Văn bạn thuộc thể loại truyền thuyết Lớp 6

Học sinh sẽ được tìm hiểu về thể loại truyền thuyết và cổ tích trong chương trình môn Ngữ văn 6. Chính vì vậy, Download.vn sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 6: Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích.

Văn bạn thuộc thể loại truyền thuyết Lớp 6
Viết bài văn kể lại một truyền thuyết hay cổ tích

Tài liệu bao gồm dàn ý và 71 bài văn mẫu lớp 6, cung cấp đến các bạn học sinh những ý tưởng cho bài viết. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây.

Viết bài văn kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích

  • Kể lại truyền thuyết - Con Rồng cháu Tiên
    • Dàn ý kể lại Con Rồng cháu Tiên
    • Bài văn mẫu số 1
    • Bài văn mẫu số 2
    • Bài văn mẫu số 3
    • Bài văn mẫu số 4
  • Kể lại truyền thuyết - Sơn Tinh, Thủy Tinh
    • Dàn ý kể lại Sơn Tinh, Thủy Tinh
    • Bài văn mẫu số 1
    • Bài văn mẫu số 2
    • Bài văn mẫu số 3
    • Bài văn mẫu số 4
  • Kể lại truyền thuyết - Thánh Gióng
    • Dàn ý kể lại Thánh Gióng
    • Bài văn mẫu số 1
    • Bài văn mẫu số 2
    • Bài văn mẫu số 3
    • Bài văn mẫu số 4
  • Kể lại truyền thuyết - Bánh chưng, bánh giầy
    • Dàn ý kể lại Bánh chưng, bánh giầy
    • Bài văn mẫu số 1
    • Bài văn mẫu số 2
    • Bài văn mẫu số 3
    • Bài văn mẫu số 4
  • Kể lại truyện cổ tích - Thạch Sanh
    • Dàn ý tham khảo kể lại Thạch Sanh
    • Bài văn mẫu số 1
    • Bài văn mẫu số 2
    • Bài văn mẫu số 3
    • Bài văn mẫu số 4
  • Kể lại truyện cổ tích - Sọ Dừa
    • Dàn ý kể lại Sọ Dừa
    • Bài văn mẫu số 1
    • Bài văn mẫu số 2
    • Bài văn mẫu số 3
    • Bài văn mẫu số 4
  • Kể lại truyện cổ tích - Em bé thông minh
    • Bài văn mẫu số 1
    • Bài văn mẫu số 2
    • Bài văn mẫu số 3
    • Bài văn mẫu số 4

Kể lại truyền thuyết - Con Rồng cháu Tiên

Dàn ý kể lại Con Rồng cháu Tiên

1. Mở bài

Giới thiệu nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ.

2. Thân bài

  • Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu thương và trở thành vợ chồng.
  • Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con.
  • Lạc Long Quân từ biệt Âu Cơ, đưa năm mươi con trở về biển.
  • Âu Cơ đưa năm mươi con lên rừng. Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương.

3. Kết bài

Đánh giá về truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên.

Văn bạn thuộc thể loại truyền thuyết Lớp 6
Con Rồng cháu Tiên

Bài văn mẫu số 1

Ngày xưa ở miền đất Lạc Việt, cứ như bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có vị thần thuộc nòi rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, sức khoẻ vô địch và có nhiều phép lạ. Thần thường sống dưới nước, thỉnh thoảng lên cạn diệt trừ yêu quái giúp dân và dạy dân chăn nuôi trồng trọt…

Bấy giờ ở vùng núi cao phương Bắc có nàng Âu Cơ thuộc dòng dõi Thần Nông. Biết vùng Lạc Việt nhiều hoa thơm cỏ lạ nên nàng đến thăm. Tại đây, nàng gặp Lạc Long Quân. Họ yêu nhau, kết duyên đôi lứa, sống tại cung điện Long Trang trên cạn.

Ít lâu sau, Âu Cơ có mang. Kì lạ làm sao, đến kì sinh nở, nàng sinh ra một bọc trăm trứng, sau trăm trứng đó nở thành trăm người con trai đẹp đẽ lạ thường. Đàn con không cần bú mớm mà vẫn lớn nhanh như thổi, sức khoẻ như thần. Âu Cơ và Lạc Long Quân mừng vui khôn xiết.

Nhưng Lạc Long Quân vốn quen sống dưới nước. Một hôm, chàng đành từ biệt vợ con trở về thuỷ cung. Âu Cơ một mình vò võ nuôi con trong chờ mong buồn tủi. Một hôm, nàng gọi chồng lên than thở:

- Sao chàng lại bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?

Lạc Long Quân ngậm ngùi:

- Ta thuộc nòi rồng, quen sống dưới vùng nước thẳm, nàng là tiên nữ, quen sống chốn non cao. Kẻ trên cạn, người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó mà ăn ở với nhau lâu dài được. Nay ta đem năm mươi người con xuống biển, nàng đem năm mươi người con lên núi, chia nhau cai quản đất đai, khi có việc cần thì giúp đỡ nhau.

Âu Cơ mang năm mươi người con lên rừng. Người con trưởng của Âu Cơ lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu. Triều đình có đủ tướng văn tướng võ. Con trai được gọi là Lang, con gái gọi là Mị Nương. Khi cha chết, ngôi báu được truyền cho con trưởng. Cứ thế, mười mấy đời vua Hùng đã thay nhau trị vì đất nước, không hể thay đổi hiệu Hùng Vương.

Kể từ đó, dân Việt Nam, con cháu các vua Hùng, đều tự coi mình là con Rồng, cháu Tiên. Đấy là truyền thuyết giải thích nguồn gốc của dân tộc ta. Truyền thuyết cũng cho ta hiểu rõ hơn hai tiếng thiêng liêng "đồng bào" (cùng trong một bọc). Chúng ta tự hào hơn về nòi giống Tiên Rồng của mình. Tự hào hơn về tình đoàn kết của các dân tộc anh em trên đất Việt.

Bài văn mẫu số 2

Ngày xưa, có một người con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thần có sức khỏe vô địch, lại nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở. Ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng đến thăm vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.

Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăn trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều hoàn hảo, đẹp lạ thường. Lạc Long Quân vốn quen sống ở dưới nước, nên thường xuyên trở về dưới thuỷ cung.

Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng khiến nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than thở:

- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?

Lạc Long Quân nói:

- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao. Nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc gì cần giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con cái.

Âu Cơ ưng thuận. Trước khi đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:

- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.

Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:

- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta không hề phai nhạt, khi nào cần chúng ta lại gặp nhau.

Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:

- Thiếp rất nhớ chàng và thương các con, biết đến khi nào chúng ta mới gặp nhau.

Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, an ủi:

- Xa nàng và các con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và cảm thông cùng ta.

Âu Cơ và các con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.

Lạc Long Quân và các con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa các con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên.

Bài văn mẫu số 3

Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, ở miền đất Lạc Việt, bây giờ là Bắc Bộ nước ta, có một vị thần mình rồng, con trai thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Với sức khoẻ vô địch của giống rồng cùng những phép thần thông biến hoá mà cha mẹ dạy cho, chàng hay lên cạn giúp dân diệt trừ yêu quái và dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi…

Cùng lúc ấy, ở vùng núi cao phương Bắc có một tiên nữ xinh đẹp tuyệt trần, tên là Âu Cơ, thuộc dòng họ Thần Nông. Nghe nói vùng đất Lạc Việt đất đai màu mỡ, vạn vật phong phú tốt tươi, nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng bèn đến thăm. Tại đây, nàng gặp Lạc Long Quân và hai người nên duyên chồng vợ. Họ sống với nhau rất hạnh phúc ở cung điện Long Trang.

Không lâu sau, Âu Cơ có mang. Đến kì sinh nở, nàng sinh ra một bọc trăm trứng, sau trăm trứng lại nở ra trăm người con hồng hào bụ bẫm. Đàn con chẳng cần bú mớm, lớn nhanh như thổi, đứa nào đứa nấy mặt mũi khôi ngô, sức khoẻ vô địch.

Lạc Long Quân vốn quen sống dưới biển khơi, chàng vẫn thường trở về thuỷ cung, để lại Âu Cơ và đàn con đêm ngày nhớ mong buồn tủi. Mãi rồi một hôm, Âu Cơ đành phải gọi Lạc Long Quân lên, nàng than thở:

- Sao chàng lại bỏ thiếp mà đi, không ở lại cùng thiếp nuôi dạy con cái?

Lạc Long Quân rầu rĩ:

- Cả đời ta gắn với biển sâu, nàng lại là tiên nữ chốn non cao. Người dưới nước, kẻ trên cạn thì một cuộc biệt li chắc không tránh khỏi. Vả lại, ta còn cha già mẹ yếu nơi biển sâu không ai chăm sóc, công việc ở đó không ai gánh vác thay ta. Thôi, ta đem năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương, mỗi khi khó khăn hoạn nạn thì phải giúp đỡ lẫn nhau.

Không còn cách nào khác, Âu Cơ đem năm mươi người con lên núi. Người con trưởng của Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở đất Phong Châu. Trong triều có tướng văn, tướng võ, con trai vua gọi là Lang, con gái vua gọi là Mị Nương. Tục truyền rằng, mười mấy đời vua đều không thay đổi hiệu - Hùng Vương. Cũng bởi sự tích này mà về sau, nhân dân ta rất tự hào vì mình là con Rồng cháu Tiên.

Bài văn mẫu số 4

Ngày xưa, có một người con trai thần Long Nữ tên là Lạc Long Quân thuộc giống rồng. Thân ở dưới nước và ở cả trên cạn, sức khỏe vô địch, có nhiều phép lạ. Thần giúp dân trừ yêu quái, dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và ăn ở.

Ở vùng núi cao phương Bắc, có nàng Âu Cơ thuộc dòng hạ Thần Nông, xinh đẹp tuyệt trần. Nàng đến thăm vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lại. Hai người gặp nhau, yêu nhau và trở thành vợ chồng.

