêu của từng lĩnh vực.

Tiếp nữa, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 không quy định đầy đủ, cụ thể về các chế định bảo đảm trật tự, an toàn giao thông liên quan cần bổ sung như: Giải quyết tai nạn giao thông; chỉ huy, điều khiển giao thông, giải quyết ùn tắc giao thông, giải quyết các vấn đề an ninh, trật tự, sự kiện trên các tuyến giao thông; cưỡng chế chấp hành pháp luật về trật tự, an toàn giao thông... Tình trạng ngang nhiên vi phạm, coi thường pháp luật khi tham gia giao thông vẫn diễn ra phổ biến, tai nạn giao thông trên các tuyến giao thông và ùn tắc giao thông tại các đô thị lớn diễn biến hết sức phức tạp, văn hóa giao thông còn nhiều yếu kém, bất cập, giao thông hỗn hợp mất an toàn vẫn là nỗi ám ảnh với người tham gia giao thông, gây thiệt hại lớn về người và tài sản, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, an sinh xã hội.

Thứ tư, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 không quy định rõ cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm chính về trật tự, an toàn giao thông đường bộ, dẫn đến quá trình thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ, nhất là giữa cơ quan quản lý nhà nước về an ninh, trật tự và cơ quan quản lý nhà nước về hạ tầng, kinh tế, kỹ thuật; việc phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn cho chính quyền địa phương để gắn trách nhiệm, huy động nguồn lực còn hạn chế, chưa rõ ràng dẫn đến việc tổ chức thực hiện của địa phương gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, thiếu tính chủ động vì phải chờ cơ quan Trung ương, nhất là trong đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.

Thứ năm, Luật Giao thông đường bộ năm 2008 tuy đã có quy định chính sách về quy hoạch, đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng, vận hành bảo trì, quản lý vận tải đường bộ nhưng chưa đầy đủ và cụ thể, như cơ chế thu hút nguồn lực đầu tư, cơ chế về vốn, về bảo trì, bảo dưỡng kết cấu hạ tầng...

Thứ sáu, vận tải đường bộ hiện phải đảm nhận tỷ trọng lớn, không cân đối với các phương thức vận tải khác. Kinh doanh vận tải là kinh doanh có điều kiện những quy định chưa rõ, chưa đủ cơ chế, chính sách để phát triển tương xứng với nhu cầu xã hội. Cuối cùng, trong quá trình xây dựng dự án Luật, cơ quan soạn thảo đã trao đổi kinh nghiệm và nghiên cứu, tham khảo pháp luật của nhiều quốc gia, cho thấy không có quốc gia nào ban hành luật giao thông đường bộ bao gồm cả 3 lĩnh vực an toàn giao thông, kết cấu hạ tầng và vận tải đường bộ; các quốc gia xây dựng luật riêng về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, nhiều quốc gia xây dựng luật riêng về đường bộ cao tốc, luật riêng về vận tải đường bộ gắn với dịch vụ logistic. Công ước Viên mà Việt Nam tham gia cũng chỉ điều chỉnh về an toàn giao thông.

“Từ những lý do nêu trên cho thấy, nếu tiếp tục kết cấu trong một luật như hiện nay thì không thể quy định được đầy đủ, rõ ràng và khó có sự liên kết chặt chẽ giữa các nội dung, chế định của từng lĩnh vực hoặc nội dung quá lớn. Do đó, phải xây dựng, ban hành các luật chuyên ngành để điều chỉnh từng lĩnh vực cụ thể, trong đó ban hành Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ để xây dựng thói quen, ý thức tự giác và hình thành văn hóa giao thông hiện đại, ổn định lâu dài, hướng tới tiếp cận văn hóa giao thông của các nước phát triển trên thế giới…”, Đại tá Đỗ Thanh Bình cho biết.

Cần có thêm sự điều chỉnh

Theo ông Nguyễn Văn Huyện, Tổng Cục trưởng Tổng cục Đường bộ thì hiện nay còn một số vướng mắc cần được giải quyết khi tách luật. Ông Huyện phân tích, bảo vệ kết cấu hạ tầng là chủ thể quản lý tài sản đường bộ. Nếu khi tách luật, trong Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ cần làm rõ trách nhiệm về bảo vệ kết cấu an toàn giao thông. Giữa lực lượng thanh tra giao thông và lực lượng cảnh sát giao thông thẩm quyền như thế nào cũng cần được làm rõ.

