Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

"MUFC" và "MU" đổi hướng tới đây. Đối với các định nghĩa khác, xem MUFC (định hướng). Đối với các định nghĩa khác, xem Mu.

Show
Manchester United
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Tên đầy đủCâu lạc bộ bóng đá Manchester United
(tiếng Anh: Manchester United Football Club)
Biệt danhQuỷ đỏ (tiếng Anh: The Red Devils)[1]
Tên ngắn gọnMan United/Utd
United[2][3]
Thành lập1878; 144 năm trước với tên Newton Heath LYR F.C.
1902; 120 năm trước với tên Manchester United F.C.
Sân vận độngOld Trafford
Sức chứa74.310
Chủ sở hữuManchester United plc (NYSE: MANU)
Đồng chủ tịchJoel và Avram Glazer
Huấn luyện viênErik ten Hag
Giải đấuGiải bóng đá Ngoại hạng Anh
2021–22Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, thứ 6 trên 20
Trang webTrang web của câu lạc bộ

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Màu áo sân nhà

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Màu áo sân khách

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Màu áo thứ ba

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Mùa giải hiện nay

Câu lạc bộ bóng đá Manchester United (tiếng Anh: Manchester United Football Club, hay ngắn gọn là MU hay Man Utd) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Old Trafford, Đại Manchester, Anh. Câu lạc bộ hiện đang chơi tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh, giải đấu hàng đầu trong hệ thống bóng đá Anh. Với biệt danh Quỷ Đỏ, câu lạc bộ được thành lập dưới tên Newton Heath LYR Football Club vào năm 1878, đổi tên thành Manchester United vào năm 1902 và chuyển đến sân vận động hiện tại, Old Trafford, vào năm 1910.

Manchester United là một trong những câu lạc bộ thành công nhất tại Anh, giữ kỷ lục 20 lần vô địch bóng đá Anh, đoạt 12 Cúp FA, 5 Cúp Liên đoàn và giữ kỷ lục 21 lần đoạt Siêu cúp Anh. Câu lạc bộ đã giành được 3 Cúp C1 châu Âu/UEFA Champions League, 1 UEFA Cup Winners' Cup, 1 UEFA Europa league, 1 Siêu cúp châu Âu, 1 Cúp Liên lục địa và 1 FIFA Club World Cup. Trong mùa giải 1998–99, Manchester United trở thành đội bóng Anh đầu tiên và duy nhất giành cú ăn ba trong một mùa giải, gồm các chức vô địch Ngoại hạng Anh, cúp FA và UEFA Champions League.[4]

Thảm họa hàng không München năm 1958 đã cướp đi sinh mạng của tám cầu thủ. Năm 1968, dưới sự dẫn dắt của Matt Busby, Manchester United là câu lạc bộ bóng đá Anh đầu tiên giành Cúp C1 châu Âu. Huấn luyện viên Alex Ferguson đã giành 38 danh hiệu khi dẫn dắt câu lạc bộ kể từ năm 1986, trong đó có 13 chức vô địch Premier League, 5 Cúp FA và 2 UEFA Champions League,[5][6][7] trước khi ông tuyên bố nghỉ hưu vào năm 2013. Huấn luyện viên chính gần đây nhất của câu lạc bộ là José Mourinho, người được bổ nhiệm cuối tháng 5 năm 2016. Với phong độ không được tốt của đội ngày 18 tháng 12 năm 2018, CLB đã chấm dứt hợp đồng sớm với ông để đưa Ole Gunnar Solskjaer, một huyền thoại của CLB về làm HLV tạm quyền và sau những trận đấu tỏa sáng cùng sao M.U. ông đã được kí hợp đồng chính thức.

Manchester United là câu lạc bộ bóng đá đứng thứ hai về doanh thu trên thế giới trong mùa giải 2013-14, với doanh thu hàng năm 518 triệu euro[8][9] và đứng thứ ba về giá trị đội bóng trên thế giới trong năm 2015 với trị giá 1,98 tỷ USD.[10] Tính đến tháng 6 năm 2015, câu lạc bộ có giá trị thương hiệu bóng đá lớn nhất thế giới, ước tính trị giá 1,2 tỷ USD.[11][12] Đây là một trong những đội bóng có số lượng người hâm mộ lớn nhất trên thế giới.[13][14] Câu lạc bộ được vận hành dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn cổ phần từ năm 1991 và sau khi được đưa lên sàn Chứng khoán Luân Đôn vào năm 1991, câu lạc bộ đã được Malcolm Glazer mua lại vào tháng 5 năm 2005 với giá gần 800 triệu bảng. Câu lạc bộ có một số kình địch, trong đó nổi bật là Liverpool, Manchester City, Arsenal và Leeds United.

Lịch sử

Những năm đầu (1878–1945)

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Biểu đồ cho thấy quá trình thi đấu của Manchester United trong hệ thống các giải bóng đá ở Anh từ mùa giải 1892–93 với tên gọi Newton Heath cho đến nay

Manchester United được thành lập năm 1878 với tên gọi Newton Heath LYR Football Club bởi bộ phận Toa hành khách và Toa trần của công ty đường sắt Lancashire and Yorkshire Railway (LYR).[15] Ban đầu đội thi đấu với các đội bóng của những bộ phận khác của công ty hay với những công ty đường sắt khác. Vào ngày 20 tháng 11 năm 1880, họ có trận đấu đầu tiên được ghi chép lại; họ mặc áo mang màu sắc của công ty – xanh lục vàng – và bị đội dự bị của Bolton Wanderers đánh bại 6–0.[16] Tới năm 1888, câu lạc bộ trở thành thành viên sáng lập của The Combination, một giải bóng đá cấp vùng. Tuy nhiên giải này bị giải thể ngay sau mùa giải đầu tiên, do đó Newton Heath gia nhập giải bóng đá mới Football Alliance. Giải này cũng chỉ tồn tại được ba mùa giải trước khi bị sáp nhập vào Football League. Đội bắt đầu mùa giải 1892–93 tại Giải hạng nhất. Khi đó đội bắt đầu tách khỏi công ty đường sắt và bỏ 3 chữ "LYR" ra khỏi tên.[15] Sau hai mùa giải, đội phải xuống chơi tại Giải hạng nhì.[15]

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Đội hình Manchester United vào mùa giải 1905-06. Họ đã giành ngôi á quân Giải hạng nhì

Vào tháng 1 năm 1902, với số nợ 2.670 bảng – tương đương với 270.000 bảng năm 2022[nb 1] – đội đứng trước nguy cơ bị giải thể.[17] Đội trưởng Harry Stafford sau đó gặp được bốn thương nhân địa phương, trong đó có John Henry Davies (người trở thành chủ tịch câu lạc bộ), mỗi người sẵn lòng bỏ ra 500 bảng để đổi lấy quyền điều hành câu lạc bộ và cũng là những người đổi tên câu lạc bộ.[18] Ngày 24 tháng 4 năm 1902, Manchester United chính thức ra đời.[19][nb 2] Dưới sự dẫn dắt của Ernest Mangnall, người được bổ nhiệm vào năm 1903, đội giành vị trí á quân Giải hạng nhì năm 1906 và giành quyền lên chơi ở Giải hạng nhất. Vào năm 1908 đội giành chức vô địch quốc gia đầu tiên. Mùa giải sau đó United khởi đầu với chức vô địch Charity Shield[20] và kết thúc với chức vô địch Cúp FA. Manchester United vô địch Hạng nhất lần thứ hai vào năm 1911, nhưng cuối mùa giải sau đó, Mangnall chia tay đội để chuyển đến Manchester City.[21]

Vào năm 1922, ba năm sau khi bóng đá trở lại sau Thế chiến thứ nhất, câu lạc bộ phải xuống chơi ở hạng hai và lên hạng trở lại vào năm 1925. Sau khi một lần nữa xuống hạng năm 1931, Manchester United hết lên rồi lại xuống hạng, trong đó vị trí thấp nhất mà đội sở hữu là vị trí thứ 20 tại giải hạng hai vào năm 1934. Sau khi John Henry Davies qua đời vào tháng 10 năm 1927, tình hình tài chính của câu lạc bộ xuống dốc khiến Manchester United chút nữa phá sản. May thay, vào tháng 12 năm 1931, James W. Gibson đầu tư 2.000 bảng và lên nắm quyền tại câu lạc bộ.[22] Vào mùa giải 1938–39, mùa giải cuối cùng trước khi Thế chiến thứ hai nổ ra, đội kết thức ở vị trí thứ 14 tại giải hạng nhất.[22]

Kỷ nguyên Matt Busby (1945–1969)

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Những đứa trẻ của Busby tại Đan Mạch vào năm 1955. Huấn luyện viên Matt Busby đứng ở hàng phía trước bên phải.

Vào tháng 10 năm 1945, vị trí huấn luyện viên trưởng được giao cho Matt Busby, người yêu cầu được kiểm soát việc chọn lựa đội hình, chuyển nhượng cầu thủ và tập luyện của đội.[23] Busby ba lần đưa câu lạc bộ về nhì ở giải vô địch quốc gia các năm 1947, 1948 và 1949, cùng với chức vô địch Cúp FA 1948. Vào năm 1952, câu lạc bộ giành chức vô địch giải hạng nhất, danh hiệu vô địch quốc gia đầu tiên sau 41 năm.[24] Với độ tuổi trung bình là 22, đội hình vô địch quốc gia hai năm liên tiếp 1956 và 1957 được báo chí gọi với biệt danh "Những đứa trẻ của Busby" (The Busby Babes), một minh chứng cho niềm tin của Busby vào các cầu thủ trẻ của ông.[25] Vào năm 1957, Manchester United trở thành đội bóng Anh đầu tiên dự Cúp C1 châu Âu, bất chấp phản đối từ phía The Football League, những người đã không cho Chelsea cơ hội bước ra châu Âu ở mùa giải trước đó.[26] Mặc dù phải dừng bước ở bán kết trước Real Madrid, đội vẫn tạo nên kỳ tích với chiến thắng 10–0 trước Anderlecht của Bỉ. Đây vẫn là thắng lợi đậm nhất trong lịch sử câu lạc bộ.[27]

Một tấm bảng ở Old Trafford để tưởng nhớ những cầu thủ đã mất trong Thảm họa hàng không München, bao gồm tên các cầu thủ gặp tai nạn

Vào mùa giải sau, khi đang trên đường trở về nhà sau chiến thắng trước Sao Đỏ Beograd ở tứ kết Cúp C1, chiếc máy bay chở cầu thủ và ban huấn luyện Manchester United cùng các nhà báo gặp nạn trong lúc cố gắng cất cánh sau lần tiếp nhiên liệu tại München, Đức. Thảm họa hàng không München ngày 6 tháng 2 năm 1958 cướp đi sinh mạng của 23 người, trong đó có tám cầu thủ – Geoff Bent, Roger Byrne, Eddie Colman, Duncan Edwards, Mark Jones, David Pegg, Tommy Taylor và Billy Whelan – và làm nhiều người khác bị thương.[28][29]

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Bức tượng United Trinity bao gồm George Best (trái), Denis Law (giữa) và Bobby Charlton (phải) bên ngoài Old Trafford

Huấn luyện đội dự bị Jimmy Murphy đảm nhiệm cương vị huấn luyện viên trong thời gian Busby hồi phục sức khỏe và đội hình thay thế lọt vào chung kết Cúp FA, nơi họ thất bại trước Bolton Wanderers. Để bù đắp thiệt thòi của đội bóng, Liên đoàn bóng đá châu Âu mời đội tham dự Cúp C1 châu Âu 1958–59 cùng đội vô địch Anh năm đó là Wolverhampton Wanderers. Mặc dù được sự chấp thuận từ phía FA, Football League không cho đội tham dự giải.[30][31] Busby tái thiết lại câu lạc bộ trong thập niên 1960 bằng việc ký hợp đồng với Denis Law và Pat Crerand, những người kết hợp với thế hệ cầu thủ trẻ kế cận của đội – trong đó có George Best – giành Cúp FA 1963. Mùa giải tiếp theo họ có được vị trí thứ ba ở giải quốc gia, và sau đó giành chức vô địch vào các năm 1965 và 1967. Vào năm 1968, Manchester United trở thành câu lạc bộ Anh đầu tiên (và câu lạc bộ Vương quốc Anh thứ hai) giành được chức vô địch Cúp C1 châu Âu khi đánh bại Benfica 4–1 trong trận chung kết[32] với đội hình gồm ba cầu thủ châu Âu xuất sắc nhất năm: Bobby Charlton, Denis Law và George Best.[33] Matt Busby rời câu lạc bộ vào năm 1969 và được thay thế bằng huấn luyện viên đội dự bị và cựu cầu thủ Manchester United Wilf McGuinness.[34]