Ít lâu sau Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăn trứng, nở ra trăm người con, người nào cũng đều hoàn hảo, đẹp lạ thường.

Lạc Long Quân vì nhớ mẹ và không quen ở trên cạn nên đành từ biệt Âu Cơ và đàn con trở về Thuỷ Cung.

Âu Cơ ở lại nuôi đàn con, tháng ngày chờ đợi Lạc Long Quân trở lại, nhưng nỗi nhớ chồng khiến nàng buồn tủi. Cuối cùng nàng gọi chồng lên than thở:

- Sao chàng đành bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?

Lạc Long Quân nói:

- Ta vốn ở miền nước thẳm, nàng thì ở chốn núi cao, nhiều điều khác nhau, khó mà ở cùng nhau một nơi được lâu dài được. Nay ta đưa năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc gì cần giúp đỡ lẫn nhau, đừng quên lời hẹn, đây là giao ước của vợ chồng, con cái.

Âu Cơ ưng thuận. Trước khi đưa năm mươi con lên núi, nàng nói với chồng:

- Thiếp xin nghe lời chàng. Vợ chồng ta đã sống với nhau thắm thiết, nay phải chia hai, lòng thiếp thật là đau xót.

Lạc Long Quân cũng cố nén nỗi buồn trong buổi chia li, chàng khuyên giải vợ:

- Tuy xa nhau nhưng tình cảm đôi ta không hề phai nhạt, khi nào cần chúng ta lại gặp nhau.

Âu Cơ vẫn quyến luyến, rồi buồn bã nói:

- Thiếp rất nhớ chàng và thương các con, biết đến khi nào chúng ta mới gặp nhau.

Lạc Long Quân nắm chặt tay vợ, an ủi:

- Nàng đừng làm mủi lòng ta. Xa nàng và các con lòng ta cũng đau lắm! Âu cũng là mệnh trời, mong nàng hiểu và cảm thông cùng ta.

Âu Cơ và các con nghe theo lời cùng nhau chia tay lên đường.

Lạc Long Quân và các con về nơi biển cả, Âu Cơ đưa các con về đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang.

Cũng bởi sự tích này mà người Việt Nam ta đều luôn tự hào mình là dòng dõi con Rồng cháu Tiên, coi tổ tiên mình là vua Hùng.

Kể lại truyền thuyết - Sơn Tinh, Thủy Tinh

Dàn ý kể lại Sơn Tinh, Thủy Tinh

1. Mở bài

Giới thiệu truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh.

2. Thân bài

  • Vua Hùng Vương có con gái tên Mị Nương.
  • Vua kén rể cho con gái.
  • Sơn Tinh, Thủy Tinh đến tranh tài.
  • Sơn Tinh đến trước lấy được Mị Nương.
  • Thủy Tinh đánh Sơn Tinh.

3. Kết bài

Ý nghĩa câu chuyện: Hiện tượng lũ lụt.

Văn bạn thuộc thể loại truyền thuyết Lớp 6
Sơn Tinh, Thủy Tinh

Bài văn mẫu số 1

Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua hết mực yêu thương nên muốn tìm cho con một người chồng xứng đáng.

Nghe tin nhà vua muốn kén rể, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Tên của chàng là Thủy Tinh.

Cả hai người đều vô cùng xuất chúng nên vua Hùng không biết chọn ai. Vua bèn ra lệnh:

- Hai người đều vừa ý ta cả. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về. Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, lấy được Mị Nương. Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ liền nổi giận, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Thấy vậy, Sơn Tinh bốc từng quả đồi dời từng dãy núi, ngăn chặn dòng nước lũ.

Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Từ đó càng thêm oán nặng thù sâu, hằng năm, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng đều thua trận.

Bài văn mẫu số 2

Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái. Nàng tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua muốn kén cho con một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.

Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Chàng tên là Thủy Tinh. Cả hai người đều ngang sức ngang tài khiến vua vô cùng khó xử, không biết chọn ai. Vua bèn cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc, xong vua gọi hai chàng vào rồi nói:

- Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.

Cả hai cùng nghe xong, liền tâu hỏi đồ sính lễ gồm những gì. Vua Hùng liền nói:

- Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến trước. Nhà vua lấy làm hài lòng, quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Còn Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ đùng đùng nổi giận, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thần hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Nhưng Sơn Tinh chẳng hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngắn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.

Cả hai đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Kể từ đó, oán nặng thù sâu, năm nay, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng lần nào, Thủy Tinh cũng đều nhận phải lấy thất bại nặng nề.

Bài văn mẫu số 3

Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng xinh đẹp, lại hiền dịu. Nhà vua yêu thương hết mực nên muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng.

Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Mọi người gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại là Thủy Tinh, tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Vua Hùng thấy cả hai người đều ngang sức ngang tài thì vô cùng khó xử, không biết chọn ai. Vua cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc, rồi đưa ra quyết định:

- Cả hai người đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.

Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe xong, liền hỏi xem sính lễ cần sắm những gì. Vua Hùng nói:

- Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Sơn Tinh và Thủy Tinh liền cáo từ nhà vua để về chuẩn bị. Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến trước. Nhà vua liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ thì nổi giận, đem quân tiến đánh Sơn Tinh.

Thần nước hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước khiến dân chúng vô cùng khốn khổ. Nhưng Sơn Tinh chẳng hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngắn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.

Hai thần đánh nhau suốt mấy tháng trời. Cuối cùng sức cùng lực kiệt, thần nước đành phải rút quân. Nhưng kể từ đó, mối thù càng tăng thêm. Năm nào, Thủy Tinh cũng dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng không bao giờ, thần nước chiến thắng.

Bài văn mẫu số 4

Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người đẹp như hoa tình nết dịu hiền. Vua cha hết mực yêu thương nên muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng.

Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Người ta gọi chàng là Thủy Tinh.

Sơn Tinh và Thủy Tinh đều xuất chúng nên vua Hùng không biết lựa chọn ai. Vua ra lệnh nếu ai mang sính lễ đến trước sẽ lấy được Mị Nương làm vợ. Sính lễ phải có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.

Sáng sớm hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước rước Mị Nương về núi. Thủy Tinh đến sau không lấy được Mị Nương nên nổi giận dâng nước đánh Sơn Tinh để cướp Mị Nương về. Thủy Tinh hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Thấy vậy, Sơn Tinh bốc từng quả đồi dời từng dãy núi, ngăn chặn dòng nước lũ.

Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Hằng năm, Thủy Tinh đều dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng đều thất bại.

Kể lại truyền thuyết - Thánh Gióng

Dàn ý kể lại Thánh Gióng

1. Mở bài

Giới thiệu truyền thuyết Thánh Gióng.

2. Thân bài

  • Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
  • Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta.
  • Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
  • Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
  • Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
  • Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre bên đường đánh tan quân giặc.
  • Thánh Gióng bay về trời.

3. Kết bài

Truyền thuyết thể hiện tinh thần đoàn kết chống giặc cứu nước.

Văn bạn thuộc thể loại truyền thuyết Lớp 6
Thánh Gióng

Bài văn mẫu số 1

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có lấy một mụn con.

Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.

Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:

- Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.

Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:

- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

- Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.

Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.

Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sĩ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị tiêu diệt không sót một tên.

Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.

Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.

Bài văn mẫu số 2

Ngày xửa ngày xưa, vào thời vua Hùng Vương thứ mười sáu, có một đôi vợ chồng tuy đã già nhưng vẫn chẳng có lấy một mụn con. Hai ông bà lão nổi tiếng là người hiền lành, đôn hậu ở làng Gióng nhưng không hiểu sao lại chịu sự không may mắn như vậy. Cho đến một ngày, khi bà lão đi ra đồng thì chợt thấy một dấu chân to khổng lồ. Lấy làm ngạc nhiên, bà lão đưa chân mình vào ướm thử để đo xem dấu vết chân đó to đến cỡ nào. Thời gian thấm thoát trôi đi, bà lão chẳng còn nhớ đến vết chân ngày xưa nữa thì bỗng một ngày bà có thai. Hai vợ chồng bà lão mừng lắm, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Ấy thế mà đứa trẻ đó từ khi sinh ra lại chẳng biết nói, cũng không biết cười, không biết đi, chỉ đặt đâu thì nó nằm đấy. Hai ông bà từ mừng rỡ khi sinh được con đến lo lắng, buồn bã không hiểu sao lại như vậy.

Lúc bấy giờ, giặc Ân tràn sang xâm lược nước ta. Chúng khiến cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, tình cảnh đất nước lúc này đang ở thế "nghìn cân treo sợi tóc". Nhà vua sai sứ giả đi rao tin khắp nơi, nhằm tìm người tài đứng lên cứu giúp đất nước. Sứ giả đi rao tin cuối cùng cũng đến làng Gióng. Nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng nhiên cất tiếng gọi mẹ: "Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con". Thấy đứa con mình suốt bao nhiêu ngày tháng không nói, không cười bỗng dưng hôm nay lại cất tiếng gọi mẹ, hai ông bà lão mừng lắm, liền mời sứ giả vào ngay.

Khi sứ giả vào nhà, cậu bé đã ngay lập tức yêu cầu sứ giả hãy về chuẩn bị đủ những vũ khí để đi đánh giặc: Ngựa sắt, áo sắt và tấm giáp sắt để phá tan lũ giặc xâm lược. Sứ giả mừng rỡ vội về tâu lên cho nhà vua chuẩn bị. Nhà vua cũng đồng ý theo lời của cậu bé.Càng lạ lùng thay, Thánh Gióng từ khi gặp được sứ giả của nhà vua thì lớn nhanh như thổi, cơm cha mẹ thổi bao nhiêu cậu ăn cũng không đủ no, quần áo chẳng mấy chốc đều chật hết cả. Cậu bé chẳng mấy chốc hóa thành một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, khí thế ngút trời.