Liên quan đến những ý kiến này, Đại tá Đỗ Thanh Bình, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông cho rằng, để xảy ra mất an toàn về hạ tầng có nhiều nguyên nhân như có thể từ bê tông cốt thép chưa đúng với thiết kế… Vấn đề xe quá tải, Đại tá Đỗ Thanh Bình cho rằng, hiện đang tập trung nhiều vào xử lý quá tải nhưng quản lý quá tải mới chỉ đang tập trung vào phần ngọn. Để xử lý tốt cần quản lý từ cơ quan đăng kiểm xem bao nhiêu xe cơi nới thành thùng hay để cơi nới rồi mới xử lý. Việc xử lý quá tải giao Bộ Công an chịu trách nhiệm chính, quản lý nguồn nguy hiểm do phía Công an chịu trách nhiệm, còn chất lượng kết cấu hạ tầng do đơn vị quản lý hạ tầng chịu trách nhiệm.

Phạm Huyền

Vui lòng nhập tên!

Họ và tên [*]

Email không hợp lệ!

Email [*]

Điện thoại không hợp lệ!

Số điện thoại [*]

PV: Được biết tỉnh Quảng Ninh là tỉnh có tốc độ đô thị hóa cao nhất toàn quốc [tới 55%], theo đồng chí tốc độ đô thị hóa này đã tác động tới sự phát triển kinh tế, xã hội của toàn tỉnh như thế nào?

Đ/c Vũ Minh Thiết: Như mọi người đã biết, Quảng Ninh là tỉnh có vai trò quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có vị trí chiến lược về kinh tế, quốc phòng– an ninh. Việc nâng cấp đô thị là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh trong việc phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015 [về đích trước cả nước 5 năm].

Quảng Ninh được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ đô thị hoá khá cao, bộ mặt các đô thị thay đổi đáng kể, các đô thị được quy hoạch mở rộng về không gian, hệ thống hạ tầng kỹ thuật - hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư; nhiều khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu du lịch được hình thành... Theo định hướng phát triển trong thời gian tới, bên cạnh thành phố Uông Bí, thị xã Quảng Yên, và mới đây, thị xã Cẩm Phả vừa được Thủ tướng Chính phủ công nhận trở thành thành phố… đã được nâng cấp, một số đô thị của tỉnh sẽ tiếp tục được nâng cấp như thành lập thị xã Đông Triều, thị xã Tiên Yên ...

Tôi cho rằng, sự phát triển này đòi hỏi công tác quản lý đô thị phải được tăng cường bằng các giải pháp thúc đẩy phát triển và quản lý có hiệu quả công tác quy hoạch và phát triển đô thị, kiểm soát tốt quá trình đô thị hoá, bảo đảm khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng về tự nhiên, xã hội, tài nguyên thiên nhiên, tiến bộ khoa học kỹ thuật và nhất là nguồn lực con người. Trong đó, cần có các giải pháp đột phá, nhằm thu hút mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển đô thị, để phát triển đô thị thực sự là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời đảm bảo an sinh xã hội và duy trì phát triển bền vững trong tương lai.

Việc nâng cấp đô thị tác động trực tiếp đến công tác quy hoạch, vì khi tính chất đô thị được hình thành thì công tác quy hoạch sẽ phải được triển khai một cách đồng bộ, khoa học cho phù hợp. Bên cạnh đó, mỗi một đô thị đều có chức năng là trung tâm kinh tế vùng hoặc liên vùng, vì vậy khi được nâng cấp, đô thị đó sẽ tạo ra động lực mới cho sự phát triển, chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, thu hút mạnh mẽ các nguồn lực để đầu tư cho phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ.

Việc nâng cấp đô thị cũng gắn liền với xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chỉnh trang đô thị theo hướng văn minh hiện đại. Mỗi đô thị khi hình thành phải có nguồn vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng từ ngân sách và nguồn vốn xã hội hóa để xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như: công viên, quảng trường, chỉnh trang đô thị, xử lý vệ sinh môi trường… Từ đó, thúc đẩy mạnh mẽ tất cả các ngành nghề kinh tế phát triển, tạo ra môi trường sống ngày càng tốt hơn cho cộng đồng dân cư.