1969–1986

Bryan Robson là đội trưởng của Manchester United trong 12 năm, lâu hơn mọi cầu thủ nào khác.[35]

Sau khi kết thúc mùa giải 1969–70 ở vị trí thứ tám và khởi đầu tệ hại ở mùa bóng 1970–71, Busby được câu lạc bộ thuyết phục quay trở lại ghế chỉ đạo, trong khi McGuinness trở lại vị trí huấn luyện đội dự bị. Vào tháng 6 năm 1971, Frank O'Farrell được chỉ định làm huấn luyện viên mới, nhưng chỉ trụ lại được 18 tháng trước khi bị thay thế bởi Tommy Docherty vào tháng 12 năm 1972.[36] Docherty cứu Manchester United khỏi xuống hạng mùa giải năm đó nhưng cuối cùng United vẫn phải xuống hạng vào năm 1974; thời điểm đó bộ ba Best, Law, và Charlton đều đã chia tay câu lạc bộ.[32] Đội thăng hạng ngay ở mùa giải sau đó và lọt vào trận chung kết Cúp FA 1976, nhưng bị Southampton hạ gục tại đây. Họ một lần nữa vào chung kết năm 1977 và đánh bại Liverpool với tỉ số 2–1. Không lâu sau Docherty bị buộc thôi chức vì quan hệ tình ái của ông với người vợ của nhân viên vật lý trị liệu câu lạc bộ bị phanh phui.[34][37]

Dave Sexton thay thế Docherty làm huấn luyện viên vào mùa hè năm 1977. Mặc dù mang về nhiều bản hợp đồng lớn như Joe Jordan, Gordon McQueen, Gary Bailey và Ray Wilkins, đội vẫn không thể đạt được danh hiệu nào; họ về nhì ở mùa giải 1979–80 và để thua Arsenal trong trận chung kết Cúp FA 1979. Sexton đã bị sa thải vào năm 1981 dù Manchester United giành chiến thắng trong bảy trận cuối cùng dưới sự chỉ đạo của ông.[38] Ông được thay thế bởi Ron Atkinson, người ngay lập tức đã phá vỡ kỉ lục chuyển nhượng ở Anh khi mua về Bryan Robson từ West Bromwich Albion. Dưới quyền Atkinson, United đoạt hai chức vô địch Cúp FA vào các năm 1983 và 1985. Vào mùa giải 1985-86, sau 13 chiến thắng và 2 trận hòa trong 15 trận đầu tiên, đội trở thành ứng cử viên số một cho ngôi vô địch, nhưng cuối cùng chỉ có được vị trí thứ bốn khi mùa giải kết thúc. Mùa giải sau việc United đứng trước nguy cơ bị xuống hạng lần nữa kiến Atkinson bị sa thải ngày 5 tháng 11 năm 1986.[39]

Triều đại Ferguson (1986–2013)

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Alex Ferguson dẫn dắt đội bóng từ 1986 tới 2013.

Alex Ferguson cùng trợ lý Archie Knox chuyển tới từ Aberdeen vào ngày mà Atkinson bị sa thải[40] và đưa đội kết thúc mùa giải ở vị trí 11.[41] Mặc dù về nhì ở mùa giải 1987–88, đội trở lại vị trí thứ 11 vào mùa giải sau.[42] Giữa lúc những đồn đoán về nguy cơ bị sa thải lên cao, chiến thắng trước Crystal Palace ở trận đá lại Chung kết Cúp FA 1990 (trước đó hòa 3–3) đã cứu vãn sự nghiệp của Ferguson.[43][44] Mùa giải sau đó, Manchester United giành chức vô địch Cúp C2 châu Âu đầu tiên cùng chiến thắng trong trận tranh Siêu cúp châu Âu 1991 trước nhà vô địch Cúp C1 Sao Đỏ Beograd tại Old Trafford. Đội tiếp tục vào chung kết Cúp Liên đoàn 1992 và đánh bại Nottingham Forest 1–0 tại Wembley.[39] Vào năm 1993, câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia đầu tiên kể từ năm 1967, và một năm sau bảo vệ thành công chức vô địch. Họ hoàn tất cú đúp danh hiệu đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ với chức vô địch Cúp FA 1994.[39]

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ryan Giggs là cầu thủ giàu thành tích nhất lịch sử bóng đá Anh.[45]

Vào mùa giải 1998–99, Manchester United trở thành đội đầu tiên vô địch Giải Ngoại hạng Anh, Cúp FA và UEFA Champions League – "Cú ăn ba" – trong cùng một mùa giải.[46] Cuộc lội ngược dòng trong thời gian bù giờ trận Chung kết UEFA Champions League 1999 bằng 2 bàn thắng của Teddy Sheringham và Ole Gunnar Solskjær mang về thắng lợi kịch tính trước Bayern München. Chiến thắng này được coi là một trong những cuộc lội ngược dòng vĩ đại nhất mọi thời đại.[47] Đội cũng giành chức vô địch Cúp Liên lục địa sau khi vượt qua Palmeiras với tỉ số 1–0 ở Tokyo.[48] Ferguson sau đó được phong tước hiệp sĩ nhờ những cống hiến cho bóng đá.[49]

Manchester United một lần nữa lên ngôi vô địch vào mùa giải 1999–2000 và 2000–01. Đội về thứ ba ở mùa 2001–02, trước khi đòi lại chức vô địch vào mùa 2002–03.[50] Họ giành chức vô địch Cúp FA 2003–04 khi hạ Millwall 3–0 trong trận chung kết tại Sân vận động Thiên niên kỷ ở Cardiff.[51] Vào mùa giải 2005–06, Manchester United lần đầu tiên sau một thập kỷ không vượt thể vượt qua vòng bảng UEFA Champions League,[52] nhưng vẫn về đích ở vị trí thứ nhì ở Premier League và giành chức vô địch Cúp Liên đoàn 2006 trước Wigan Athletic. Họ trở lại ngôi vương tại Giải Ngoại hạng vào các mùa giải 2006–07 và 2007–08, đồng thời hoàn tất cú đúp với chiến thắng 6–5 trong loạt luân lưu trước Chelsea trong trận Chung kết UEFA Champions League 2008 trên Sân vận động Luzhniki ở Moskva. Đây cũng là trận đấu thứ 759 của Ryan Giggs cho câu lạc bộ, vượt qua kỷ lục của Bobby Charlton.[53] Vào tháng 12 năm 2008, câu lạc bộ giành chức vô địch FIFA Club World Cup 2008, nối tiếp bằng danh hiệu vô địch Cúp Liên đoàn 2009, cùng chức vô địch Ngoại hạng thứ ba liên tiếp.[54][55] Mùa hè năm đó Cristiano Ronaldo được bán sang Real Madrid với giá 80 triệu bảng Anh.[56] Vào năm 2010, Manchester United đánh bại Aston Villa 2–1 để bảo vệ thành công chức vô địch Cúp Liên đoàn, đồng thời cũng là lần đầu tiên họ bảo vệ thành công chức vô địch một giải đấu cúp.[57]

Sau khi kết thúc ở vị trí á quân trong mùa giải 2009–10, United đã giành chức vô địch thứ 19 kỷ lục trong mùa giải 2010–11, đảm bảo ngôi vô địch với trận hòa 1–1 trên sân khách trước Blackburn Rovers vào ngày 14 tháng 5 năm 2011.[58] Con số này đã được nâng lên thành 20 chức vô địch trong mùa giải 2012–13, đảm bảo ngôi vô địch với chiến thắng 3–0 trên sân nhà trước Aston Villa vào ngày 22 tháng 4 năm 2013.[59]

2013–nay

Vào ngày 8 tháng 5 năm 2013, Ferguson thông báo rằng ông sẽ nghỉ hưu với tư cách là huấn luyện viên trưởng vào cuối mùa giải, nhưng vẫn sẽ ở lại United với tư cách giám đốc và đại sứ câu lạc bộ.[60][61] Ông nghỉ hưu với tư cách là vị huấn luyện viên trưởng thành công nhất trong lịch sử bóng đá.[62][63] Câu lạc bộ đã thông báo vào ngày hôm sau rằng huấn luyện viên của Everton, David Moyes sẽ thay thế Ferguson làm huấn luyện viên từ ngày 1 tháng 7, với bản hợp đồng kéo dài sáu năm.[64][65][66] Ryan Giggs tiếp quản vị trí huấn luyện viên kiêm cầu thủ tạm thời 10 tháng sau đó, vào ngày 22 tháng 4 năm 2014, khi Moyes bị sa thải sau một mùa giải kém cỏi, câu lạc bộ đã không thể bảo vệ được danh hiệu Premier League và không đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League lần đầu tiên kể từ mùa giải 1995–96.[67] Họ cũng không thể giành quyền tham dự Europa League, đồng nghĩa với việc đây là lần đầu tiên Manchester United không đủ điều kiện tham dự bất kỳ một giải đấu châu Âu nào kể từ năm 1990.[68] Vào ngày 19 tháng 5 năm 2014, đã có thông tin xác nhận rằng Louis van Gaal sẽ thay thế Moyes làm huấn luyện viên trưởng Manchester United theo bản hợp đồng ba năm, với Giggs là trợ lý của ông.[69] Malcolm Glazer, người đứng đầu gia đình sở hữu câu lạc bộ, đã qua đời vào ngày 28 tháng 5 năm 2014.[70]

Wayne Rooney nhận giải thưởng cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất lịch sử câu lạc bộ từ người giữ kỷ lục trước đó là Sir Bobby Charlton vào tháng 1 năm 2017.

Dưới thời Van Gaal, United đã giành được danh hiệu FA Cup lần thứ 12, nhưng sự sa sút đáng thất vọng vào giai đoạn giữa mùa giải thứ hai của ông đã dẫn đến những tin đồn về việc ban lãnh đạo sẽ tìm ra người thay thế tiềm năng.[71] Van Gaal cuối cùng cũng bị sa thải chỉ hai ngày sau trận thắng cuối cùng ở Premier League, với việc United đứng thứ 5 tại giải đấu.[72] Cựu huấn luyện viên của FC Porto, Chelsea, Inter Milan và Real Madrid, José Mourinho đã được bổ nhiệm thay thế ông vào ngày 27 tháng 5 năm 2016.[73] Mourinho ký bản hợp đồng ba năm và trong mùa giải đầu tiên của ông đã giành được danh hiệu FA Community Shield, EFL Cup và UEFA Europa League. Wayne Rooney đã ghi bàn thắng thứ 250 cho United, bàn gỡ hòa ở phút bù giờ trong trận đấu với Stoke City vào tháng 1, vượt qua Sir Bobby Charlton để trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất mọi thời đại của câu lạc bộ.[74] Mùa giải tiếp theo, United đứng thứ hai trên bảng xếp hạng – vị trí cao nhất của họ kể từ năm 2013 – nhưng vẫn kém đối thủ cùng thành phố Manchester City 19 điểm. Mourinho cũng dẫn dắt câu lạc bộ đến trận chung kết FA Cup lần thứ 19, nhưng họ để thua Chelsea 1–0. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2018, khi United đang đứng ở vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Premier League, kém 19 điểm so với đội dẫn đầu Liverpool và 11 điểm so với nhóm dự Champions League, Mourinho đã bị sa thải sau 144 trận. Ngày hôm sau, cựu tiền đạo của United, Ole Gunnar Solskjær được bổ nhiệm làm huấn luyện viên tạm thời cho đến cuối mùa giải.[75] Vào ngày 28 tháng 3 năm 2019, sau chuỗi 14 trận thắng trong 19 trận đầu tiên cầm quân, Solskjær được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng theo bản hợp đồng ba năm.[76]

Vào ngày 18 tháng 4 năm 2021, Manchester United thông báo rằng họ sẽ cùng 11 câu lạc bộ châu Âu khác thành lập European Super League, một giải đấu bao gồm 20 đội bóng được đề xuất nhằm cạnh tranh trực tiếp với UEFA Champions League.[77] Thông báo này đã nhận phải sự phản ứng dữ dội chưa từng có từ những cổ động viên, các câu lạc bộ, đối tác truyền thông, nhà tài trợ, cầu thủ và Chính phủ Vương quốc Anh, buộc United phải rút lui chỉ hai ngày sau đó.[78][79][80][81][82] Sự thất bại của dự án đã dẫn đến việc phó chủ tịch điều hành câu lạc bộ Ed Woodward từ chức, trong khi các cuộc biểu tình phản đối Woodward và gia đình Glazer dẫn đến việc nhiều cổ động viên lao vào sân trước trận đấu với Liverpool vào ngày 2 tháng 5 năm 2021, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Premier League chứng kiến một trận đấu bị hoãn lại do sự phản đối của các cổ động viên.[83][84]