Chẳng bao lâu, nhà mua sai người đem đến đủ cả những thứ mà Gióng yêu cầu. Thánh Gióng lên đường đánh giặc ngay. Cậu đi đến đâu đánh bại quân giặc đến đấy. Khi kiếm gãy, Gióng liền nhổ một bụi cỏ bên đường, quật ngã bọn giặc ngoại xâm. Một hồi, ngựa của Thánh Gióng đã đến chân núi Sóc Sơn, Thánh Gióng liền cởi bộ giáp sắt đang mặc trên người ra mà bay thẳng lên trời.

Để nhớ đến công lao của Thánh Gióng, nhà vua đã cho người lập đền thờ của vị tướng này tại quê nhà của ông là làng Gióng. Cho đến nay, vẫn còn rất nhiều dấu tích năm xưa còn lưu lại và cứ tháng tư hằng năm, người ta vẫn thường đến đền thờ Phù Đổng Thiên Vương để tưởng nhớ ông.

Bài văn mẫu số 3

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có lấy một mụn con.

Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.

Bấy giờ, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:

- Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.

Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:

- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

- Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.

Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.

Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sĩ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị tiêu diệt không sót một tên.

Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.

Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.

Bài văn mẫu số 4

Vào thời Hùng Vương thứ sáu, tại làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, nổi tiếng là phúc đức. Tuổi đã cao nhưng họ vẫn chưa có con.

Một hôm, người vợ ra đồng trông thấy một vết chân rất to. Bà liền đặt chân vào ướm thử. Về nhà thì mang thai. Đến mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Nhưng ba tuổi mà cậu vẫn không biết nói, biết cười. Ai đặt đâu thì cậu ngồi đấy.

Lúc bấy giờ, giặc Ân xâm lược nước ta, thế giặc mạnh khiến nhà vua rất lo lắng. Nhà vua cho sứ giả đi khắp nơi tìm người tài để giúp nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao của sứ giả, liền cất tiếng nói đầu tiên, bảo mẹ:

- Mẽ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!

Sứ giả vào đến nơi, cậu liền nói:

- Ông về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.

Sứ giả nghe xong thì vui mừng lắm, liền vội vàng về tâu lại với nhà vua. Nhà vua liền sai thợ rèn ngày đêm làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Kể từ hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, liền nhờ bà con trong xóm giúp đỡ.

Chẳng mấy chốc, giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước đang lúc lâm nguy. Đúng lúc đó thì sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắp, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, phun lửa vào quân giặc. Chúng hoảng sợ lắm, bỏ chạy toán loạn. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, quân giặc bại trận đến đó. Roi sắt gãy, tráng sĩ liền nhổ bụi tre đánh tan quân giặc. Sau khi thua trận, đám tàn quân bỏ chạy.

Tráng sĩ cưỡi ngựa một mình lên đỉnh núi. Đến đây, tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Về sau, để tưởng nhớ công ơn, Vua Hùng phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.

Kể lại truyền thuyết - Bánh chưng, bánh giầy

Dàn ý kể lại Bánh chưng, bánh giầy

I. Mở bài

Giới thiệu về thời gian, không gian của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy: Đời Hùng Vương thứ sáu, nhà vua đã có tuổi nên muốn truyền ngôi cho con.

II. Thân bài

1. Điều kiện truyền ngôi của Vua Hùng

- Hoàn cảnh: Hùng Vương lúc về nhà, muốn truyền ngôi nhưng lại có tới hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng

- Điều kiện: “Người nối ngôi ta phải nối được trí ta, không nhất thiết phải là con trưởng.”

- Hình thức: Nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.

2. Lang Liêu và các hoàng tử thi nhau tìm kiếm lễ vật dâng nhà vua

- Các lang đua nhau làm cỗ thật hậu, thật ngon đem về lễ Tiên vương.

- Lang Liêu là con thứ mười tám; mẹ chàng trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi chết. So với anh em, chàng thiệt thòi nhất.

- Lang Liêu nằm mơ, được thần mách bảo hãy dùng thứ gạo nếp quen thuộc làm thành lễ vật dâng vua cha.

- Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một đêm. Cũng thứ gạo nếp ấy đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn.

- Đến ngày lễ Tiên vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng tới, chẳng thiếu thứ gì.

- Nhà vua xem qua một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, bèn gọi lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần ra kể lại.

=> Kết quả: Vua Hùng chọn hai thứ bánh làm lễ, Lang Liêu được truyền ngôi báu.

3. Ý nghĩa và phong tục làm bánh chưng bánh giầy

- Ý nghĩa của bánh chưng, bánh giầy:

  • Bánh hình tròn tượng trưng cho trời, được đặt tên là bánh giầy.
  • Bánh hình vuông tượng trưng cho đất nên được đặt tên là bánh chưng
  • Lá bọc bên ngoài ngụ ý đùm bọc lẫn nhau giống với truyền thống thương người như thể thương thân của dân tộc ta.

- Tục lệ của dân tộc ta: Hàng năm, mỗi khi Tết đến, bánh chưng bánh giầy là món ăn không thể thiếu.

III. Kết bài

Ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.

Bài văn mẫu số 1

Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho một trong số những người con trai nên đã đưa ra điều kiện:

- Không nhất định phải là con trưởng, chỉ cần làm vừa ý vua trong lễ Tiên vương sẽ được truyền ngôi cho.

Các hoàng tử cho người đi đến khắp nơi tìm kiếm những của ngon vật lạ để đem về dâng lên vua cha.

Lang Liêu là con vua, nhưng lại sống giản dị quen với việc chăm lo đồng áng, trồng lúa trồng khoai. Mẹ của Lang Liêu trước kia bị vua cha ghẻ lạnh, sau đó mất đi để lại một mình chàng. So với các anh em, chỉ có Lang Liêu là thiệt thòi nhất. Chàng không biết lấy gì để dâng lên Tiên vương.

Một đêm nọ, Lang Liêu nằm mơ và được thần mách bảo rằng:

- Trong trời đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Hãy lấy gạo mà làm bánh lễ Tiên vương.

Khi tỉnh dậy biết mình được thần báo mộng. Chàng lấy gạo nếp vo sạch, lấy đậu xanh thịt lợn làm nhân, gói bằng lá dong thành hình vuông, đem luộc một ngày một đêm. Và cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, đem giã nhuyễn rồi nặn thành hình tròn. Bánh hình vuông tượng trưng cho Trời đặt tên là bánh chưng, còn bánh hình tròn tượng trưng cho Đất đặt tên là bánh giầy.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử dâng lên biết bao của ngon vật lạ. Đến lượt Lang Liêu, chàng đem hai loại bánh dâng lên cúng Tiên vương. Vua Hùng rất hài lòng và quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Kể từ đó, hằng năm, cứ mỗi khi Tết đến, bánh chưng bánh giầy là món ăn không thể thiếu.

Bài văn mẫu số 2

Hùng Vương thứ sáu muốn truyền ngôi cho con nhưng ông có hai mươi người con trai, không biết chọn ai cho xứng đáng. Vua bèn gọi các con lại và nói:

- Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ buổi đầu dựng nước đã truyền được sáu đời. Nhiều lần giặc Ân đã xâm lấn bờ cõi của chúng ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, nhân dân ta đã đánh đuổi được giặc ngoại xâm, thiên hạ hưởng hạnh phúc, bình yên. Nay ta đã già rồi, không thể sống mãi trên đời. Người ta truyền ngôi phải là người nối chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa lòng ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.

Các lang ai cũng muốn được vua cha truyền ngôi cho nên đều cố công trèo đèo lội suối, lên rừng xuống bể để tìm của ngon vật lạ. Trong các lang, Lang Liêu là người thiệt thòi nhất. Trước đây, mẹ chàng bị cha ghẻ lạnh nên ốm rồi qua đời. Từ khi sinh ra ở riêng, chàng chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, trồng khoai. Nhìn lại căn nhà đơn sơ, chỉ có khoai và sắn. Lang liêu lấy làm buồn lắm. Một đêm, chàng nằm ngủ mơ thấy thần nói chuyện với mình:

- Lang Liêu, trong trời đất, không gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon nhưng quý, hiếm mà người ta không làm ra được. Còn gạo trồng nhiều thì ăn được nhiều, gạo bình dị nhưng rất quý giá. Con hãy sử dụng mà làm bánh lễ Tiên vương.

Chàng tỉnh dậy mới biết được đó là giấc mơ. Chàng lấy làm mừng lắm. Lang Liêu bắt tay ngay vào làm bánh theo lời thần chỉ bảo. Chàng chọn những hạt gạo nếp thơm ngon nhất, trắng tinh, hạt nào hạt nấy mẩy và tròn để làm bánh. Lang Liêu vo gạo với nước sạch, dùng đậu xanh, thịt mỡ làm nhân. Chàng ra vườn lấy lá dong để gói bánh. Để mâm cỗ đa dạng, phong phú hơn, cùng một thứ gạo ấy chàng giã nhuyễn, đồ lên rồi nặn thành hình tròn.

Hôm đó, đến ngày lễ Tiên vương, trước sân cung đình, mọi người háo hức chờ đợi. Các làng lần lượt mang các món ăn vào yết kiến nhà vua. Vua cha xem qua một lượt rồi bỗng dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu và rất ngạc nhiên. Ông cho gọi Lang Liêu lên và chàng đã kể việc được thần báo mộng. Vua cha nói:

- Bánh này hình vuông, tượng trưng cho đất, ta đặt tên là bánh chưng. Thịt mỡ, đậu xanh làm nhân tượng trưng cho cầm thú. Lá dong bao bọc bên ngoài thể hiện sự đoàn kết của nhân dân. Bánh còn lại hình tròn, tượng trưng cho Trời, ta đặt là bánh giầy. Hai thứ bánh này vừa giản dị vừa giàu ý nghĩa. Lang Liêu đã dâng lễ vật vừa ý ta, sẽ được ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên vương chứng giám.