Cùng với đó, việc nâng cấp đô thị còn tác động lớn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của các địa phương. Ví dụ như đối với thành phố Uông Bí, từ khi Chính phủ Nghị quyết số 12/NQ-CP về thành lập thành phố Uông Bí, tốc độ tăng trưởng kinh tế đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Năm 2011, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố đạt 2.000 tỷ đồng, tăng 50% so với cùng kỳ năm 2010 và vượt 85% dự toán tỉnh giao. Với việc tăng thu ngân sách đã đáp ứng cơ bản các nhiệm vụ chi trên địa bàn Thành phố, tạo đà cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Đây là năm đầu tiên thành phố Uông Bí đã thực hiện việc tự cân đối ngân sách.  

 Mặt khác, việc nâng cấp đô thị đã tác động đến ý thức của cộng đồng dân cư trong việc đảm bảo cảnh quan môi trường đô thị. Do vậy, cần xây dựng ý thức của một nền sản xuất mang tính chất công nghiệp hóa, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp sẽ tăng lên, từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, ý thức người dân đô thị sẽ tăng lên. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các phong trào của quần chúng nhân dân như: phong trào hiến đất làm đường, hiến đất làm nhà sinh hoạt cộng đồng ở một số địa phương trong thời gian gần đây.

 PV: Theo đồng chí, để có được kết quả nổi bật như vậy, yếu tố nào quyết định trong lộ trình xây dựng các đô thị trên địa bàn tỉnh?

Đ/c Vũ Minh Thiết: Với tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng trên địa bàn tỉnh thì việc nâng cấp đô thị đã đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ mới. Để đạt được những kết quả trong công tác nâng cấp đô thị, theo tôi, trước tiên, Đảng bộ tỉnh đã đề ra chủ trương đúng đắn trong chiến lược phát triển kinh tế– xã hội trong giai đoạn 2010-2015, nhằm sớm đưa tỉnh Quảng Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2015. Đồng thời, tỉnh cũng nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương đã ủng hộ tỉnh trong việc nâng cấp đô thị.

Với đặc thù, tỉnh Quảng Ninh có nền công nghiệp khai thác khoáng sản phát triển từ lâu, do đó tính chất công nghiệp đã hình thành nên các khu đô thị tập trung, thuận lợi để đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, tiêu chí theo các quy định của Trung ương về nâng cấp đô thị. Bên cạnh đó, vị trí địa lý thuận lợi cho thương mại quốc tế, giao lưu văn hóa, phát triển du lịch, dịch vụ đã góp phần tạo nên một nền kinh tế phát triển năng động trong khu vực. Để phát huy mạnh mẽ các thế mạnh và tiềm năng của tỉnh cần phải có kiến trúc thượng tầng phù hợp, trong đó việc nâng cấp đô thị là một trong những yếu tố tạo nên động lực mới để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của tỉnh lên một tầm cao mới.

Việc nâng cấp đô thị đồng nghĩa với việc hình thành chính quyền đô thị. Trong những năm qua, tỉnh đã đầu tư nguồn lực rất lớn cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và đội ngũ cán bộ công chức cấp xã đáp ứng được sự phát triển của kinh tế- xã hội và công tác quản lý của chính quyền.

Tôi thiết nghĩ, mọi chủ trương, chính sách khi phù hợp với điều kiện thực tiễn và đi vào lòng dân thì sẽ mang lại hiệu quả rất cao. Với chủ trương chung của tỉnh, các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã tích cực vào cuộc, tuyên truyền, vận động người dân hiểu mục đích, ý nghĩa và các lợi ích thiết thực khi tiến hành việc nâng cấp đô thị. Từ đó, đã huy động được nguồn lực xã hội hóa to lớn từ các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển chung của tỉnh Quảng Ninh.

PV: Với vai trò là cơ quan tham mưu cho UBND tỉnh trình Chính phủ quyết định việc nâng cấp các đô thị trên địa bàn tỉnh, đồng chí có hiến kế gì để việc phát triển các đô thị nhanh nhưng bền vững, phù hợp với xu thế trong nước và quốc tế?

Đ/c Vũ Minh Thiết: Tôi nghĩ, đô thị hóa bền vững phải xuất phát từ quan điểm tổng hòa phát triển bền vững giữa kinh tế, xã hội, ổn định môi trường sinh thái và bảo đảm cho một tổ chức liên kết không gian chặt chẽ giữa đô thị - nông thôn. Trong chuyên đề nghiên cứu về "Phân tích chính sách đô thị hóa trong quá trình đô thị hóa tác động đến phát triển bền vững ở Việt Nam" thuộc Chương trình Thiên niên kỷ 21 do UNDP tài trợ, đã đề xuất mười nhóm tiêu chí bền vững trong quá trình đô thị hóa. Theo tôi, trước tiên tỉnh ta phải làm tốt công tác quản lý đô thị. Mặt khác, tính chuyên nghiệp trong công tác quản lý đô thị hầu như chưa được quan tâm đúng mức, nhất là việc đào tạo cán bộ quản lý đô thị.