Trên sân cỏ, United đã có trận thắng đậm nhất trong lịch sử Premier League với chiến thắng 9–0 trước Southampton vào ngày 2 tháng 2 năm 2021,[85] nhưng họ đã kết thúc mùa giải với thất bại trên chấm phạt đền trong trận chung kết UEFA Europa League trước Villarreal, trải qua bốn mùa giải liên tiếp không giành được danh hiệu nào.[86][87] Vào ngày 20 tháng 11 năm 2021, Manchester United quyết định sa thải Solskjær.[88] Cựu tiền vệ Michael Carrick đảm nhận vai trò chỉ đạo đội bóng trong ba trận đấu tiếp theo, trước khi bổ nhiệm Ralf Rangnick làm huấn luyện viên tạm quyền cho đến cuối mùa giải.[89]

Vào ngày 21 tháng 4 năm 2022, Erik ten Hag được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng từ cuối mùa giải 2021–22, ký hợp đồng có thời hạn cho đến tháng 6 năm 2025 với tùy chọn gia hạn thêm một năm.[90] Vào ngày 23 tháng 5 năm 2022, Mitchell van der Gaag và Steve McClaren được xác nhận là trợ lý huấn luyện viên của Ten Hag.[91]

Huy hiệu và màu áo

Huy hiệu của câu lạc bộ được thiết kế dựa trên huy hiệu của Hội đồng Thành phố Manchester, mặc dù huy hiệu ngày nay chỉ giữ lại hình ảnh chiếc thuyền buồm căng gió.[92] Hình ảnh con quỷ bắt nguồn từ biệt danh "The Red Devils"; hình ảnh này xuất hiện trong các tờ chương trình của câu lạc bộ và trên khăn quàng cổ vào thập niên 1960, và được đưa vào huy hiệu câu lạc bộ năm 1970, mặc dù huy hiệu không được in lên ngực áo đấu cầu thủ cho đến năm 1971 (trừ khi đội bóng chơi trong trận chung kết khi đấu cúp).[92]

Một bức ảnh của đội Newton Heath năm 1892 được cho là chụp các cầu thủ mặc áo màu đỏ và màu trắng với quần knickerbocker màu xanh hải quân.[93] Từ 1894-1896, các cầu thủ mặc áo màu xanh lá cây vàng.[93] và được thay thế vào năm 1896 bằng áo sơ mi trắng và quần short màu xanh hải quân.[93]

Sau khi thay đổi tên vào năm 1902, màu sắc của câu lạc bộ được thay đổi thành áo đỏ, quần trắng và tất màu đen; đây cũng chính là màu trang phục sân nhà chuẩn của Manchester United.[93] Áo đấu ít thay đổi cho đến năm 1922 khi câu lạc bộ áp dụng áo sơ mi trắng với chữ "V" màu đỏ đậm quanh cổ, tương tự như chiếc áo mặc trong trận chung kết Cúp FA 1909. Chiếc áo được mặc định làm áo đấu sân nhà cho đến năm 1927.[93] Có một giai đoạn vào năm 1934, chiếc áo đấu phụ màu anh đào sọc ngang màu trắng trở thành áo đấu sân nhà, nhưng mùa giải sau đó chiếc áo màu đỏ được sử dụng lại.[93] Tất màu đen được thay đổi thành màu trắng từ năm 1959 đến năm 1965, đổi thành màu đỏ cho đến năm 1971 khi câu lạc bộ trả lại màu tất đen. Quần đen và/hoặc tất trắng đôi khi cũng được sử dụng với áo đỏ, hầu hết là trong các trận sân khách để tranh trùng màu với đội chủ nhà. Áo sân nhà hiện nay là một chiếc áo được chia thành hai nửa đỏ bên đậm bên nhạt, được phân cách bằng một dải họa tiết sáu cạnh với ba sọc Adidas màu trắng chạy dọc thân bên áo.[94]

Manchester United thi đấu sân khách thường mặc áo trắng, quần đen và tất trắng, nhưng đã có một số trường hợp ngoại lệ. Áo đấu bao gồm một dải màu đen với trang trí màu xanh vàng từ năm 1993 đến năm 1995, những chiếc áo sơ mi màu xanh hải quân với mối xoắn ngang màu bạc trong mùa giải 1999-2000,[95] và các bộ áo đấu màu giải 2011-12 trở đi, trong đó có một áo đấu có nền xanh hoàng gia và sọc được tạo nên từ nhưng dải màu đen và xanh dương, với quần short màu đen và tất màu xanh.[96] Áo đấu màu xám mặc trong mùa giải 1995-1996 bị bỏ chỉ sau năm trận đấu vì cầu thủ khẳng định rất khó khăn khi tìm đồng đội phối hợp.[97] Năm 2001, để kỷ niệm 100 năm đổi tên, Manchester United phát hành áo đấu lộn trái phải như nhau màu trắng/vàng, mặc dù thực tế những chiếc áo khi mang ra thi đấu không lộn trái phải như nhau được.[98]

Bộ áo đấu thứ ba của câu lạc bộ thường là hoàn toàn xanh, đây là trường hợp gần đây nhất là trong mùa giải 2014-15.[99] Trường hợp ngoại lệ bao gồm áo hai nửa màu xanh lá cây vàng từ năm 1992 đến năm 1994, một chiếc áo sọc xanh-trắng mặc trong 1994-1995 và 1995-1996 và một lần trong mùa 1996-97, một bộ áo đấu toàn màu đen mặc trong mùa giải 1998-1999, và áo trắng với mối xoắn ngang màu đen và đỏ mặc từ năm 2003 tới 2005.[100] Từ năm 2006-07 tới 2013-14, áo đấu thứ ba thường giống áo mùa giải trước, những trường hợp ngoại lệ là mùa giải 2008-09[101] và mùa giải 2014-15.

Huy hiệu

  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Huy hiệu Manchester United (1960-1973)

  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Huy hiệu Manchester United (1973-1998)

  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Huy hiệu Manchester United (1998-nay)

Huy hiệu câu lạc bộ Manchester United thay đổi theo dòng thời gian lịch sử. Huy hiệu của câu lạc bộ gắn liền từ biệt danh của câu lạc bộ là "The Red Devils". Năm 1998, Huy hiệu được thiết kế lại một lần nữa, loại bỏ cụm từ "Football Club".

Trang phục áo đấu

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1879–87

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1887–93

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1893–94

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1894–96

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1896–1902

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1902–20, 1921–22, 1927–34, 1934–60, 1971–2018[EN]

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1920–21, 1963–71

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1922–27

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1934

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

1960–63
(1997–nay)[EU]

Ghi chú

  1. ^

    Kể từ năm 1997 cách phối màu này được dùng chủ yếu trong các trận quốc nội và giao hữu.

  2. ^

    Kể từ năm 1997 cách phối màu này được dùng chủ yếu trong các trận châu Âu và quốc tế.

Sân vận động

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Old Trafford sau khi mở rộng vào năm 2006.

Newton Heath ban đầu thi đấu tại sân North Road gần đường ray; sức chứa ban đầu vào khoảng 12.000, nhưng ban lãnh đạo cho rằng cơ sở vật chất như vậy không đủ để câu lạc bộ gia nhập The Football League.[102] Việc mở rộng bắt đầu vào năm 1887 và tới năm 1891, Newton Heath làm thêm hai khán đài, mỗi khán đài có sức chứa 1.000 khán giả.[103] Số khán giả cao nhất được ghi chép lại của một trận đấu tại North Road là 15.000 (gặp Sunderland ngày 4 tháng 3 năm 1893).[104] Số khán giả cũng là tương tự khi đội gặp Gorton Villa vào ngày 5 tháng 9 năm 1889.[105]

Vào tháng 6 năm 1893, sau khi Manchester Deans và Canons, chủ sở hữu của North Road thu hồi quyền sử dụng sân từ tay Manchester United, thư ký A. H. Albut liền có được quyền sử dụng sân Bank Street ở Clayton.[106] Sân ban đầu không có khán đài nhưng trước khi mùa 1893–94 bắt đầu đã có thêm hai khán đài được xây thêm; một khán đài bao trọn chiều dài một phía sân và khán đài còn lại nằm ở phía sau cầu môn có tên "Bradford end". Ở đầu cầu môn bên kia mang tên "Clayton end", dần được xây dựng.[106] Trận đầu tiên của Newton Heath tại Bank Street là trước Burnley vào ngày 1 tháng 9 năm 1893, trong đó 10.000 khán giả chứng kiến cú hat-trick của Alf Farman giúp Newton Heath đi tới thắng lợi 3–2. Các khán đài còn lại được hoàn thành cho trận đấu ba tuần sau với Nottingham Forest.[106] Vào tháng 10 năm 1895, trước chuyến làm khách của Manchester City, câu lạc bộ mua về một khán đài 2.000 chỗ từ câu lạc bộ rugby league Broughton Rangers. Tuy nhiên thời tiết xấu khiến trận đấu với Manchester City chỉ có 12.000 người tới xem.[107]

Khi sân Bank Street tạm thời đóng cửa năm 1902, đội trưởng Harry Stafford quyên góp tiền để trả trận đấu sân khách tiếp theo của đội tại Bristol City và tìm ra một sân vận động tạm thời tại Harpurhey cho trận tiếp theo của đội dự bị gặp Padiham.[108] Sau những đầu tư về mặt tài chính, tân chủ tịch John Henry Davies chi 500 bảng để dựng lên một khán đài 1.000 chỗ có lắp ghế ngồi tại Bank Street.[109]

Tuy nhiên, sau chức vô địch quốc gia đầu tiên của Manchester United vào năm 1908 và Cúp FA năm 1909, Bank Street đã trở nên không đủ với tham vọng của Davies;[109] tới tháng 2 năm 1909, Sân vận động Old Trafford trở thành tên sân vận động mới của Manchester United sau khi câu lạc bộ mua lại mảnh đất có giá 60.000 bảng. Kiến trúc sư Archibald Leitch được giao ngân sách 30.000 bảng để xây dựng; Công trình được xây dựng bởi Messrs Brameld and Smith of Manchester. Lượng khán giả kỷ lục của sân vận động là 76.962 người tới sân vào ngày 25 tháng 3 năm 1939, trong trận bán kết Cúp FA giữa Wolverhampton Wanderers và Grimsby Town.[110]

Những trận oanh tạc bằng bom trong Thế chiến thứ hai phá hủy phần lớn sân vận động; đường hầm trung tâm ở South Stand là phần duy nhất còn lại của khán đài này. Sau chiến tranh, câu lạc bộ nhận được 22.278 bảng tiền bồi thường từ Ủy ban Thiệt hại Chiến tranh. Khi cộng cuộc tái xây dựng sân được tiến hành, đội đá các trận sân nhà tại sân Maine Road của Manchester City; Manchester United phải đóng phí thuê sân là 5.000 bảng 1 năm, cộng thêm một phần nhỏ tiền vé thu được.[111] Một trong những nâng cấp đáng kể của Old Trafford là mái che, đầu tiên là tại khán đài Stretford End và sau đó là khán đài Bắc và Đông. Các cột trụ đỡ mái gây cản trở tầm nhìn của cổ động viên được thay thế bằng kết cấu dầm chìa (cantilever). Bốn cột dàn đèn cao 180 foot (55 m) có giá 40.000 bảng lần đầu được dựng lên vào ngày 25 tháng 3 năm 1957, mỗi cột gồm 54 bóng đèn. Các cột này được gỡ vào năm 1987 và được thay bằng hệ thống chiếu sáng gắn vào mái của các khán đài như ngày nay.[112]