Nói xong, vua Hùng đặt bánh lên lễ Tiên vương. Lễ xong, các vua cùng quần thần quây quần xung quanh để thưởng thức. Ai cũng tấm tắc khen ngon. Lang Liêu được truyền ngôi và trở thành ông vua hiền minh.

Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Và cũng từ đấy, thiếu bánh chưng, bánh giầy là thiếu hẳn hương vị ngày Tết. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy đã ca ngợi các vua Hùng có công dựng nước và giải thích cho chúng ta về phong tục làm bánh chưng, bánh giầy.

Bài văn mẫu số 3

Từ thời rất xưa, vào đời Hùng Vương thứ sáu, sau khi đuổi được giặc Ân ra bờ cõi nước ta, vua Hùng có ý định truyền ngai vàng cho một hoàng tử xứng đáng nhất. Vào dịp đầu năm mới, khi mọi thứ đang tưng bừng sức sống, tràn ngập sắc xuân, vua gọi các hoàng tử đến và bảo rằng:

- Trong các con, ai tìm được thức ăn ngon để bày ra một mâm cỗ Tết thật ý nghĩa và ấm cúng thì ta sẽ truyền lại ngôi vua cho người đó.

Và cuộc thi đã thật sự bắt đầu, các lang ai cũng đều đua nhau tìm kiếm khắp nơi những thức ăn ngon nhất, lạ nhất để dâng lên vua Hùng với mong muốn rằng, món của mình sẽ là món ăn ngon nhất, lạ và ý nghĩa nhất. Lang Liêu là con thứ mười tám của nhà vua. Từ nhỏ đến lớn chỉ quen việc đồng áng nên cảm thấy vô cùng lo lắng.

Một hôm, Lang Liêu đang nằm ngủ thì thấy một vị thần xuất hiện và bảo rằng:

- Này con, trong trời đất này thì không có gì quý bằng gạo cả, gạo chính là thức ăn để nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp thật ngon, làm thành những chiếc bánh hình tròn và hình vuông. Hình tròn tượng trưng cho trời còn hình vuông để tượng trưng cho đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, làm nhân đặt trong ruột bánh để tượng trưng cho sự sinh thành của cha mẹ.

Lang Liêu tỉnh dậy, không tin vào giấc mơ hạnh phúc. Chàng mừng rỡ, vì đã được thần linh giúp đỡ mình. Lang liêu làm theo lời vị thần dặn, chọn gạo nếp thật ngon để làm bánh vuông, đó là bánh chưng. Cũng thứ gạo đó nhưng giã nhuyễn, nặn lại thành hình tròn đó là bánh giầy. Lá xanh bọc ngoài, che chở cho bánh, tượng trưng cho sự che chở của cha mẹ.

Ngày hẹn đã đến, các lang đều mang những sơn hào hải vị tìm khắp cả nước để dâng lên vua. Đến lượt Lang Liêu, chỉ có hai loại bánh là bánh chưng và bánh giầy được làm từ gạo nếp, nó không phải là sơn hào hải vị gì cả. Vua Hùng rất ngạc nhiên, Lang Liêu kể về giấc mơ và giải thích ý nghĩa cho vua cha nghe. Vua thấy rất ngon và có ý nghĩa nên nhường lại ngai vàng cho Lang Liêu.

Và kể từ đó món bánh chưng bánh giầy ra đời, cứ dịp Tết đến xuân về thì không bao giờ thiếu hai loại bánh này.

Bài văn mẫu số 4

Vua Hùng Vương thứ sáu, lúc về già, muốn truyền ngôi cho con. Vua có đến mười hai người con trai, nhưng ngôi báu chỉ có thể truyền lại cho một người. Nên vua bèn nghĩ cách chọn ra một người thật xứng đáng. Người nối ngôi vua phải nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.

Nhân dịp đầu xuân, vua gọi các hoàng tử lại rồi bảo:

- Ai trong số các con tìm đước thức ăn ngon lành, có ý nghĩa bày cỗ dâng lên Trời Đất, tổ tiên, ta sẽ truyền ngôi cho.

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ, với hy vọng được truyền ngôi báu. Duy chỉ có Lang Liêu, người con thứ mười tám của nhà vua, lại tỏ ra rất băn khoăn. Tuy là người chăm chỉ, hiếu thảo nhưng mẹ chàng mất sớm nên thiếu người chỉ vẽ. Chàng chưa biết làm món gì để tham dự cuộc thi.

Một đêm, Lang Liêu nằm mộng thấy thần đến bảo:

- Này con, trong Trời Đất không có gì quý bằng hạt gạo. Gạo là thức ăn nuôi sống con người, ăn mãi mà không chán. Vậy con hãy lấy thứ gạo nếp để làm ra bánh hình tròn và hình vuông, lấy lá xanh bọc bên ngoài, đặt nhân trong ruột bánh.

Lúc tỉnh dậy, Lang Liêu mừng rỡ. Chàng liền chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vùng gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn, nặn hình tròn.

Ngày lễ Tiên Vương đã đến, các hoàng tử mang biết bao là sơn hào hải vị đến. Vua Hùng xem qua một lượt, rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất vừa ý, liền gọi chàng lên hỏi. Lang Liêu đem giấc mộng gặp thần kể lại, rồi lí giải về nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa từng loại bánh. Nhà vua ngẫm nghĩ rồi chọn hai thứ bánh đem lễ Trời Đất, cùng Tiên vương.

Lễ xong, vua cho đem bánh xuống thưởng thức với quần thần. Ai cũng đều khen ngon.

Nhà vua nói:

- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Còn bánh hình vuông là tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài mĩ vị, ngụ ý cho sự đùm bọc. Lang Liêu dâng lễ vật rất hợp với ý ta. Nên ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu.

Kể từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt. Hằng năm, cứ vào dịp Tết, nhà nào cũng làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng trời đất.

Kể lại truyện cổ tích - Thạch Sanh

Dàn ý tham khảo kể lại Thạch Sanh

1. Mở bài

Giới thiệu truyện cổ tích Thạch Sanh.

2. Thân bài

  • Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
  • Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng.
  • Thạch Sanh giết chết chằn tinh, Lý Thông cướp công.
  • Thạch Sanh dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
  • Khi nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Vua tìm ra sự thật, kết tội Lý Thông.
  • Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu đến cầu hôn không được, kéo sang đánh …

3. Kết bài

Ý nghĩa câu chuyện của truyện: “Ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”.

Văn bạn thuộc thể loại truyền thuyết Lớp 6
Thạch Sanh

Bài văn mẫu số 1

Ngày xửa ngày xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa có một mụn con. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.

Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời gian sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Đến khi trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.

Thấy Thạch Sanh có sức khỏe, Lí Thông mới lân la gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh hung dữ, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người. Năm ấy đến lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:

- Đêm nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về.

Thạch Sanh chẳng có chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng đang ngủ thì bỗng nhiên có một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau với con quái vật. Không lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng sợ hãi. Sau khi nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:

- Đó là con vật nuôi của vua, giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.

Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân cơ hội đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.

Lại nói khi đó, công chúa đã đến tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền dùng cung tên bắn đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Đến hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá lớn lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.

Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước khi trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho chàng một một cây đàn thần.

Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại. Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần c ông chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì bỗng không nói, không cười. Ngự y trong triều đều phải bó tay. Ở trong ngục, Thạch Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để bày tỏ nỗi oan khuất. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh đến gặp, chàng kể hết mọi oan khuất. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho.

Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi không hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau, vua không có con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.

Bài văn mẫu số 2

Xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng, tuổi đã cao mà vẫn chưa có một mụn con. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, liền sai thái tử đầu thai xuống làm con.

Cậu bé sinh ra đã mồ côi cha, một thời gian sau thì người mẹ cũng qua đời. Từ đó, cậu sống một mình dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi rìu do người cha để lại. Mọi người gọi cậu là Thạch Sanh. Đến khi trưởng thành, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho Thạch Sanh nhiều võ nghệ.

Thấy Thạch Sanh có sức khỏe, Lí Thông mới lân la gợi chuyện để hai người kết nghĩa anh em. Thạch Sanh về ở cùng mẹ con Lí Thông. Bấy giờ, trong vùng có một con chằn tinh hung dữ, nó bắt dân làng mỗi năm phải nộp cho một mạng người. Năm ấy đến lượt nhà Lí Thông phải nộp mạng. Lí Thông chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, dọn một mâm rượu thịt mời ăn, rồi bảo:

- Đêm nay đến lượt anh đi canh miếu thờ, vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về.

Thạch Sanh chẳng có chút nghi ngờ mà đồng ý đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng đang ngủ thì bỗng nhiên có một con chằn tinh vồ lấy chàng. Thạch Sanh đánh nhau với con quái vật. Không lâu sau thì lưỡi búa của chàng đã xé xác nó làm đôi. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật đem về. Thấy Thạch Sanh về, mẹ con Lí Thông vô cùng sợ hãi. Sau khi nghe Thạch Sanh kể lại, Lí Thông liền nói với chàng:

- Đó là con vật nuôi của vua, giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi.

Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ, liền trốn đi. Lí Thông nhân cơ hội đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn ban thưởng cho Lí Thông.

Lại nói khi đó, công chúa đã đến tuổi lấy chồng. Trong ngày kén rể, công chúa bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh nhìn thấy, liền dùng cung tên bắn đại bàng. Chàng lần theo vết máu thì tìm ra chỗ ở của đại bàng. Lí Thông được vua cử đi tìm công chúa. Thạch Sanh kể cho Lí Thông nghe về hang của đại bàng. Sau đó, hai người cùng đi cứu công chúa. Đến hang Thạch Sanh xin xuống trước. Chàng đánh nhau với đại bàng, thì cứu được công chúa. Nhưng Lý Thông đã ra lệnh cho quân sĩ vần đá lớn lấp kín cửa hang lại, rồi kéo nhau về.