Bên cạnh đó, thực tiễn hiện nay tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị đã có nguy cơ cao, hầu hết các đô thị đều chưa có hệ thống thoát nước riêng hoàn chỉnh, nước mưa và nước thải thoát chung vào cống, sau đó thoát ra môi trường xung quanh và chưa được xử lý. Việc xử lý rác thải tại các đô thị chưa triệt để, chưa có phương pháp xử lý hiện đại, chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp chôn lấp nên nguy cơ gây ô nhiễm môi trường rất cao. Vấn đề giao thông cũng đang nảy sinh nhiều phức tạp. Mặt khác, do đặc thù các đô thị trên địa bàn tỉnh đều có quốc lộ cắt qua, các trường học, chợ, cơ quan lớn đều bám trục đường chính nên việc quản lý an toàn giao thông đô thị khó khăn. Thêm vào đó, trước sự phát triển xã hội, nhu cầu sử dụng xe ô tô tăng nhanh dẫn đến việc quy hoạch và quản lý các bến bãi, các điểm đỗ xe đang là bài toán phức tạp cho các địa phương. Những khó khăn bất cập này đang đặt ra yêu cầu cần có sự tăng cường hơn cả về nhân lực, bộ máy, cơ chế chính sách để công tác quản lý đô thị theo kịp sự phát triển, nhất là quản lý về quy hoạch.

Việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên vào công cuộc phát triển đô thị như tài nguyên khoáng sản, bờ biển, rừng,... còn nhiều bất cập không những gây lãng phí tài nguyên thiên nhiên, mất cân bằng các hệ sinh thái mà còn ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của công cuộc phát triển kinh tế đô thị cũng như môi trường đô thị. Do vậy, cần quan tâm đến việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách có hiệu quả. Chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm thô sang chế biến thành sản phẩm tinh; phát triển thương mại, dịch vụ trên cơ sở đầu mối giao thương giữa Việt Nam với Trung Quốc và các nước; phát huy lợi thế về cảng biển, đường biên giới…

Nâng cấp đô thị là cải thiện cơ sở hạ tầng tại chỗ và kết nối cơ sở hạ tầng nơi đó với hạ tầng chính của đô thị, nâng cao chất lượng sống cho người nghèo. Ở bất cứ thời kỳ nào, đô thị hóa và phát triển đô thị cũng là một động lực phát triển quan trọng. Tuy nhiên, do quá trình đô thị hoá nhanh nên tại hầu hết các thành phố, thị xã hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như dịch vụ đô thị không theo kịp tốc độ tăng trưởng dân số. Vì vậy, các khu dân cư thu nhập thấp hoặc nghèo cũng sẽ phát triển nhanh một cách tự phát, khó kiểm soát tạo nên những khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu nâng cao cuộc sống cho nhân dân và khó khăn trong quản lý của chính quyền các đô thị. Việc tiếp cận các tiện ích xã hội và cơ sở hạ tầng thiết yếu của người nghèo đôi khi khá khó khăn. Như vậy, đối tượng người nghèo cần được đặc biệt quan tâm để việc chỉnh trang đô thị thực sự hiệu quả.

Tôi cũng cho rằng, đô thị hóa phải tạo ra được môi trường sống an toàn cho người dân. Người ta xác định một đô thị bền vững dựa vào mức độ quan tâm đến tác động môi trường gây nên bởi thiên nhiên và con người, và vào việc sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là nguồn năng lượng và nước nhằm tránh hoang phí, đồng thời không để tạo ra nhiều chất thải. Nếu ta chỉ chú trọng vào việc phát triển hay nâng cấp đô thị ở một khu vực nào đó mà không có cái nhìn tổng thể thì có thể gây ảnh hưởng xấu cho môi trường ở khu vực khác. Do đó, trong quá trình chuẩn bị và xây dựng đề án nâng cấp đô thị cần đặc biệt quan tâm đến môi trường và việc đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải của quá trình sản xuất công nghiệp. Cùng với đó là đảm bảo tỷ lệ công viên, cây xanh phù hợp để các đô thị mang dáng dấp đô thị hiện đại nhưng phát triển bền vững./.

Video liên quan

Chủ Đề