Các yêu cầu của Taylor Report dành cho một sân vận động có ghế ngồi góp phần làm giảm số chỗ ngồi của Old Trafford xuống khoảng 44.000 vào năm 1993. Vào năm 1995, North Stand được thiết kế lại thành ba tầng giúp tăng số chỗ ngồi lên 55.000. Cuối mùa giải 1998–99, các khán đài East và West được tăng thêm một tầng nữa, nâng sức chứa lên 67.000, và từ tháng 7 năm 2005 tới tháng 5 năm 2006, 8.000 chỗ ngồi nữa được bổ sung ở hai góc khán đài đông bắc và tây bắc. Một phần chỗ ngồi mới được sử dụng vào ngày 26 tháng 3 năm 2006, khi lượng khán giả 69.070 người trở thành kỷ lục mới tại Giải Ngoại hạng Anh.[113] Kỷ lục dần được đẩy lên cho tới khi chạm đỉnh vào tháng 3 năm 2007 khi có 76.098 khán giả tới chứng kiến thắng lợi 4–1 của Manchester United trước Blackburn Rovers, với chỉ 114 ghế trống (trên tổng số 76.212).[114] Vào năm 2009, việc sắp xếp lại chỗ ngồi khiến số chỗ ngồi giảm xuống còn 75.957.[115][116] Manchester United là câu lạc bộ có lượng khán giả trung bình chỉ sau Borussia Dortmund.[117][118][119]

Người hâm mộ

Manchester United là một trong những câu lạc bộ bóng đá nổi tiếng nhất trên thế giới, với một lượng khán giả đến sân trung bình cao nhất châu Âu.[120] Câu lạc bộ cho biết lực lượng người hâm mộ trên toàn thế giới của đội bao gồm hơn 200 hội chính thức được công nhận bởi Manchester United Supporters Club (MUSC), tại ít nhất 24 quốc gia.[121] Câu lạc bộ hưởng lợi từ lực lượng người hâm mộ trên thế giới thông qua các tour du đấu mùa hè. Công ty kiểm toán Deloitte ước tính rằng Manchester United có 75 triệu người hâm mộ trên toàn thế giới,[13] trong khi ước tính khác cho rằng con số này gần 333 triệu người hâm mộ.[122] Câu lạc bộ cũng là đội thể thao có số người theo dõi nhiều thứ ba trên mạng xã hội (sau Barcelona và Real Madrid), với trên 71 triệu fan trên Facebook tính tới tháng 9 năm 2016.[14][123] Một nghiên cứu vào năm 2014 cho thấy Manchester United có người hâm mộ cổ vũ ầm ĩ nhất tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.[124]

Người hâm mộ được đại diện bởi hai hiệp hội độc lập nhau, Independent Manchester United Supporters' Association (IMUSA) duy trì liên kết chặt chẽ với câu lạc bộ thông qua MUFC Fans Forum,[125] và Manchester United Supporters' Trust (MUST). Sau khi câu lạc bộ được tiếp quản bởi gia đình Glazer vào năm 2005, một nhóm người hâm mộ thành lập một câu lạc bộ riêng mang tên F.C. United of Manchester để phản đối sự kiện này. Khán đài phía tây của Old Trafford – hay "Stretford End" – là khán đài nổi tiếng nơi có các cổ động viên cổ vũ cuồng nhiệt nhất.[126]

Kình địch

Manchester United là kình địch của Arsenal, Leeds United, Liverpool và Manchester City, đối thủ cùng thành phố trong những trận Derby Manchester.[127][128]

Sự kình địch với Liverpool bắt nguồn từ sự cạnh tranh giữa hai thành phố trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp khi thành phố Manchester nổi tiếng với ngành công nghiệp dệt may trong khi đó Liverpool là một thành phố cảng lớn.[129] Manchester United và Liverpool cũng là hai đội bóng thành công nhất nước Anh và, trong nhiều thời điểm lịch sử, cả hai đội bóng cạnh tranh nhau chức vô địch (gần đây nhất là mùa giải 2008-09). Các trận đấu giữa hai đội thường được cầu thủ và người hâm mộ hai bên coi là trận đấu quan trọng nhất mùa giải.

Sự kình địch với Leeds bắt nguồn từ Chiến tranh Hoa Hồng giữa Nhà Lancaster và Nhà York, với Manchester United đại diện cho Lancashire còn Leeds đại diện cho Yorkshire.[130]

Sự kình địch với Arsenal xuất phát từ những lần hai đội bóng, cũng như hai huấn luyện viên Alex Ferguson và Arsène Wenger, cạnh tranh nhau chức vô địch. Với tổng cộng 33 danh hiệu (20 cho Manchester United, 13 cho Arsenal) cuộc đối đầu giữa hai độ được coi là cuộc so tài thú vị nhất trong lịch sử Premier League.[131][132]

Thương hiệu toàn cầu

Manchester United được coi là một thương hiệu toàn cầu; một báo cáo năm 2011 của Brand Finance định giá thương hiệu của câu lạc bộ và sở hữu trí tuệ liên quan lên đến 412 triệu bảng Anh - tăng 39 triệu bảng so với năm trước đó, hơn Real Madrid là đội xếp thứ hai khoảng 11 triệu bảng, đồng thời xếp hạng thương hiệu ở mức AAA (cực kỳ mạnh).[133] Trong tháng 7 năm 2012, Manchester United được tạp chí Forbes xếp hạng nhất trong danh sách mười thương hiệu đội thể thao có giá trị lớn nhất, định giá thương hiệu của Manchester United vào khoảng 2,23 tỷ USD.[134] Câu lạc bộ xếp hạng thứ ba trong Deloitte Football Money League (sau Real Madrid và Barcelona) theo doanh thu.[135] Vào tháng 1 năm 2013, câu lạc bộ trở thành đội thể thao đầu tiên trên thế giới được định giá 3 tỷ USD. Tạp chí Forbes đánh giá câu lạc bộ có giá trị khoảng 3,3 tỷ USD - cao hơn 1,2 tỷ USD so với đội thể thao có giá trị nhất tiếp theo.[136]

Sức mạnh cốt lõi thương hiệu toàn cầu của Manchester United thường được cho là nhờ công lao của Matt Busby trong việc xây dựng lại đội bóng và thành công của câu lạc bộ sau thảm họa München, điều thế giới hết lời ca ngợi. Đội hình "biểu tượng" gồm Bobby Charlton và Nobby Stiles (thành viên của đội tuyển Anh vô địch World Cup), Denis Law và George Best. Với lối chơi tấn công (khác hẳn với lối chơi phòng ngự "catenaccio" của các câu lạc bộ Ý cùng thời) "khiến người hâm mộ bóng đá Anh cảm thấy thích thú".[137] Đội bóng của Busby cũng gắn liền với sự tự do hóa của xã hội phương Tây trong thập niên 1960; George Best được gọi là "thành viên thứ năm của ban nhạc The Beatles" (fifth Beatle) nhờ mái tóc đặc trưng của ông, và là cầu thủ bóng đá đầu tiên thực sự tạo dựng hình ảnh ngoài sân cỏ với giới truyền thông.[137]

Với tư cách là câu lạc bộ bóng đá Anh thứ hai xuất hiện trên thị trường chứng khoán Luân Đôn vào năm 1991, câu lạc bộ tăng vốn đáng kể, và có động lực để tiếp tục phát triển chiến lược thương mại của mình.[138] Sức mạnh của thương hiệu Manchester United được hỗ trợ rất nhiều việc truyền thông chú ý đến các hoạt động bên ngoài sân cỏ của các cầu thủ, đặc biệt là David Beckham (người nhanh chóng phát triển thương hiệu toàn cầu của riêng mình). Sự chú ý này thường tạo ra sự chú ý đặc biệt tới các hoạt động bóng đá của đội, và do đó tạo cơ hội thu hút nhà tài trợ, yếu tố phụ thuộc vào truyền hình.[139] Trong thời gian ở câu lạc bộ, sự nổi tiếng của Beckham trên khắp châu Á đóng vai tò quan trọng đối với thành công về mặt thương mại của câu lạc bộ tại đây.[140]

Do kết quả xếp hạng cao tại giả vô địch quốc gia mang lại giá trị bản quyền truyền hình lớn hơn, thành công trên sân tạo ra thu nhập lớn cho câu lạc bộ. Kể từ khi Premier League ra đời, Manchester United là đội nhận được phần lớn nhất trong doanh thu từ hợp đồng truyền hình với BSkyB.[141] Manchester United cũng luôn là câu lạc bộ bóng đá Anh có doanh thu hàng năm cao nhất. Mùa giải 2005-06, bộ phận thương mại của câu lạc bộ kiếm về khoảng 51 triệu bảng Anh, so với khoảng 42,5 triệu của Chelsea, 39,3 triệu của Liverpool, 34 triệu bảng của Arsenal và 27,9 triệu của Newcastle United. Một trong những nhà tài trợ quan trọng là công ty trang phục thể thao Nike. Nike quản lý hoạt động bán hàng của câu lạc bộ với một hợp đồng 13 năm quan hệ đối tác với giá trị £ 303 triệu bảng Anh bắt đầu vào năm 2002.[142] Ngoài ra, Manchester United mang nhãn hiệu dịch vụ truyền thông với kênh truyền hình dành riêng cho câu lạc bộ, đó là kênh MUTV - đã cho phép câu lạc bộ mở rộng lượng fan hâm mộ của mình vượt ra ngoài tầm sân vận động Old Trafford.[13]

Nhà tài trợ

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

Nhà tài trợ

Công ty điện tử Sharp Electronics đã trở thành nhà tài trợ áo đầu tiên của câu lạc bộ vào đầu mùa giải 1982-1983 theo một hợp đồng tài trợ ban đầu 5 năm trị giá 500.000 bảng. Bản hợp đồng kéo dài cho đến cuối mùa giải 1999-2000, khi Vodafone đồng ý một hợp đồng 4 năm trị giá 30 triệu bảng. Vodafone đồng ý trả 36 triệu bảng để gia hạn hợp đồng thêm 4 năm, nhưng khi còn hai mùa giải nữa mới hết hợp đồng tài trợ thì Vodafone chuyển sang tập trung tài trợ cho Champions League.[144]

Bắt đầu mùa giải 2006-07, tập đoàn bảo hiểm Mỹ AIG đã đồng ý một hợp đồng tài trợ áo đấu 4 năm với giá trị 56,5 triệu bảng mà trong tháng 9 năm 2006 đã trở thành hợp đồng tài trợ áo đấu có giá trị nhất trên thế giới.[145][146] Vào đầu mùa giải 2010-11, công ty bảo hiểm Mỹ Aon trở thành nhà tài trợ chính của câu lạc bộ trong một hợp đồng 4 năm với trị giá khoảng 80 triệu bảng Anh.[147] Manchester United công bố hợp đồng tài trợ áo đấu sân tập đầu tiên trong tháng 8 năm 2011, đồng ý một hợp đồng 4 năm với DHL với trị giá 40 triệu bảng; đó là trường hợp đầu tiên tài trợ áo đấu trong bóng đá Anh.[148][149] Hợp đồng DHL kéo dài trong hơn một năm trước khi câu lạc bộ mua lại hợp đồng vào tháng 10 năm 2012.[150] Hợp đồng tài trợ áo đấu sân tập sau đó đã được bán cho hãng Aon vào tháng 4 năm 2013 cho một thỏa thuận trị giá 180 triệu bảng kéo dài 8 năm, trong đó cũng bao gồm việc mua quyền đặt tên cho Trung tâm huấn luyện Trafford.[151]

Umbro từng là nhà sản xuất đồ thể thao cho câu lạc bộ và được thay thế bằng một hợp đồng 5 năm với Admiral Sportswear vào năm 1975.[152] Adidas đã nhận được hợp đồng vào năm 1980,[153] trước khi Umbro tái ký hợp đồng thứ hai vào năm 1992.[154] Umbro tài trợ trong 10 năm, tiếp theo hãng Nike ký hợp đồng kỷ lục 302,9 triệu bảng kéo dài cho đến năm 2015; có 3,8 triệu chiếc áo được bán ra trong 22 tháng đầu tiên.[155][156] Ngoài Nike và Chevrolet, câu lạc bộ cũng có nhiều nhà tài trợ cấp dưới bao gồm cả Aon và Budweiser.[157]

Ngày 30 tháng 7 năm 2012, câu lạc bộ ký một hợp đồng 7 năm với tập đoàn ô tô Mỹ General Motors thay thế cho Aon từ mùa giải 2014-15. Hợp đồng mới có giá trị 80 triệu bảng Anh một năm[158] có tổng trị giá 559 triệu bảng trong 7 năm với logo của với tên thương hiệu Chevrolet trên áo đấu.[159][160][161] Nike công bố rằng họ sẽ không gia hạn hợp đồng tài trợ cho Manchester United sau mùa giải 2014-15 với lý do chi phí lên cao.[162][163] Từ mùa giải 2015-16, Adidas sản xuất áo đấu Manchester United với một thỏa thuận hợp đồng 10 năm, đây là hợp đồng tài trợ kỷ lục thế giới trị giá tối thiểu 750 triệu bảng Anh.[164][165][166]