Biết mình bị lừa, Thạch Sanh đi khắp hang để tìm lối thoát. Chàng đi đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Đó chính là con vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Trước khi trở về, vua Thủy Tề còn tặng cho chàng một một cây đàn thần.

Thạch Sanh trở về nhưng lại bị hồn của đại bàng và chằn tinh căm thù hãm hại. Chàng bị bắt giam vào ngục. Về phần công chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì bỗng không nói, không cười. Ngự y trong triều đều phải bó tay. Ở trong ngục, Thạch Sanh lấy cây đàn được vua Thủy Tề tặng ra đánh để bày tỏ nỗi oan khuất. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh đến gặp, chàng kể hết mọi oan khuất. Lí Thông bị trừng trị. Còn Thạch Sanh được nhà vua gả công chúa cho.

Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi, quân sĩ ăn mãi không hết niêu cơm liền kéo nhau về nước. Về sau, vua không có con trai nên đã truyền ngôi cho Thạch Sanh.

Bài văn mẫu số 3

Trong những câu chuyện cổ tích mà em từng được nghe bà kể, thì em thích nhất là truyện Thạch Sanh.

Truyện kể về một chàng trai có tên là Thạch Sanh. Chàng vốn là thái tử trên trời cao. Được Ngọc Hoàng phái xuống làm con trai của một cặp vợ chồng già tốt bụng. Vì vốn là thần tiên, nên khi chàng xuống trần gian, người mẹ phải mang thai suốt nhiều năm mới sinh nở. Cha Thạch Sanh qua đời từ trước khi chàng được sinh ra. Đến lượt mẹ chàng cũng chỉ ở cạnh đến khi chàng khôn lớn cũng đành nhắm mắt xuôi tay. Thế là Thạch Sanh sống trong cảnh tứ cố vô thân, một mình lủi thủi trong túp lều cũ dưới gốc cây đa. Đến khi chàng trưởng thành, Ngọc Hoàng phái thiên thần xuống dạy cho đủ các môn võ nghệ và nhiều phép thần thông.

Một hôm, Thạch Sanh gặp được Lý Thông - một tên hàng rượu ranh ma xảo quyệt. Thấy Thạch Sanh khỏe mạnh, tài năng, hắn lân la làm quen rồi đòi kết nghĩa huynh đệ với chàng. Một người luôn sống thiếu tình thương lại thật thà như Thạch Sanh làm sao hiểu những suy tính xấu xa của tên học Lý. Nên chàng đồng ý ngay, và dọn về sống chung với hắn. Mấy hôm sau, Lý Thông nhờ Thạch Sanh giúp mình đi canh đến một hôm, nhưng thực chất là để Sanh đi chết thay mình. Thạch Sanh ngây thơ, cứ thế mà đi. Ở miếu thờ, có một con chằn tinh rất hung dữ, lại ăn thịt người. Mỗi năm sẽ có một người phải đến nộp mạng cho nó. Năm nay đến lượt Lý Thông, nhưng hắn lừa Thạch Sanh đi thay. Tuy nhiên, bằng tài nghệ cao cường của mình, Thạch Sanh đã giết được chằn tinh, đem lại yên bình cho bà con. Chàng còn thu được chiến lợi phẩm là một cây cung vàng. Thấy Thạch Sanh bình ăn trở về lại còn đem theo đầu chằn tinh. Lý Thông lại tiếp tục lừa Thạch Sanh bỏ trốn, còn mình đem đầu chằn tinh đi lĩnh thưởng. Vậy là, chàng trai thiện lương ấy lại trở về côi cút một mình dưới gốc cây đa.

Một ngày nọ, khi đang ở nhà, bỗng Thạch Sanh thấy một con đại bàng khổng lồ, cắp một cô gái bay ngang qua. Không ngần ngại, chàng liền rút cung tên vàng bắn về phía nó, tuy nhiên chỉ khiến đại bàng bị thương chứ không chết. Thế là chàng lần theo vết máu, tìm được hang đại bàng. Nhưng hang sâu quá, chàng không thể xuống cứu người được. Đúng lúc chàng đang băn khoăn thì gặp lại Lý Thông ở hội làng. Biết Lý Thông đang tìm cô gái bị đại bàng cắp đi, chàng liền phối hợp cùng hắn để cứu người. Sau khi chàng túm lấy dây thừng, nhảy xuống hang, đưa được công chúa lên trên. Thì đột nhiên đầu sợi dây phía trên rớt xuống, và một tảng đá to lớn lấp kín cửa hang lại. Chàng ngỡ ngàng, và đến giờ phút này mới nhận ra được bộ mặt thật của Lý Thông, nhưng đã quá muộn rồi. Thì ra, cô gái đó chính là công chúa, lần này, Lý Thông lại cướp công của chàng để được trở thành phò mã.

Một mình Thạch Sanh bước dưới hang sâu, thì gặp được con trai vua Thủy Tề đang bị nhốt trong cũi sắt. Sau khi giải cứu chàng trai ấy, Thạch Sanh được mời xuống thủy cung chơi, còn được thiết đãi long trọng. Lúc trở về, chàng được vua Thủy Tề tặng nhiều quà quý, nhưng chàng chỉ nhận lấy một chiếc đàn mà thôi.

Vậy là Thạch Sanh lại trở về túp lều cũ với người bạn mới là cây đàn thần. Thế nhưng ngày lành ngắn chẳng tày gang, chàng lại bị hồn chằn tinh và đại bàng hãm hại, bị bắt vào ngục giam. Buồn bã cho số phận khốn khổ của mình, chàng ngồi đàn để giãi bày tâm tình. Không ngờ tiếng đàn ấy bay đến hoàng cung, vào tai công chúa. Tiếng đàn thần kì giúp cô khỏi bệnh - căn bệnh câm mà nàng mắc phải sau khi bị Lý Thông đưa về cung. Thấy vậy, nhà vua liền cho mời Thạch Sanh đến. Tại đó, mọi chuyện được hóa giải, sự thật được phơi bày. Mẹ con Lý Thông được tha chết đuổi về quê cũ, nhưng giữa đường bị sét đánh chết, hóa thành bọ hung. Còn Thạch Sanh và công chúa được kết mối lương duyên, chung sống hạnh phúc.

Nghe tin ấy, hoàng tử các nước chư hầu bị từ hôn vô cùng tức giận. Họ cùng nhau đem quân sang đòi tấn công nước ta. Thế là Thạch Sanh đã dùng tiếng đàn thần đánh tan sĩ khí của quân giặc. Rồi lại dùng niêu cơm thần chiến thắng thách đấu. Nhờ vậy, quân ta chiến thắng dễ dàng. Hiểu được tài năng và tấm lòng nhân hậu của Thạch Sanh, lúc về già, nhà vua đã truyền ngôi cho chàng.

Câu chuyện Thạch Sanh không chỉ hấp dẫn, thú vị, mà còn dạy cho em những bài học ý nghĩa. Đó chính là ở hiền thì gặp lành, ác giả thì ác báo - đó là những bài học mà ông cha muốn truyền cho con cháu thông qua câu chuyện này.

Bài văn mẫu số 4

Ngày xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng đã lớn tuổi mà vẫn chưa có một mụn con. Mặc dù nhà nghèo, nhưng họ vẫn thường xuyên giúp đỡ mọi người. Ngọc Hoàng thấy họ tốt bụng, bèn sai thái tử đầu thai xuống làm con. Từ đó, người vợ có mang nhưng mấy nay không thấy sinh nở. Người chồng lâm bệnh nặng rồi qua đời. Mãi về sau, người vợ mới sinh ra được một cậu con trai.

Khi cậu bé vừa khôn lớn thì người mẹ cũng mất. Từ đó, cậu sống lủi thủi trong một túp lều dựng dưới gốc đa, cả gia tài chỉ có lưỡi búa cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh. Năm Thạch Sanh bắt đầu biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho đủ loại võ nghệ, các phép thần thông.

Một lần nọ, có người hàng rượu là Lí Thông tình cờ đi qua. Thấy Thạch Sanh gánh một bó củi lớn, hằn thầm nghĩ: “Người này khỏe mạnh, nếu về ở cùng sẽ có lợi biết bao!”. Rồi Lí Thông lân la gợi chuyện, gạ Thạch Sanh kết nghĩa anh em. Vốn mồ côi cha mẹ, nay lại có người săn sóc đến mình, Thạch Sanh cảm động, vui vẻ nhận lời. Sau đó, Thạch Sanh dọn về sống cùng mẹ con Lí Thông.

Bấy giờ, trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ, thường ăn thịt người. Quan quân nhiều lần vây bắt, nhưng đều thất bại. Kể từ đó, dân phải lập miếu thờ, hằng năm nộp cho chằn tinh một mạng người để nó đỡ phá phách. Băm ấy, đến lượt nhà Lý Thông. Mẹ con hắn nghĩ kế để lừa Thạch Sanh đi thay. Chiều hôm đó, Thạch Sanh đi kiếm củi trở về, Lí Thông dọn một mâm rượu thịt, rồi bảo với Thạch Sanh:

- Đêm nay, đến lượt anh đi cánh miếu thời. Ngặt còn mẻ rượu chưa xong, vậy em chịu khó thay anh, sáng mai lại về.

Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm hôm ấy, chàng đang lim dim ngủ thì chằn tinh xuất hiện, giơ nanh vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh lấy búa đánh nhau với con quái vật. Chỉ một lúc, lưỡi búa của chàng đã xả xác con quái vật làm hai. Chằn tinh hiện nguyên hình là một con trăn khổng lồ, nó chết để lại một bộ cung tên bằng vàng. Thạch Sanh chặt đầu con quái vật mang về. Mẹ con Lí Thông đang ngủ, nghe tiếng gọi cửa, ngỡ là Thạch Sanh trở về báo thù. Mẹ con hắn hoảng sợ, van lạy rối rít. Đến khi Thạch Sanh vào nhà kể rõ mọi chuyện, họ mới hoàn hồn. Lí Thông liền nghĩ ra kế khác, bảo với Thạch Sanh:

- Con trăn ấy nhà vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó là mang tội. Thôi bây giờ nhân trời chưa sáng em hãy trốn ngay đi. Mọi chuyện đã có anh lo liệu.

Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ. Chàng vội vàng từ giã mẹ con Lí Thông, trở về gốc đa cũ, lại kiếm củi để nuôi thân. Còn Lí Thông nhân cơ hội đó đem đầu con chằn tinh vào dâng vua. Nhà vua khen ngợi, còn phong hắn làm Quận công.

Nhà vua có công chúa đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước sai sứ đến hỏi vợ nhưng nàng không vừa ý. Nhà vua phải mở một hội lớn, mời các hoàng từ và con trai trong thiên hạ đến dự, để công chúa đứng trên lầu cao ném quả cầu may. Hễ quả cầu rơi trúng người nào, công chúa sẽ lấy người đó làm chồng. Khi công chúa sắp ném quả cầu, nàng bỗng bị một con đại bàng khổng lồ quắp đi. Nó bị thương nhưng vẫn gắng sức bay về hang. Thạch Sanh lần theo vết máu, tìm được hang của đại bàng.

Từ ngày công chúa bị mất tích, nhà vua vô cùng lo lắng. Vua liền sai Lí Thông đi tìm công chúa, hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lí Thông bèn cho mở hội hát xướng để nghe ngóng. Nhiều ngày trôi qua vẫn không có tin tức. Đến ngày thứ mười, Lí Thông gặp Thạch Sanh đi xem hội. Nghe Lí Thông kể đến việc đi tìm công chúa, Thạch Sanh kể lại chuyện bắn trúng đại bàng. Lí Thông mừng rỡ nhờ Thạch Sanh đến hang của đại bàng.

Đến nơi, Thạch Sanh xin được xuống hang cứu công chúa. Thạch Sanh đánh nhau với đại bàng, cuối cùng cứu được công chúa. Sau khi đưa được công chúa lên, Lí Thông sai người lấp kín cửa hang lại. Biết mình bị lừa, Thạch Sanh cố tìm lối lên. Chàng đi đến cuối hang thì thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh dùng cung tên bắn tan cũi sắt cứu chàng trai. Thì ra đó chính là con trai của vua Thủy Tề. Chàng được mời xuống thủy phủ chơi, tiếp đãi chu đáo rồi đưa trở về nhà. Khi chàng về, vua Thủy Tề biếu nhiều vàng bạc, nhưng chàng không nhận, chỉ xin một cây đàn.

Hồn của đại bàng và chằn tinh lang thang, một hôm gặp nhau bàn cách báo thù. Chúng vào kho nhà vua ăn trộm của cải mang tới giấu ở gốc đa. Thạch Sanh bị bắt vào ngục. Còn về c ông chúa sau khi cứu thoát, trở về cũng thì bỗng không nói, không cười. Nhà vua phải hoãn việc cưới xin lại. Lí Thông tìm mời thầy thuốc về chữa, nhưng cũng không được.

Một hôm, trong ngục tối, Thạch Sanh đem đàn ra đánh. Công chúa nghe thấy tiếng đàn thì bỗng nhiên nói được, cười được. Nàng xin vua cho gọi người đánh đàn vào. Vua lấy làm lạ cho Thạch Sanh đến gặp, chàng kể hết mọi oan khuất. Mọi người bây giờ mới biết được sự thật. Nhà vua cho bắt giam mẹ con Lí Thông, giao cho Thạch Sanh trừng trị. Chàng nể tình tha cho họ về quê, nhưng đi đến nửa đường thì mẹ con Lí Thông bị sét đánh chết, rồi hóa kiếp làm bọ hung.

Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Thấy lễ cưới tưng bừng, hoàng tử các nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn rất tức giận. Họ đem binh lính sang giao chiến. Thạch Sanh đem đàn ra gảy, tiếng đàn của chàng vừa cất lên đã khiến quân sĩ mười tám nước bủn rủn chân tay, rồi xin hàng. Thạch Sanh sai nấu cơm thiết đãi những kẻ thua trận. Cả mấy vạn tướng lĩnh, quân sĩ thấy chỉ có một niêu cơm bé xíu, tỏ vẻ coi thường, không muốn ăn. Thạch Sanh đố họ ăn hết được niêu cơm và hứa sẽ trọng thưởng. Niêu cơm ăn hết lại đầy, họ cúi đầu tạ an vợ chồng Thạch Sanh rồi kéo nhau về nước. Về sau, nhà vua không có con trai nên đã nhường truyền ngôi cho Thạch Sanh.

Kể lại truyện cổ tích - Sọ Dừa

Dàn ý kể lại Sọ Dừa

1. Mở bài

Giới thiệu hoàn cảnh gia đình và sự mang thai kì lạ của mẹ Sọ Dừa.

2. Thân bài

  • Hình thù kì dị của Sọ Dừa.
  • Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông.
  • Cô út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú.
  • Sọ Dừa giục mẹ sang hỏi con gái phú ông.
  • Sọ Dừa cưới và sống hạnh phúc cùng cô út.
  • Sọ Dừa đi thi.
  • Cô út bị hai cô chị hãm hại.

3. Kết bài

Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.

Văn bạn thuộc thể loại truyền thuyết Lớp 6
Sọ Dừa

Bài văn mẫu số 1

Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.

Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.

Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.

- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.

Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.

Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!

Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.

Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.

Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.

Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:

- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.

Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có ca gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.

Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.

Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.

Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lây dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.

Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to:

- Ò... ó... o... Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.

Bài văn mẫu số 2

Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ nhưng ngoài năm mươi tuổi mà vẫn chưa có con.

Một hôm, người vợ đi vào rừng hái củi, do trời nắng quá nhưng tìm mãi không thấy suối. Thấy cái sọ dừa bên cạnh gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì có mang. Chẳng bao lâu sau, người chồng mất. Còn bà sinh ra một đứa bé không tay không chân, tròn như một quả dừa. Bà buồn bã, toan vứt đi thì đứa con bảo:

- Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!

Nghĩ thương con, bà giữ lại nuôi. Đến khi lớn, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăm bò rất giỏi, con nào con nấy đều no căng bụng. Phú ông lấy làm hài lòng lắm.

Đến vụ mùa, tôi tớ ra đồng làm việc cả. Phú ông sai ba cô con gái đem cơm ra đồng cho Sọ Dừa. Hai cô chị tỏ ra coi thường, chỉ có mình cô Út là đối đãi với Sọ Dừa tử tế. Một hôm, cô Út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô lấy làm lạ, rón rén bước đến gần, rồi nấp sau bụi cây rình xem. Cô thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi thổi sáo. Có tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến.

Cuối mùa ở, Sọ Dừa về giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy cũng sửng sốt, nhưng nghĩ thương con, bà mang buồng cau đến nói chuyện với phú ông. Phú ông cười mỉa:

- Được, muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.

Bà mẹ về nói với con, cứ nghĩa con nghe vậy sẽ thôi việc lấy vợ. Nhưng Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên khi trong nhà có đầy đủ lễ vật mà phú ông yêu cầu. Đến lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.

Sọ Dừa và vợ sống rất hạnh phúc. Nhờ học hành chăm chỉ, chàng đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải luôn mang trong người phòng khi cần dùng đến.

Từ ngày em gái lấy được chồng trạng nguyên, hai cô chị ghen ghét. Nhân cơ hội, họ bày mưu, rủ em gái chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt chửng vào bụng. Nhưng nhờ có con dao mà Sọ Dừa đưa cho, cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo.

Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:

- Ò ó o… Phải thuyền quan trạng, rước cô tôi về.

Quan trạng cho thuyền vào xem. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Sọ Dừa đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, rồi mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Đến khi hết tiệc, quan trạng mới đưa vợ ra. Hai cô chị vô cùng xấu hổ, bỏ đi biệt xứ.

Bài văn mẫu số 3

Ngày xưa, có hai vợ chồng nông dân hiền lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi mà vẫn chưa có con. Một hôm nọ, trời nắng rất to, người vợ vào rừng lấy củi cho chủ, khát nước quá không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên cạnh gốc cây đựng đầy nước mưa, bà bưng lên uống, về nhà thì có mang. Chẳng bao lâu sau, bà sinh ra một đứa bé không chân không tay, tròn như một quả dừa nhưng lại biết nói. Bà toan vứt đi thì bỗng nhiên đứa bé cất tiếng nói:

- Mẹ ơi, con là con của mẹ đây! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp.

Thương con, bà lão giữ lại nuôi. S au khi lớn lên, Sọ Dừa xin mẹ cho đi chăn bò ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng. Nhà phú ông có ba cô con gái thay phiên nhau đưa cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị ác nghiệt kiêu kỳ, chỉ có cô út là đối đãi tử tế với Sọ Dừa. Một hôm, như thường lệ đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Từ xa, cô bỗng nghe có tiếng sáo véo von. Cô rón rén nấp sau bụi cây và nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Nhưng nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm đấy. Nhiều lần như thế, cô út biết Sọ Dừa không phải là người trần, dần đem lòng yêu mến, có thức ăn nào ngon đều giấu đem cho chàng.

Cuối mùa ở, Sọ Dừa đòi mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ thấy con nói vậy, vì thương con nên đành đến nhà phú ông hỏi cưới. Phù ông nghe bà lão nói thì cười lớn rồi nói:

- Muốn cười con gái ta thì phải chuẩn bị đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.

Bà lão trở về nhà nói với con. Sọ Dừa dặn mẹ cứ yên tâm. Đến ngày cưới, Sọ Dừa đã chuẩn bị đủ lễ vật cho mẹ mang sang nhà phú ông. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Ai nấy đều sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.