Quyền sở hữu và tài chính

Câu lạc bộ ban đầu được Công ty đường sắt Lancashire và Yorkshire cấp vốn hoạt động, sau đó trở thành công ty hữu hạn vào năm 1892 và bán cổ phần cho các cổ động viên địa phương với giá một bảng thông qua mẫu đơn đăng ký.[18] Vào năm 1902, phần lớn quyền sở hữu được chuyển sang cho bốn thương nhân địa phương, trong đó có chủ tịch tương lai John Henry Davies. Những người này đã bỏ ra mỗi người 500 bảng để cứu câu lạc bộ khỏi cảnh phá sản.[18] Sau khi Davies qua đời năm 1927, câu lạc bộ lần nữa đối mặt với nguy cơ phá sản nhưng được James W. Gibson ra tay hỗ trợ vào năm 1931 với khoản đầu tư 2.000 bảng.[22] Gibson tiến cử con trai mình là Alan lên làm việc trong ban quản trị câu lạc bộ vào năm 1948,[167] nhưng ba năm sau thì ông qua đời; gia đình Gibson duy trì quyền sở hữu câu lạc bộ thông qua vợ của James là bà Lillian,[168] nhưng vị trí chủ tịch câu lạc bộ được giao cho cựu cầu thủ Harold Hardman.[169]

Louis Edwards, một người bạn của Matt Busby, được bổ nhiệm vào ban quản trị sau thảm họa München, dần thu về nhiều cổ phần của câu lạc bộ; với khoản đầu tư xấp xỉ 40.000 bảng Anh, ông có nắm giữ 54% cổ phần và chính thức nằm quyền điều hành vào tháng 1 năm 1964.[170] Khi Lillian Gibson qua đời vào tháng 1 năm 1971, cổ phần của bà được chuyển cho Alan Gibson, người mà vào năm 1978 đã bán một lượng cổ phần cho con trai của Louis Edwards là Martin; Martin Edwards trở thành chủ tịch câu lạc bộ sau khi cha ông qua đời vào năm 1980.[171] Nhà tài phiệt truyền thông Robert Maxwell có ý muốn mua lại câu lạc bộ vào năm 1984 nhưng không thể đáp ứng cái giá mà Edwards đưa ra.[171] Vào năm 1989, chủ tịch Martin Edwards có ý định bán câu lạc bộ cho Michael Knighton với giá 20 triệu bảng, nhưng thương vụ đổ bể. Thay vào đó Knighton ngồi vào hàng ngũ giám đốc câu lạc bộ.[171]

Manchester United xuất hiện trên thị trường chứng khoán vào tháng 6 năm 1991,[172] và tiếp tục nhận được đề nghị mua lại vào năm 1998 từ phía tập đoàn British Sky Broadcasting của Rupert Murdoch. Động thái này dẫn tới sự ra đời của Shareholders United Against Murdoch – giờ có tên là Manchester United Supporters' Trust – một nhóm cổ động viên thuyết phục các cổ động viên khác mua cổ phần của câu lạc bộ để ngăn không cho việc tiếp quản thù địch xảy ra. Ban lãnh đạo Manchester United chấp nhận lời đề nghị trị giá 623 triệu bảng,[173] nhưng cuộc tiếp quản không thành do sự ngăn cản của Ban Độc quyền và Sáp nhập vào tháng 4 năm 1999.[174] Vài năm sau, cuộc canh tranh quyền lực xuất hiện giữa huấn luyện viên Alex Ferguson và các đối tác đua ngựa là John Magnier và J. P. McManus. Hai nhân vật này khi đó đang dần thu về phần lớn lượng cổ phần. Trong cuộc tranh cãi bắt nguồn từ việc tranh giành quyền sở hữu chú ngựa Rock of Gibraltar, Magnier và McManus có ý đồ lật đổ Ferguson khỏi vị trí huấn luyện viên trưởng. Sau đó ban lãnh đạo phản ứng bằng việc tiếp cận các nhà đầu tư khác nhằm giảm thiểu ưu thế của hai người Ireland kia.[175]

Vào tháng 5 năm 2005, Malcolm Glazer thu về 28,7 phần trăm số cổ phần câu lạc bộ nắm giữ bởi McManus và Magnier, từ đó có được quyền kiểm soát thông qua công ty đầu tư Red Football Ltd để chính thức mua lại câu lạc bộ với giá 800 triệu bảng.[176] Sau khi thương vụ hoàn tất, câu lạc bộ lập tức bị gạt ra khỏi thị trường chứng khoán.[177] Vào tháng 7 năm 2006, câu lạc bộ thông báo gói tái huy động vốn vay cho khoản nợ 660 triệu bảng khiến tiền lãi phải thanh toán hàng hàng năm giảm 30% xuống còn 62 triệu bảng một năm.[178][179] Vào tháng 1 năm 2010, với số nợ 716,5 triệu bảng,[180] Manchester United tiếp tục tái huy động vốn vay thông qua phát hành trái phiếu trị giá £504 triệu. Điều này giúp họ trả được 509 triệu tiền nợ các ngân hàng quốc tế.[181] Tiền lãi hàng năm phải trả dựa trên trái phiếu – mãn hạn vào ngày 1 tháng 2 năm 2017 – là khoảng 45 triệu bảng mỗi năm.[182] Dù nỗ lực tái cơ cấu nhưng các khoản nợ vẫn gây ra cuộc biểu tình của người hâm mộ vào ngày 23 tháng 1 năm 2010 tại Old Trafford và Trung tâm huấn luyện Trafford.[183][184] Các nhóm cổ động viên khuyến khích các fan vào sân cổ vũ trong trang phục xanh lục vàng, màu sắc truyền thống của Newton Heath. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2010, Manchester United Supporters' Trust tổ chức các cuộc họp với nhóm các cổ động viên giàu có được gọi là "Red Knights" nhằm mua lại quyền điều hành của nhà Glazer.[185]

Vào tháng 8 năm 2011, báo chí đưa tin nhà Glazer gặp gỡ Credit Suisse nhằm chuẩn bị cho việc phát hành lần đầu ra công chúng (IPO) với mức giá 1 tỉ đô la Mỹ (khoảng 600 triệu bảng Anh) trên thị trường chứng khoán Singapore và định giá câu lạc bộ ở mức 2 tỉ đô la.[186] Tuy nhiên, vào tháng 7 năm 2012, câu lạc bộ thông báo kế hoạch niêm yết IPO tại New York Stock Exchange.[187] Cổ phần được chào bán với mức giá từ 16 tới 20 đô, nhưng mức giá bị cắt giảm xuống còn 14 đô la trước phiên IPO vào ngày 10 tháng 8 do những bình luận tiêu cực từ các nhà phân tích Phố Wall cũng như màn ra mắt thất vọng trên thị trường chứng khoán của Facebook vào tháng 5. Mặc dù vậy Manchester United vẫn có giá trị 2,3 tỉ đô la và trở thành câu lạc bộ bóng đá giá trị nhất thế giới.[188]

Cầu thủ

Đội hình chính thức

Tính đến ngày 8 tháng 9 năm 2022[189][190]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

SốVTQuốc gia Cầu thủ
1 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
David de Gea
2 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Victor Lindelöf
4 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Phil Jones
5 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Harry Maguire (đội trưởng)[191]
6 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Lisandro Martínez
7
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Cristiano Ronaldo
8 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Bruno Fernandes
9
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Anthony Martial
10
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Marcus Rashford
11
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Mason Greenwood
12 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Tyrell Malacia
14 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Christian Eriksen
17 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Fred
18 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Casemiro
19 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Raphaël Varane
SốVTQuốc gia Cầu thủ
20 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Diogo Dalot
21
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Antony
22 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Tom Heaton
23 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Luke Shaw
25
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Jadon Sancho
28 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Facundo Pellistri
29 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Aaron Wan-Bissaka
31 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Martin Dúbravka
(mượn từ Newcastle United[192])
33 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Brandon Williams
34 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Donny van de Beek
36
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Anthony Elanga
38 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Axel Tuanzebe
39 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Scott McTominay
43 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Teden Mengi
47
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Shola Shoretire
49
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Alejandro Garnacho
50 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Radek Vítek
55 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Zidane Iqbal
56
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Charlie McNeill
73 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Kobbie Mainoo
80 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Tyler Fredricson

Cho mượn

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

SốVTQuốc gia Cầu thủ
26 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Dean Henderson (tại Nottingham Forest đến 30 tháng 6 năm 2023)[193]
74 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Álvaro Fernández (tại Preston North End đến 30 tháng 6 năm 2023)[194]
27 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Alex Telles (tại Sevilla đến 30 tháng 6 năm 2023)[195]
SốVTQuốc gia Cầu thủ
3 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Eric Bailly (tại Marseille đến 30 tháng 6 năm 2023)[196]
46 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Hannibal Mejbri (tại Birmingham City đến 30 tháng 6 năm 2023)[197]
16 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Amad Diallo (tại Sunderland đến 30 tháng 6 năm 2023)[198]

Đội trẻ và đội học viện

Tính đến ngày 2 tháng 7 năm 2022[190][199][200]

Danh sách cầu thủ U-23 và cầu thủ Học viện thi đấu cùng đội một:

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

SốVTQuốc gia Cầu thủ
30 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Nathan Bishop
41 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ethan Laird
48 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Will Fish
50 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Radek Vítek
51 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Matěj Kovář
52
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Joe Hugill
53 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Zidane Iqbal
54 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ethan Galbraith
56
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Charlie McNeill
57
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Noam Emeran
58 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Di'Shon Bernard
59 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Charlie Wellens
60 TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ondřej Mastný
63 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Dylan Levitt
64 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Björn Hardley
SốVTQuốc gia Cầu thủ
71 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Isak Hansen-Aarøen
72 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Charlie Savage
73 TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Kobbie Mainoo
74 HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Álvaro Fernández
75
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Alejandro Garnacho
77
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Mateo Mejia
TM
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Dermot Mee
HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Logan Pye
HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Rhys Bennett
HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Marc Jurado
HV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Willy Kambwala
TV
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Omari Forson

Cựu cầu thủ

Đội trưởng câu lạc bộ

Kỷ lục cầu thủ

Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Sir Matt Busby

Ban huấn luyện

Chức vụ Tên
Huấn luyện viên trưởng
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Erik ten Hag
Trợ lý Huấn luyện viên
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Mike Phelan[201]
Các huấn luyện viên đội 1
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Kieran McKenna[202]
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Mark Dempsey[202]
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Martyn Pert[202][203]
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Darren Fletcher[204]
Huấn luyện viên trưởng thủ môn
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Richard Hartis[205]
Trợ lý Huấn luyện viên thủ môn
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Craig Mawson[206]
Trưởng bộ phận thể chất
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Richard Hawkins
Trưởng bộ phận phục hồi chức năng và vật lý trị liệu
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Robin Sadler[207]
Huấn luyện viên thể hình
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Paulo Gaudino
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Charlie Owen[208]
Huấn luyện viên thể lực
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Michael Clegg[209]
Trưởng nhóm khoa học thể thao đội một
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Edward Leng[209]
Giám đốc phát triển cầu thủ đội 1
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Nicky Butt[210]
Giám đốc học viện
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Nick Cox[210]
Huấn luyện viên U-23
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Neil Wood[211]
Huấn luyện viên U-18
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Neil Ryan[212]

Những huấn luyện viên trong lịch sử

Giai đoạn[213]Tên Ghi chú
1878–1892 Không rõ
1892–1900
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
A. H. Albut
1900–1903
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
James West
1903–1912
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ernest Mangnall
1912–1914
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
John Bentley
1914–1921
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Jack Robson
1921–1926
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
John Chapman
1926–1927
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Lal Hilditch
Cầu thủ kiêm huấn luyện viên
1927–1931
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Herbert Bamlett
1931–1932
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Walter Crickmer
1932–1937
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Scott Duncan
1937–1945
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Walter Crickmer
1945–1969
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Matt Busby
1958
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Jimmy Murphy
Huấn luyện viên tạm quyền
1969–1970
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Wilf McGuinness
1970–1971
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Matt Busby
1971–1972
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Frank O'Farrell
1972–1977
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Tommy Docherty
1977–1981
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Dave Sexton
1981–1986
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ron Atkinson
1986–2013
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Alex Ferguson
2013–2014
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
David Moyes
2014
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ryan Giggs
Cầu thủ kiêm huấn luyện viên tạm quyền
2014–2016
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Louis van Gaal
2016–2018
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
José Mourinho
2018-2021
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ole Gunnar Solskjær
Huấn luyện viên tạm quyền tới ngày 28 tháng 3 năm 2019
11/2021-12/2021
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Michael Carrick
Huấn luyện viên tạm quyền
2021–2022
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Ralf Rangnick
Huấn luyện viên tạm quyền
2022-nay
Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Erik ten Hag

Ban lãnh đạo

  • Chủ sở hữu: Gia đình Glazer thông qua Công ty TNHH Red Football Shareholder[214]

Công ty TNHH Manchester United

Chức vụ Tên[215]
Đồng chủ tịch Hội đồng quản trị Avram Glazer
Joel Glazer
Phó chủ tịch điều hành Ed Woodward
Giám đốc điều hành tập đoàn Richard Arnold
Giám đốc tài chính Cliff Baty[216]
Phó giám đốc điều hành Collette Roche[217]
Các Giám đốc không điều hành Bryan Glazer
Kevin Glazer
Edward Glazer
Darcie Glazer Kassewitz
Robert Leitão
John Hooks
Manu Sawhney

Câu lạc bộ bóng đá Manchester United

Văn phòng Tên
Chủ tịch danh dự Martin Edwards[218]
Các giám đốc David Gill
Michael Edelson
Sir Bobby Charlton
Sir Alex Ferguson[219]
Thư ký câu lạc bộ Rebecca Britain[220]
Giám đốc điều hành bóng đá Alan Dawson MBE

Thành tích

Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
Cú ăn ba năm 1999.