Cuộc sống của hai vợ chồng Sọ Dừa rất hạnh phúc. Sọ Dừa học hành chăm chỉ đỗ trạng nguyên và được vua cử đi sứ. Trong thời gian đó, hai cô chị sinh lòng đố kị, bày mưu hãm hại em gái. Hai cô chị rủ em chèo thuyền ra biển chơi, rồi đẩy em xuống nước. Cô út bị một con cá kình nuốt chửng vào bụng. Sẵn có con dao mà Sọ Dừa đưa cho cô rạch bụng nó, con cá chết xác dạt vào hòn đảo. Nhờ có những đồ vật mà Sọ Dừa đưa cho, cô út sống sót trên đảo hoang.

Một hôm, có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gay to:

- Ò ó o… phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Quan trạng thấy thế bèn cho thuyền vào xem, hai vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà nhưng không cho ai biết, quan trạng mở tiệc mừng với bà con ngày trở về. Hai cô chị thấy vậy mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra vẻ thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, hết tiệc mới dẫn vợ ra. Hai cô chị thấy em, xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ ra đi biệt xứ.

Bài văn mẫu số 4

Ngày xửa ngày xưa, ở làng nọ, có hai vợ chồng nghèo đi ở cho nhà phú ông. Họ chăm chỉ, tốt bụng nhưng ngoài năm mươi rồi vẫn chưa có con.

Một lần nọ, người vợ vào rừng lấy củi cho nhà chủ, trời nắng mà khát nước quá, không tìm thấy suối. Bà nhìn thấy cái sọ dừa bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, liền bưng lên uống. Về nhà thì có mang.

Ít lâu sau, người chống mất. Bà sinh ra một đứa bé không chân, không tay, cứ tròn như quả dừa. Bà toan vứt đi thì đứa bé bảo:

- Mẹ ơi, con là người. Mẹ đừng vứt đi mà tội nghiệp!
Thương con, bà để lại nuôi, đặt tên cho là Sọ Dừa.

Đến khi lớn lên, Sọ Dừa chẳng khác lúc nhỏ là bao, cứ lăn lông lốc trong nhà, chẳng làm được việc gì.

Một hôm, bà mẹ than phiền:

- Con người ta bảy, tám tuổi đã biết đi chăn bò. Còn mày thì chẳng làm được việc gì.

Nghe vậy, Sọ Dừa liền nói:

- Tưởng việc gì, chăn bò con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho con đi chăn bò.

Nghe con nói vậy, bà đến thưa chuyện. Phú ông tỏ ra ngần ngại lắm, chẳng biết Sọ Dừa có chăn nổi bò. Nhưng nghĩ đến việc nuôi cơm chẳng tốn là bao, nên phú ông liền đồng ý.

Sọ Dừa đến ở nhà phú ông. Cậu chăn bò rất giỏi. Con nào con nấy đều no căng béo tốt. Phú ông mừng lắm. Đến ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm việc. Ba cô con gái của phú ông phải thay phiên nhau mang cơm ra cho Sọ Dừa. Nhưng hai cô chị luôn tỏ ra cay nghiệt, chỉ có cô út là đối xử tử tế.

Một hôm, cô út mang cơm, đến chân đồi thì nghe thấy tiếng sáo. Cô thấy lạ, liền rón rén bước lại gần thì thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Khi nghe tiếng động, chàng trai biến mất, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Cứ nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người trần, đem lòng yêu mến.

Hết mùa ở, Sọ Dừa xin mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Bà mẹ ngạc nhiên lắm, nhưng thấy con năn nỉ nên đành bằng lòng. Bà chuẩn bị sính lễ, rồi đến nhà phú ông thưa chuyện. Nghe xong, phú ông tỏ ra khinh bỉ.

- Muốn lấy con gái ta, phải về sắm cho đầy đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.

Bà mẹ buồn bã trở về nói với Sọ Dừa, cứ nghĩ con sẽ từ bỏ hẳn việc lấy vợ. Không ngờ, chàng lại bảo mẹ sẽ chuẩn bị đầy đủ các thứ đó. Đúng ngày hẹn, bà mẹ ngạc nhiên khi thấy trong nhà có bao nhiêu là sính lễ, không thiếu thứ gì. Lại còn cả chục giai nhân chạy lên khiêng lễ vật sang nhà phú ông. Thế là phú ông phải nói với bà:

- Để ta hỏi xem có đứa nào muốn lấy thằng Sọ Dừa không đã!

Lão gọi ba cô con gái ra, hai cô chị bĩu môi coi thường, còn cô út thì đồng ý. Vậy là phú ông đành phải gả con gái cho Sọ Dừa.

Ngày cưới diễn ra, nhà Sọ Dừa bày cỗ linh đình. Lúc rước dâu, không ai thấy Sọ Dừa đâu cả. Bỗng một chàng trai khôi ngô tuấn tú cùng cô út của phú ông từ phòng cô dâu đi ra. Mọi người đều mừng rỡ, chỉ có hai cô chị là ghen tức lắm.

Vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau hạnh phúc. Ngày ngày, Sọ Dừa đều chăm chỉ đèn sách. Chẳng bao lâu, chàng đã đỗ trạng nguyên, được vua cử đi sứ. Trước khi chia tay, quan trạng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi dùng đến.

Hai cô chị vốn đem lòng ghen ghét, nay thấy quan trạng đi vắng, liền bày mưu hãm hại em gái. Họ sang nhà, rủ em chèo thuyền ra biển, rồi đẩy em xuống nước. Một con cá kình nuốt cô em vào bụng. Nhưng sẵn có con dao, cô em đâm chết cá, xác cá nổi lềnh bềnh trên mặt biển, rồi dạt vào một hòn đảo. Cô khoét bụng cá để ra ngoài, lấy hai hòn đá cọ mạnh vào nhau, bật lửa lên, rồi xẻo thịt cá nướng ăn, sống qua ngày. Hai quả trứng nở thành đôi gà, làm bạn với cô.

Một hôm có chiếc thuyền ngang qua. Con gà trống nhìn thấy, gáy to ba lần:

- Ó… ó… o… Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau mừng lắm, trở về nhà cho mở tiệc linh đình. Nhưng quan trạng lại giấu vợ đi.

Hai cô chị không biết gì, mừng thầm vì sắp được thay cô em làm bà trạng. Họ thay nhau kể chuyện em gái gặp nạn, khóc lóc thương tiếc. Đến khi tiệc xong, quan trạng cho gọi vợ ra. Hai người chị xấu hổ trốn đi biệt tích.

Kể lại truyện cổ tích - Em bé thông minh

Bài văn mẫu số 1

Ngày xưa, có ông vua nọ muốn tìm người tài giúp nước liền sai viên quan đi khắp nơi. Một hôm, viên quan đi đến một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền đến gấn.

Viên quan hỏi cha tôi: “Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?”

Người cha chưa biết trả lời thế nào, thì cậu bé chỉ khoảng bảy, tám tuổi nhưng nghe ông quan hỏi thề thì hỏi vặn lại quan rằng: “Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường”

Viên quan há hốc mồm sửng sốt không biết trả lời ra sao. Viên quan mừng thầm, nghĩ người ta đây rồi. Ông hỏi hai cha con họ tên tuổi, làng xã quê quán rồi phi ngựa đi thẳng.

Một hôm, nhà vua ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Cả làng lo lắng. Biết chuyện, em bé xin cha tôi thưa với dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh lo liệu việc của làng.

Làng ngờ vực bắt cha con họ viết giấy cam đoan mới đám ngả trâu đánh chén. Mấy hôm sau thì cả hai cha con lên đường vào kinh. Đến hoàng cung, cậu bé bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhè lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu cậu vào, phán hỏi: “Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?”.

Lúc đó, em bé vờ vĩnh đáp: “Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ”.

Nghe cậu bé nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua lại phán: “Mày muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho cha mày, chứ cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!”

Lúc đó, với vẻ mặt tươi tĩnh, cậu bé thưa với vua: “Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!”

Lúc đó, vua cười và bảo: “Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?”

Em bé thưa với vua rằng làng biết đó là lộc của vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi. Nghe nói vậy, nhà vua chỉ cười.

Một hôm, khi hai cha con đang ăn cơm ở công quán, bỗng có sứ giả nhà vua mang đến một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu liền nhờ cha tôi lấy một cây kim và tôi đưa cho sứ giả cái kim đó rồi nói: “Ông cầm cái kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim”. Sau hôm đó, nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu.

Hồi đó, có một nước láng giềng lăm le muốn chiếm nước ta. Để dò xem nước ta có nhân tài hay không, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.

Các đại thần nước ta đều vò đầu suy nghĩ. Mọi người dùng nhiều cách nhưng vô hiệu. Cuối cùng triều đình đành mời sứ thần ra ở công quán đế kéo dài thời gian tìm người giải câu đố.

Một hôm, cậu bé đang đùa nghịch ở sau nhà thì có chỉ dụ của vua. Nghe viên quan nói đầu đuôi câu chuyện, cậu hiểu ra và bày cho viên quan cách xâu chỉ qua mây câu hát sau:

“Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...”

Viên quan sung sướng trở về triều đình và thực hiện như lời tôi nói. Nhờ vậy, sợi chỉ xâu xuyên qua ruột con ốc xoắn một cách dễ dàng. Nghe nói, sứ giả nước láng giềng nghe được câu trả lời thì vô cùng thán phục. Về sau, nhà vua còn phong cho em bé thông minh làm trạng nguyên, đón vào cung vua để học hành.

Bài văn mẫu số 2

Ngày xưa, có hai cha con nọ cùng nhau bình yên ở một ngôi làng nọ. Một hôm, em bé đang phụ cha cày bừa cho vụ mùa mới thì thấy có một viên quan từ đâu tới. Khi đến gần, viên quan ấy mới cất tiếng hỏi:

- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?