Manchester United là một trong những câu lạc bộ thành công nhất tại châu Âu.[221] Chiếc cúp đầu tiên của câu lạc bộ là Manchester Cup vào năm 1886 khi còn mang tên là Newton Heath LYR.[222] Vào năm 1908, câu lạc bộ giành chức vô địch quốc gia đầu tiên, và giành chức vô địch Cúp FA đầu tiên vào năm tiếp theo. Thời kỳ Manchester United giành nhiều danh hiệu nhất là thập kỷ 1990; năm chức vô địch quốc gia, bốn Cúp FA, một Cúp Liên đoàn, năm Charity Shield (trong đó có một lần đồng đoạt cúp), một UEFA Champions League, một Cúp C2 châu Âu, một Siêu cúp châu Âu và một Cúp Liên lục địa.

Đội hiện nắm giữ kỷ lục vô địch nước Anh nhiều nhất (20) – trong đó có kỷ lục 13 chức vô địch Ngoại hạng Anh – nhiều Siêu cúp Anh nhất (21). Họ cũng là câu lạc bộ Anh đầu tiên giành chức vô địch Cúp C1 vào năm 1968, và tính đến năm 2016 họ là đội bóng Vương quốc Anh duy nhất từng vô địch FIFA Club World Cup với danh hiệu năm 2008. United cũng trở thành câu lạc bộ Vương quốc Anh duy nhất vô địch Cúp Liên lục địa năm 1999. Cúp gần đây nhất của câu lạc bộ đến tháng 5 năm 2017 đó là chức vô địch UEFA Europa League 2016-17.

Sau chức vô địch UEFA Europa League 2016-17, United trở thành câu lạc bộ thứ năm trong lịch sử đã giành được 3 cúp Châu âu bao gồm European Cup/UEFA Champions League, European Cup Winners' Cup/UEFA Cup Winners' Cup, và UEFA Cup/UEFA Europa League chỉ sau Juventus, Ajax, Bayern Munich và Chelsea.[223]

Danh hiệu chính thức

Quốc gia

  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
    Giải vô địch quốc gia: 20
    (kỷ lục)
    • 1907–08, 1910–11, 1951–52, 1955–56, 1956–57, 1964–65, 1966–67, 1992–93, 1993–94, 1995–96
    • 1996–97, 1998–99, 1999–00, 2000–01, 2002–03, 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010–11, 2012–13
  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
    Cúp FA: 12
    • 1908–09, 1947–48, 1962–63, 1976–77, 1982–83, 1984–85, 1989–90, 1993–94, 1995–96, 1998–99, 2003–04, 2015–16
  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
    Cúp Liên đoàn Anh: 5
    • 1991–92, 2005–06, 2008–09, 2009–10, 2016–17
  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
    Siêu cúp Anh: 21
    (kỷ lục)
    • 1908, 1911, 1952, 1956, 1957, 1965*, 1967*, 1977*, 1983, 1990*, 1993
    • 1994, 1996, 1997, 2003, 2007, 2008, 2010, 2011, 2013, 2016 (* đồng vô địch)
  • Giải hạng nhất Anh: 2
    • 1935–36, 1974–75

Châu âu

Thể giới

  • Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022
    FIFA Club World Cup: 1
    • 2008
  • Intercontinental Cup: 1
    • 1999

Chú thích

  1. ^ UK Retail Price Index inflation figures are based on data from Clark, Gregory (2017). “The Annual RPI and Average Earnings for Britain, 1209 to Present (New Series)”. MeasuringWorth. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2019.
  2. ^ Ngày tháng chính xác của cuộc gặp mặt và của việc đổi tên vẫn còn gây tranh cãi. Trong khi nguồn chính thức của câu lạc bộ xác nhận là vào 26 tháng 4, tuy nhiên tờ Manchester Evening Chronicle số ra ngày 25 tháng 4 lại tường thuật lại với ngày tháng là 24 tháng 4.