Người cha chưa biết trả lời thế nào, cậu bé mới nhanh miệng hỏi vặn lại quan rằng:

- Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời được ngựa của ông đi một ngày được mấy bước tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan nghe hỏi lại như thế thì lộ ra vẻ sửng sốt. Sau đó ông ta hỏi tên họ làng xã quê quán của hai cha con rồi phi ngựa một mạch đi.

Một thời gian sau, nhà vua sai ban cho làng ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Nhận lệnh vua, cả làng đều tưng tửng và lo lắng không hiểu thế là thế nào. Cậu bé nghe rõ ngọn ngành đầu đuôi câu chuyện, cha cả ngày đều liên tục thở dài, thấy vậy cậu bèn bảo cha:

- Chả mấy khi được lộc vua ban, bố cứ thưa với làng làm thịt hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho bố con ta trẩy kinh lo việc đó.

Người cha sửng sốt nhưng tôi quả quyết:

- Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc.

Ngày hôm sau, người cha vội ra đình trình bày câu chuyện. Cả làng nghe nói ban đầu vô cùng ngờ vực, bắt cha con họ phải làm giấy cam đoan, mới dám ngả trâu đánh chén.

Sau đó mấy hôm, hai cha con cậu bé khăn gói tìm đường tiến kinh. Đến hoàng cung, cậu bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu tôi vào, phán hỏi nguyên nhân.

- Tâu đức vua con đá mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:

- Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!

Thấy mọi chuyện đều đúng như dự đoán, em bé tươi tỉnh đáp:

- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!

Vua cười bảo:

- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?

- Tâu đức vua, làng chúng con sau khi nhận được trâu và gạo nếp, biết là lộc của đức vua, cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi.

Vua và đình thần gật gù rồi sai người đưa hai cha con đi sắp xếp chỗ ăn ở. Qua hôm sau, bỗng có sứ nhà vua mang tới cho một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Nhanh chóng suy nghĩ, em bé liền bảo cha lấy cho mình một cái kim may rồi đưa cho sứ giả, bảo:

- Phiền ông cầm lấy cái này về tâu đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Lập tức, vua cho gọi cả hai cha con cậu bé vào, ban thưởng rất hậu.

Bấy giờ, có nước láng giềng lúc nào cũng lăm le xâm lược đất nước ta. Họ cử viên viên sứ giả sang thăm dò xem nước ta có nhân tài nào không. Viên sứ giả đến mang theo một con ốc vặn dài, rỗng hai đầu và một sợi chỉ mảnh, đố các quan trong triều làm thế nào để xâu được sợi chỉ qua ruột ốc. Các quan làm đủ mọi cách: người thì dùng miệng hút, người bôi sáp vào sợi chỉ cho cứng để dễ xâu. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Vua bèn mời sứ giả ở lại cùng nghỉ ngơi vài ngày, kéo dài thời gian cho người đi hỏi ý kiến cậu bé. Nghe chuyện, cậu bé chỉ liền hát một câu:

“Tang tính tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng, buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng,
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang.
Tang tình tang! Tính tình tang!”

Viên quan hiểu ra, mừng rỡ quay về bẩm báo lên nhà vua. Vua cho người làm theo lời cậu bé. Quả nhiên con kiến đã mang sợi chỉ xuyên qua vỏ ốc trước cặp mắt thán phục của sứ giả láng giềng. Sau đó, nhà vua liền gọi hai cha con cậu bé vào cung, phong làm trạng nguyên, còn sai người xây dinh thự ngay trong hoàng cung để tiện hỏi thăm.

Bài văn mẫu số 3

Vị vua nọ muốn tìm người tài giỏi để giúp nước. Ông sai viên quan nọ đi khắp nơi để tìm kiếm. Viên quan đã đến nhiều nơi, đưa ra nhiều câu hỏi khó thử tài nhưng không ai giải được.

Một ngày nọ, khi dừng chân nghỉ ngơi bên cánh đồng, thấy hai cha con đang cày ruộng, viên quan bèn hỏi về số đường cày trong ngày của con trâu. Thấy cha không trả lời được, người con trai bèn nhanh trí hỏi ngược lại vị quan rằng một ngày ngựa của ông đi được bao nhiêu bước. Viên quan nghe xong, biết gặp được người tài, liền quay về bẩm báo với nhà vua.

Để thử tài cậu bé thông minh, nhà vua đã ban cho ngôi làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực và yêu cầu một năm sau phải để cho ba con trâu đực đẻ thành chín con. Nhận được lệnh vua, ai nấy trong làng đều lo lắng, sợ hãi nhưng cậu bé lại nói mọi người lấy gạo, giết trâu ăn, còn một phần để cậu bé và cha làm lộ phí vào cung gặp vua. Đến cung, cậu bảo cha đứng ở ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng khóc um lên. Vua sai lính điệu tôi vào, phán hỏi nguyên nhân. Cậu bé nói:

- Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Nghe nói, vua và các triều thần đều bật cười. Vua phán:

- Muốn có em thì phải kiếm vợ khác cho bố mày, chứ bố mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!

Thấy mọi chuyện đều đúng như dự đoán, em bé tươi tỉnh đáp:

- Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được kia chứ!

Vua cười bảo:

- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?

Cậu bé liền nói:

- Dân làng con biết đấy là lộc vua ban nên đã ăn mừng với nhau rồi ạ.

Thấy được sự nhanh trí của cậu bé, nhà vua đưa thêm một thử thách khi ra lệnh cho cậu bé xẻ thịt một con chim sẻ để làm thành ba mâm cỗ. Cậu bé đã không hề lo lắng mà yêu cầu nhà vua rèn cho mình cây kim thành con dao để mình xẻ thịt. Qua thử thách lần này nhà vua đã hoàn toàn tin tưởng vào tài trí của cậu bé.

Bấy giờ nước ta có giặc ngoại xâm nhăm nhe xâm lược, để thăm dò nước ta, chúng đã cho người sang thăm dò. Sứ giả của quân giặc đã đưa ra một câu hỏi hóc búa: làm sao để xâu được chỉ qua chiếc vỏ ốc. Cậu bé thông minh đã nhanh trí buộc sợi chỉ vào người con kiến càng, thoa mỡ bên kia vỏ ốc để kiến bò sang. Hoàn thành thử thách, cậu bé không chỉ khiến sứ giả quân địch tâm phục khẩu phục mà còn được nhà vua phong làm trạng nguyên.

Bài văn mẫu số 4

Ngày xửa ngày xưa, có một ông vua muốn tìm nhân tài cho đất nước. Vua đã sai một viên quan đi khắp nơi dò hỏi. Đến đâu, viên quan cũng đặt ra những câu hỏi oái oăm, nhưng mãi chưa tìm được ai.

Một hôm, viên quan đi đến một làng nọ thấy hai cha con đang cày bừa, liền đến gần. Viên quan hỏi người cha:

- Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?

Người cha còn chưa biết trả lời thế nào, thì đứa con đã nhanh nhảu đáp:

- Vậy xin ông hãy trả lời một ngày, ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

Viên quan nghe vậy, liền trở về tâu vua. Nhà vua nghe chuyện, mừng rỡ lắm nhưng vẫn muốn thử tài cậu bé. Vua sai ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh làm sao phải nuôi cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Dân làng đều tỏ ra lo lắng. Chỉ có cậu bé vẫn bình tĩnh. Cậu bảo cha hãy nói với dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp lên để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo nếp bán đi lấy tiền làm lộ phí cho hai cha con trẩy kinh lo liệu việc của làng.

Người cha liền nói với dân làng. Họ bắt hai cha con viết giấy cam đoan, rồi mới ngả trâu đánh chén.

Hai cha con cậu bé sửa soạn lên đường. Đến hoàng cung, người cha đứng đợi ở ngoài, còn cậu bé thì nhân lúc mấy người lính canh sơ ý, lẻn vào sân rồng khóc lóc. Nhà vua nghe thấy liền sai lính điệu cậu vào, phán hỏi:

- Cậu bé kia, có chuyện gì mà lại khóc lóc ở đây?

Lúc đó, cậu bé mới trả lời:

- Tâu đức vua, mẹ con chết sớm mà cha con không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

Nghe cậu bé nói thế, vua và các triều thần đều bật cười. Vua nói:

- Muốn có em thì phải bảo cha lấy vợ khác, chứ đàn ông làm sao mà để con được?

Nghe vậy, cậu bé liền thưa với vua:

- Thế sao vua lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!

Vua cười rồi bảo:

- Ta thử đấy thôi mà! Thế làng chúng mày không biết đem trâu ấy ra thịt mà ăn với nhau à?

Em bé thưa với vua:

- Dạ dân làng con biết đó là lộc vua ban nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau rồi ạ.

Hôm sau, hai cha con đang ngồi trong quán. Bỗng có sứ giả nhà vua mang đến một con chim sẻ, với lệnh cho em bé phải dọn thành ba cỗ thức ăn. Cậu bé đưa cho sứ giả một cái kim rồi nói:

- Ông cầm cái kim này về tâu với vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim.

Lần này, vua đã chịu là cậu bé có tài. Nhà vua cho gọi cha con vào và ban thưởng cho rất hậu.

Bấy giờ, nước láng giềng lăm le muốn xâm chiếm. Để dò xem nước ta có nhân tài hay không, họ sai sứ thần nước họ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc.

Các quan trong triều thử mọi cách không được. Nhà vua bỗng nghĩ đến cậu bé, liền sai viên quan đến hỏi.

Nghe xong, cậu bé liền cất tiếng hát:

Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...

Viên quan trở về hoàng cung, bẩm báo lại với nhà vua. Quả nhiên, con kiến càng đã xâu được sợi chỉ xuyên qua đường ruột ốc hộ cho nhà vua trước con mắt thán phục của sứ giả nước láng giềng.

Về sau, nhà vua còn phong cho em bé thông minh làm trạng nguyên và xây dinh thự ở cạnh hoàng cung để em bé vào ở.

........Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết.......