Tham khảo

  1. ^ “Premier League Handbook Season 2015/16” (PDF). Premier League. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2016.
  2. ^ “Man United must aim for top four, not title challenge – Mourinho”. Reuters. 2 tháng 11 năm 2018.
  3. ^ “Marcus Rashford's 92nd minute winner enough for Man United to scrape a win at Bournemouth”. independent.
  4. ^ “BBC ON THIS DAY - 14 - 1969: Matt Busby retires from Man United”. bbc.co.uk.
  5. ^ “The 49 trophies of Sir Alex Ferguson - the most successful managerial career Britain has ever known”. The Independent. London: Independent Print. 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  6. ^ Stewart, Rob (ngày 1 tháng 10 năm 2009). “Sir Alex Ferguson successful because he was given time, says Steve Bruce”. The Daily Telegraph. London: Telegraph Media Group. Truy cập 11 tháng 5 năm 2011.
  7. ^ Northcroft, Jonathan (5 tháng 11 năm 2006). “20 glorious years, 20 key decisions”. The Sunday Times. London: Times Newspapers. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  8. ^ “Deloitte Money League: Manchester United second only to Real Madrid in list of world's richest clubs”. Sky Sports. BSkyB. 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập 23 tháng 1 năm 2015.
  9. ^ Gibson, Owen (2 tháng 3 năm 2010). “Manchester United fall behind Barcelona on Deloitte rich list”. The Guardian. London: Guardian News and Media. Truy cập 6 tháng 4 năm 2010.
  10. ^ “Real Madrid 'most valuable' sports team – Forbes”. BBC Sport (British Broadcasting Corporation). 15 tháng 7 năm 2015. Truy cập 20 tháng 7 năm 2015.
  11. ^ “Manchester United is 'most valuable football brand'”. BBC. British Broadcasting Corporation. ngày 8 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2015.
  12. ^ Schwartz, Peter J. (18 tháng 4 năm 2012). “Manchester United Again The World's Most Valuable Soccer Team”. Forbes Magazine. Truy cập 5 tháng 5 năm 2012.
  13. ^ a b c Hamil (2008), tr. 126.
  14. ^ a b "Barça, the most loved club in the world". Marca. Truy cập 15 tháng 12 năm 2014
  15. ^ a b c Barnes et al. (2001), tr. 8
  16. ^ James (2008), tr. 66.
  17. ^ Tyrrell & Meek (1996), tr. 99.
  18. ^ a b c Barnes et al. (2001), tr. 9.
  19. ^ James (2008), tr. 92.
  20. ^ Barnes et al. (2001), tr. 118.
  21. ^ Barnes et al. (2001), tr. 11.
  22. ^ a b c Barnes et al. (2001), tr. 12.
  23. ^ Barnes et al. (2001), tr. 13
  24. ^ Barnes et al. (2001), tr. 10.
  25. ^ Murphy (2006), tr. 71.
  26. ^ Glanville, Brian (27 tháng 4 năm 2005). “The great Chelsea surrender”. The Times. London: Times Newspapers. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  27. ^ Barnes et al. (2001), tr. 14–15.
  28. ^ “1958: United players killed in air disaster”. BBC News. British Broadcasting Corporation. ngày 6 tháng 2 năm 1958. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  29. ^ Barnes et al. (2001), tr. 16–17.
  30. ^ White, Jim (2008), tr. 136.
  31. ^ Barnes et al. (2001), tr. 17.
  32. ^ a b Barnes et al. (2001), tr. 18–19.
  33. ^ Moore, Rob; Stokkermans, Karel (11 tháng 12 năm 2009). “European Footballer of the Year ("Ballon d'Or")”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  34. ^ a b Barnes et al. (2001), tr. 19.
  35. ^ Barnes et al. (2001), tr. 110.
  36. ^ Murphy (2006), tr. 134.
  37. ^ “1977: Manchester United sack manager”. BBC News. British Broadcasting Corporation. ngày 4 tháng 7 năm 1977. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.
  38. ^ Barnes et al. (2001), tr. 20.
  39. ^ a b c Barnes et al. (2001), tr. 20–21.
  40. ^ Barnes et al. (2001), tr. 21.
  41. ^ Barnes et al. (2001), tr. 148.
  42. ^ Barnes et al. (2001), tr. 148–149.
  43. ^ “Arise Sir Alex?”. BBC News. British Broadcasting Corporation. ngày 27 tháng 5 năm 1999. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.
  44. ^ Bevan, Chris (4 tháng 11 năm 2006). “How Robins saved Ferguson's job”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.
  45. ^ “Ryan Giggs wins 2009 BBC Sports Personality award”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. 13 tháng 12 năm 2009. Truy cập 11 tháng 6 năm 2010.
  46. ^ “United crowned kings of Europe”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. ngày 26 tháng 5 năm 1999. Truy cập 22 tháng 6 năm 2010.
  47. ^ Hoult, Nick (28 tháng 8 năm 2007). “Ole Gunnar Solskjaer leaves golden memories”. The Daily Telegraph. London: Telegraph Media Group. Truy cập 23 tháng 7 năm 2011.
  48. ^ Magnani, Loris; Stokkermans, Karel (30 tháng 4 năm 2005). “Intercontinental Club Cup”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  49. ^ Hughes, Rob (8 tháng 3 năm 2004). “Ferguson and Magnier: a truce in the internal warfare at United”. The New York Times. The New York Times Company. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  50. ^ “Viduka hands title to Man Utd”. BBC Sport (British Broadcasting Corporation). 4 tháng 5 năm 2003. Truy cập 14 tháng 8 năm 2014.
  51. ^ “Man Utd win FA Cup”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. 22 tháng 5 năm 2004. Truy cập 9 tháng 7 năm 2010.
  52. ^ “Manchester United's Champions League exits, 1993–2011”. The Guardian. Guardian News and Media. 8 tháng 12 năm 2011. Truy cập 14 tháng 8 năm 2014.
  53. ^ Shuttleworth, Peter (21 tháng 5 năm 2008). “Spot-on Giggs overtakes Charlton”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập 9 tháng 7 năm 2010.
  54. ^ McNulty, Phil (1 tháng 3 năm 2009). “Man Utd 0–0 Tottenham (aet)”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập 1 tháng 3 năm 2009.
  55. ^ McNulty, Phil (16 tháng 5 năm 2009). “Man Utd 0–0 Arsenal”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập 16 tháng 5 năm 2009.
  56. ^ Ogden, Mark (12 tháng 6 năm 2009). “Cristiano Ronaldo transfer: World-record deal shows football is booming, says Sepp Blatter”. The Daily Telegraph. London: Telegraph Media Group. Truy cập 9 tháng 1 năm 2011.
  57. ^ “Rooney the hero as United overcome Villa”. ESPNsoccernet. 28 tháng 2 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2010. Truy cập 2 tháng 4 năm 2010.
  58. ^ Stone, Simon (14 tháng 5 năm 2011). “Manchester United clinch record 19th English title”. The Independent. London: Independent Print. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2011.
  59. ^ “How Manchester United won the 2012–13 Barclays Premier League”. premierleague.com. Premier League. 22 tháng 4 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2013.
  60. ^ “Sir Alex Ferguson to retire as Manchester United manager”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2013.
  61. ^ “Sir Alex Ferguson to retire this summer, Manchester United confirm”. Sky Sports. BSkyB. 8 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2013.
  62. ^ “Sir Alex Ferguson is the greatest manager ever – and only Mourinho can catch him | Goal.com”. www.goal.com.
  63. ^ Rubio, Alberto; Clancy, Conor (23 tháng 5 năm 2019). “Guardiola on his way to becoming the most successful coach of all time”. Marca.
  64. ^ “David Moyes: Manchester United appoint Everton boss”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2013.
  65. ^ “Manchester United confirm appointment of David Moyes on a six-year contract”. Sky Sports. BSkyB. 9 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2013.
  66. ^ Jackson, Jamie (9 tháng 5 năm 2013). “David Moyes quits as Everton manager to take over at Manchester United”. guardian.co.uk. Guardian News and Media. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2013.
  67. ^ “David Moyes sacked by Manchester United after just 10 months in charge”. The Guardian. Guardian News and Media. 22 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2014.
  68. ^ Hassan, Nabil (11 tháng 5 năm 2014). “Southampton 1–1 Man Utd”. British Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2014.
  69. ^ “Manchester United: Louis van Gaal confirmed as new manager”. BBC Sport (British Broadcasting Corporation). 19 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2014.
  70. ^ Jackson, Jamie (28 tháng 5 năm 2014). “Manchester United owner Malcolm Glazer dies aged 86”. The Guardian. Guardian News and Media. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2014.
  71. ^ “José Mourinho has signed pre-contract agreement with Manchester United – report”. The Guardian. 20 tháng 3 năm 2016.
  72. ^ Stone, Simon; Roan, Dan (23 tháng 5 năm 2016). “Manchester United: Louis van Gaal sacked as manager”. BBC Sport. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2016.
  73. ^ “Jose Mourinho: Man Utd confirm former Chelsea boss as new manager”. BBC Sport. 27 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2016.
  74. ^ “Stoke City 1-1 Manchester United”. BBC Sport.
  75. ^ “Ole Gunnar Solskjaer: Man Utd caretaker boss will 'get players enjoying football' again”. BBC Sport. 20 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2018.
  76. ^ “Ole Gunnar Solskjaer appointed Manchester United permanent manager”. Sky Sports. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2019.
  77. ^ “Leading football clubs announce new Super League competition”. www.manutd.com.
  78. ^ Rosetta, Vince (20 tháng 4 năm 2021). “Manchester United figures react to Super League news”. The Busby Babe.
  79. ^ Luckhurst, Samuel (21 tháng 4 năm 2021). “Brands halted sponsorship talks with Premier League clubs over Super League”. Manchester Evening News.
  80. ^ “European Super League offends principles of competition - Boris Johnson”. BBC Sport. 20 tháng 4 năm 2021.
  81. ^ “Keir Starmer urges government to block English clubs' involvement in European Super League”. The Independent. 20 tháng 4 năm 2021.
  82. ^ “Manchester United to withdraw from European Super League”. ManUtd.com.
  83. ^ “Woodward resigns as Man United vice-chairman”. ESPN.com. 20 tháng 4 năm 2021.
  84. ^ “Man Utd v Liverpool off after protest”. BBC Sport.
  85. ^ “Man Utd beat nine-man Southampton 9-0”. BBC Sport.
  86. ^ “Solskjaer shown up as familiar failings extend Man Utd's trophy drought | Goal.com”. www.goal.com.
  87. ^ “Manchester United football club honours”. www.11v11.com.
  88. ^ “Club statement on Ole Gunnar Solskjær”. ManUtd.com. Manchester United. 21 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2021.
  89. ^ “Manchester United appoint Ralf Rangnick as interim manager”. BBC Sport. 29 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2022.
  90. ^ “Manchester United appoints Erik Ten Hag as Manager”. manutd.com. 21 tháng 4 năm 2022.
  91. ^ “Backroom Staff Appointments Confirmed”. Manchester United. 23 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2022.
  92. ^ a b Barnes et al. (2001), tr. 49.
  93. ^ a b c d e f Barnes et al. (2001), tr. 48.
  94. ^ “adidas and Manchester United release new home kit for 2016/17”. ManUtd.com. Manchester United. 23 tháng 7 năm 2016. Truy cập 31 tháng 7 năm 2016.
  95. ^ Devlin (2005), tr. 157.
  96. ^ “Reds unveil new away kit”. ManUtd.com (Manchester United). ngày 15 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2011.
  97. ^ “13.04.96 Manchester United's grey day at The Dell”. The Independent. ngày 15 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2012.
  98. ^ Devlin (2005), tr. 158.
  99. ^ “United reveal blue third kit for 2014/15 season”. ManUtd.com (Manchester United). ngày 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2014.
  100. ^ Devlin (2005), tr. 154–159.
  101. ^ “New blue kit for 08/09”. ManUtd.com (Manchester United). ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010.
  102. ^ White, Jim (2008) tr. 21.
  103. ^ James (2008), tr. 392.
  104. ^ Shury & Landamore (2005), tr. 54.
  105. ^ Shury & Landamore (2005), tr. 51.
  106. ^ a b c Shury & Landamore (2005), tr. 21–22.
  107. ^ Shury & Landamore (2005), tr. 24.
  108. ^ Shury & Landamore (2005), tr. 33–34.
  109. ^ a b Inglis (1996), tr. 234.
  110. ^ Rollin và Rollin, tr. 254–255.
  111. ^ White, John (2007), tr. 11.
  112. ^ Barnes et al. (2001), tr. 44–45.
  113. ^ “Man Utd 3–0 Birmingham”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. 26 tháng 3 năm 2006. Truy cập 29 tháng 1 năm 2011.
  114. ^ Coppack, Nick (31 tháng 3 năm 2007). “Report: United 4 Blackburn 1”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập 3 tháng 12 năm 2010.
  115. ^ Morgan (2010), tr. 44–48.
  116. ^ Bartram, Steve (19 tháng 11 năm 2009). “OT100 #9: Record gate”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập 3 tháng 12 năm 2010.
  117. ^ “Barclays Premier League Stats: Team Attendance – 2012–13”. ESPN FC. ESPN Internet Ventures. 3 tháng 5 năm 2013. Truy cập 11 tháng 5 năm 2013.
  118. ^ “German Bundesliga Stats: Team Attendance – 2012–13”. ESPN FC. ESPN Internet Ventures. Truy cập 11 tháng 5 năm 2013.
  119. ^ “Spanish La Liga Stats: Team Attendance – 2012–13”. ESPN FC. ESPN Internet Ventures. Truy cập 11 tháng 5 năm 2013.
  120. ^ Rice, Simon (ngày 6 tháng 11 năm 2009). “Manchester United top of the 25 best supported clubs in Europe”. The Independent. London: Independent Print. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2009.
  121. ^ “Local Supporters Clubs”. ManUtd.com (Manchester United). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010.
  122. ^ Cass, Bob (15 tháng 12 năm 2007). “United moving down south as fanbase reaches 333 million”. Daily Mail. London: Associated Newspapers. Truy cập 20 tháng 6 năm 2010.
  123. ^ "Top 100 Facebook fan pages" Lưu trữ 2015-02-09 tại Wayback Machine. FanPageList.com. Truy cập 23 tháng 11 năm 2015
  124. ^ “Manchester United fans the Premier League's loudest, says study”. ESPN FC. ESPN Internet Ventures. ngày 24 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
  125. ^ “Fans' Forum”. ManUtd.com (Manchester United). Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2010.
  126. ^ Barnes et al. (2001), tr. 52.
  127. ^ Smith, Martin (ngày 15 tháng 4 năm 2008). “Bitter rivals do battle”. The Daily Telegraph. London: Telegraph Media Group. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2010.
  128. ^ Stone, Simon (ngày 16 tháng 9 năm 2005). “Giggs: Liverpool our biggest test”. Manchester Evening News. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2010.
  129. ^ Rohrer, Finlo (ngày 21 tháng 8 năm 2007). “Scouse v Manc”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2010.
  130. ^ Dunning (1999), tr. 151.
  131. ^ “Arsenal v Manchester United head-to-head record”. Arsenal official web. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2013.
  132. ^ “Rivalry between Arsène Wenger and Sir Alex Ferguson unmatched in sport”. The Guardian. ngày 31 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2013.
  133. ^ “Top 30 Football Club Brands” (PDF). Brand Finance. tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2011.
  134. ^ Badenhausen, Kurt (ngày 16 tháng 7 năm 2012). “Manchester United Tops The World's 50 Most Valuable Sports Teams”. Forbes. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2012.
  135. ^ “Real Madrid becomes the first sports team in the world to generate €400m in revenues as it tops Deloitte Football Money League”. Deloitte. 2 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2010. Truy cập 22 tháng 6 năm 2010.
  136. ^ Ozanian, Mike (ngày 27 tháng 1 năm 2013). “Manchester United Becomes First Team Valued At $3 Billion”. Forbes. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2013.
  137. ^ a b Hamil (2008), tr. 116.
  138. ^ Hamil (2008), tr. 124.
  139. ^ Hamil (2008), tr. 121.
  140. ^ “Beckham fever grips Japan”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. ngày 18 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
  141. ^ Hamil (2008), tr. 120.
  142. ^ Hamil (2008), tr. 122.
  143. ^ “MU mất tài trợ từ Vodafone vào tay Champions League”. Việt Nam: Báo vnexpress.net. ngày 24 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2014.
  144. ^ “Oilinvest to renegotiate Juventus sponsorship”. SportBusiness (SBG Companies). 7 tháng 9 năm 2006. Truy cập 28 tháng 5 năm 2007.
  145. ^ “Man Utd sign £56m AIG shirt deal”. BBC News. British Broadcasting Corporation. 6 tháng 4 năm 2006. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  146. ^ Smith, Ben; Ducker, James (ngày 3 tháng 6 năm 2009). “Manchester United announce £80 million sponsorship deal with Aon”. The Times. London: Times Newspapers. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
  147. ^ “DHL delivers new shirt deal”. ManUtd.com (Manchester United). ngày 22 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2011.
  148. ^ “Manchester United unveils two new commercial deals”. BBC News. British Broadcasting Corporation. ngày 22 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2011.
  149. ^ “Manchester United buy back training kit sponsorship rights from DHL”. The Guardian. Guardian News and Media. ngày 26 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2014.
  150. ^ Ogden, Mark (ngày 7 tháng 4 năm 2013). “Manchester United to sign £180m Aon deal to change name of Carrington training base”. The Telegraph. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2014.
  151. ^ “Admiral: Heritage”. Admiral Sportswear. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2010.
  152. ^ Devlin (2005), tr. 149.
  153. ^ Devlin (2005), tr. 148.
  154. ^ Hamil (2008), tr. 127.
  155. ^ “Man Utd in £300m Nike deal”. BBC News. British Broadcasting Corporation. ngày 3 tháng 11 năm 2000. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2010.
  156. ^ Wachman, Richard (ngày 24 tháng 4 năm 2010). “Manchester United fans call on corporate sponsors to back fight against Glazers”. The Guardian. London: Guardian News and Media. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2010.
  157. ^ Edgecliffe, Andrew (ngày 4 tháng 8 năm 2012). “GM in record Man Utd sponsorship deal”. FT.com. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2012.
  158. ^ “Chevrolet signs seven year deal”. ManUtd.com (Manchester United). ngày 30 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2012.
  159. ^ "Manchester United unveils two new commercial deals". BBC News. British Broadcasting Corporation. 22 tháng 8 năm 2011. Truy cập 22 August 2011.
  160. ^ Edgecliffe, Andrew (4 tháng 8 năm 2012). "GM in record Man Utd sponsorship deal". FT.com. Truy cập 29 October 2012.
  161. ^ “Premier League: Sportswear giants Nike to end Manchester United sponsorship”. Sky Sports. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
  162. ^ Anderson, David (14 tháng 7 năm 2014). “Manchester United and Adidas announce record-breaking £750million 10-year kit deal”. The Mirror. Truy cập 15 tháng 1 năm 2017.
  163. ^ Jackson, Jamie (ngày 14 tháng 7 năm 2014). “Manchester United sign record 10-year kit deal with Adidas worth £750m”. theguardian.com. Guardian News and Media. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  164. ^ "DHL delivers new shirt deal". ManUtd.com. Manchester United. 22 tháng 8 năm 2011. truy cập 22 tháng 8 năm 2011.
  165. ^ "Premier League: Sportswear giants Nike to end Manchester United sponsorship". Sky Sports. truy cập 9 tháng 7 năm 2014.
  166. ^ Crick & Smith (1990), tr. 181.
  167. ^ Crick & Smith (1990), tr. 92.
  168. ^ White, Jim (2008), tr. 92.
  169. ^ Dobson & Goddard (2004), tr. 190.
  170. ^ a b c “1989: Man U sold in record takeover deal”. BBC News. British Broadcasting Corporation. ngày 18 tháng 8 năm 1989. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  171. ^ Dobson & Goddard (2004), tr. 191.
  172. ^ Bose (2007), tr. 157.
  173. ^ Bose (2007), tr. 175.
  174. ^ Bose (2007), tr. 234–235.
  175. ^ “Glazer Man Utd stake exceeds 75%”. BBC News. British Broadcasting Corporation. 16 tháng 5 năm 2005. Truy cập 11 tháng 8 năm 2007.
  176. ^ “Glazer gets 98% of Man Utd shares”. BBC News. British Broadcasting Corporation. 23 tháng 6 năm 2005. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  177. ^ “Glazers Tighten Grip On United With Debt Refinancing”. The Political Economy of Football. 8 tháng 7 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2011. Truy cập 11 tháng 8 năm 2008.
  178. ^ “Manchester United reveal refinancing plans”. RTÉ (Raidió Teilifís Éireann). 18 tháng 7 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 1 năm 2012. Truy cập 24 tháng 6 năm 2010.
  179. ^ “Manchester United debt hits £716m”. BBC News. British Broadcasting Corporation. 20 tháng 1 năm 2010. Truy cập 26 tháng 1 năm 2010.
  180. ^ “Manchester United to raise £500m”. BBC News. British Broadcasting Corporation. 11 tháng 1 năm 2010. Truy cập 26 tháng 1 năm 2010.
  181. ^ Wilson, Bill (22 tháng 1 năm 2010). “Manchester United raise £504m in bond issue”. BBC News. British Broadcasting Corporation. Truy cập 26 tháng 1 năm 2010.
  182. ^ Hughes, Ian (23 tháng 1 năm 2010). “Man Utd 4–0 Hull”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập 26 tháng 1 năm 2010.
  183. ^ “Prime Minister Gordon Brown warns football over debts”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. 25 tháng 1 năm 2010. Truy cập 26 tháng 1 năm 2010.
  184. ^ Hassan, Nabil; Roan, Dan (30 tháng 1 năm 2010). “Wealthy Man Utd fans approach broker about takeover”. BBC Sport. British Broadcasting Corporation. Truy cập 4 tháng 3 năm 2010.
  185. ^ Gibson, Owen (16 tháng 8 năm 2011). “Manchester United eyes a partial flotation on Singapore stock exchange”. The Guardian. London: Guardian News and Media. Truy cập 17 tháng 8 năm 2011.
  186. ^ 1Hrishikesh, Sharanya; Pandey, Ashutosh (3 tháng 7 năm 2012). “Manchester United picks NYSE for U.S. public offering”. Thomson Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập 4 tháng 7 năm 2012.
  187. ^ Rushe, Dominic (10 tháng 8 năm 2012). “Manchester United IPO: share prices cut before US stock market flotation”. The Guardian. Guardian News and Media. Truy cập 24 tháng 8 năm 2012.
  188. ^ “Man Utd First Team Squad & Player Profiles”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2022.
  189. ^ a b “Manchester United FC - Squad”. UEFA.com. Union of European Football Associations. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2022.
  190. ^ Carney, Sam (17 tháng 1 năm 2020). “Maguire to be new United captain”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2020.
  191. ^ Bethu, Nagasudha (1 tháng 9 năm 2022). “Transfer news: Dubravka joins on loan”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
  192. ^ “Henderson completes season–long loan move”. ManUtd.com. Manchester United. 2 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2022.
  193. ^ “Fernandez signs new deal before loan move”. ManUtd.com. Manchester United. 26 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2022.
  194. ^ “Transfers news: Telles agrees loan move”. ManUtd.com. Manchester United. 4 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2022.
  195. ^ “Transfer news: Bailly secures loan move”. ManUtd.com. Manchester United. 24 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2022.
  196. ^ “Hannibal loaned to championship club”. ManUtd.com. Manchester United. 30 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2022.
  197. ^ “Transfer news: Amad seals loan move”. ManUtd.com. Manchester United. 1 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2022.
  198. ^ “2019/20 Premier League squad numbers”. PremierLeague.com. Premier League. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2019.
  199. ^ “Man Utd Reserves Squad & Players Profiles”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2020.
  200. ^ “Phelan confirmed as United assistant manager”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 10 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2019.
  201. ^ a b c Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên sky
  202. ^ Luckhurst, Samuel (ngày 10 tháng 11 năm 2019). “Ole Gunnar Solskjaer hails impact of new Manchester United coach Martyn Pert”. Manchestereveningnews.co.uk. Manchester Evening News. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  203. ^ “Fletcher joins United's coaching staff”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 4 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
  204. ^ “Richard Hartis appointed senior goalkeeping coach”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 22 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2019.
  205. ^ “Man Utd appoint Craig Mawson as new assistant goalkeeping coach”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 30 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2019.
  206. ^ “Robin Sadler joins Manchester United”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 4 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2021.
  207. ^ “How Manchester United are getting their players fitter for the new season”. Manchestereveningnews.co.uk. Manchester Evening News. ngày 22 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  208. ^ a b Marshall, Adam (ngày 6 tháng 7 năm 2019). “Reds confirm additions to first-team staff”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2019.
  209. ^ a b “Club announces academy restructure”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 22 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2019.
  210. ^ Marshall, Adam (ngày 29 tháng 7 năm 2019). “Introducing Man Utd U23s lead coach Neil Wood”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2019.
  211. ^ “Neil Ryan takes charge of United's Under-18s”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 21 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2018.
  212. ^ Barnes et al. (2014), tr. 54–57.
  213. ^ Red Football Shareholder Limited: Group of companies' accounts made up to ngày 30 tháng 6 năm 2009. Downloaded from Companies House UK
  214. ^ “Board of Directors”. ManUtd.com. Manchester United. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2013.
  215. ^ “Manchester United appoints Cliff Baty as Chief Financial Officer”. ManUtd.com. Manchester United. ngày 26 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2015.
  216. ^ “The appointment of Collette Roche at Manchester United is a step forward for football – a game blighted by sexism”. inews.com. iNews. ngày 19 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2018.
  217. ^ Gardner, Neil (ngày 8 tháng 10 năm 2009). “Martin Edwards voices concerns over Manchester United's future”. The Times. London: Times Newspapers. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2010.
  218. ^ “Sir Alex Ferguson latest: Manager retires but will remain a director”. ngày 8 tháng 5 năm 2013.
  219. ^ “Manchester United appoint Rebecca Britain as club secretary”. Manchester Evening News. ngày 29 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2018.
  220. ^ Bloomfield, Craig (13 tháng 8 năm 2015). “Which club has won the most trophies in Europe? The most successful clubs from the best leagues revealed”. talkSPORT. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  221. ^ Shury & Landamore (2005), tr. 8.
  222. ^ “UNITED ARE EUROPA LEAGUE WINNERS”. manutd.com. ngày 24 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2017.

Đọc thêm

  • Andrews, David L. biên tập (2004). Manchester United: A Thematic Study. London: Routledge. ISBN 0-415-33333-4.
  • Barnes, Justyn; Bostock, Adam; Butler, Cliff; Ferguson, Jim; Meek, David; Mitten, Andy; Pilger, Sam; Taylor, Frank OBE; Tyrrell, Tom (2001) [1998]. The Official Manchester United Illustrated Encyclopedia (ấn bản 3). London: Manchester United Books. ISBN 0-233-99964-7.
  • Bose, Mihir (2007). Manchester Disunited: Trouble and Takeover at the World's Richest Football Club. London: Aurum Press. ISBN 1-84513-121-5.
  • Crick, Michael; Smith, David (1990). Manchester United – The Betrayal of a Legend. London: Pan Books. ISBN 0-330-31440-8.
  • Devlin, John (2005). True Colours: Football Kits from 1980 to the Present Day. London: A & C Black. ISBN 0-7136-7389-3.
  • Dobson, Stephen; Goddard, John (2004). “Ownership and Finance of Professional Soccer in England and Europe”. Trong Fort, Rodney; Fizel, John (biên tập). International Sports Economics Comparisons. Westport, CT: Praeger Publishers. ISBN 0-275-98032-4.
  • Dunning, Eric (1999). Sport Matters: Sociological Studies of Sport, Violence and Civilisation. London: Routledge. ISBN 978-0-415-09378-1.
  • Hamil, Sean (2008). “Case 9: Manchester United: the Commercial Development of a Global Football Brand”. Trong Chadwick, Simon; Arth, Dave (biên tập). International Cases in the Business of Sport. Oxford: Butterworth-Heinemann. ISBN 978-0-7506-8543-6.
  • Inglis, Simon (1996) [1985]. Football Grounds of Britain (ấn bản 3). London: CollinsWillow. ISBN 0-00-218426-5.
  • James, Gary (2008). Manchester: A Football History. Halifax: James Ward. ISBN 978-0-9558127-0-5.
  • Morgan, Steve (Tháng 3 năm 2010). McLeish, Ian (biên tập). “Design for life”. Inside United. Haymarket Network (212). ISSN 1749-6497.
  • Murphy, Alex (2006). The Official Illustrated History of Manchester United. London: Orion Books. ISBN 0-7528-7603-1.
  • Rollin, Glenda; Rollin, Jack. Sky Sports Football Yearbook 2008–2009. London: Headline Publishing Group. ISBN 978-0-7553-1820-9.
  • Shury, Alan; Landamore, Brian (2005). The Definitive Newton Heath F.C. SoccerData. ISBN 1-899468-16-1.
  • Tyrrell, Tom; Meek, David (1996) [1988]. The Hamlyn Illustrated History of Manchester United 1878–1996 (ấn bản 5). London: Hamlyn. ISBN 0-600-59074-7.
  • White, Jim (2008). Manchester United: The Biography. London: Sphere. ISBN 978-1-84744-088-4.
  • White, John (2007) [2005]. The United Miscellany (ấn bản 2). London: Carlton Books. ISBN 978-1-84442-745-1.

Liên kết ngoài

  • Trang web chính thức (tiếng Ả Rập) (tiếng Trung) (tiếng Anh) (tiếng Pháp) (tiếng Nhật) (tiếng Hàn) (tiếng Tây Ban Nha)
  • Trang thống kê chính thức
  • Trang chủ của Independent Manchester United Supporters Association
  • Trang chủ của Manchester United Supporters' Trust
  • Manchester United tại Sky Sports
  • Manchester United Lưu trữ 2011-06-06 tại Wayback Machine tại Premier League

Top 25 chạy trở lại trong lịch sử NFL

0 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Ferd Kaufman/Associated Press

    Có phải tính năng chạy lại một giống chó sắp chết trong NFL? & NBSP;

    Nhiều người cảm thấy như vậy, và thật khó để làm mất uy tín tình cảm này. Trên thực tế, trước năm 2013, chưa bao giờ có một bản nháp mà không chạy lại được chọn ở vòng đầu tiên, nhưng giờ họ đã bị bỏ qua trong những năm liên tiếp. & NBSP;

    Có lẽ hai bản nháp vừa qua đã yếu đuối với tài năng ở vị trí này, nhưng không thể bỏ qua đây là một chỉ số về hướng mà giải đấu đang di chuyển trong phạm vi và đó là hướng tới âm mưu tấn công nhanh, nặng. & NBSP;—and that is toward fast-paced, pass-heavy offensive scheming. 

    Nhưng liệu sự tồn tại của sự trở lại nổi bật có mờ dần vào lịch sử hay không, điều đó sẽ vẫn quan trọng để suy ngẫm về nhiều người đã vượt qua những người đã vượt qua giải đấu trong những năm qua và đã có rất nhiều điều mà rất nhiều điều mà dường như không thể Biên soạn danh sách 25 tên mà không bỏ qua một số vĩ đại nhất mọi thời đại. & NBSP;—and there have been many—so many that it seems almost impossible to compile a list of 25 names without leaving off several of the all-time greats. 

    Để biện minh cho những trường hợp không thể tránh khỏi này, tôi sẽ nhấn mạnh tầm quan trọng đối với các bảng xếp hạng này về hiệu suất của mỗi người chơi vào lúc cao điểm trong sự nghiệp của anh ấy, sự nghiệp chính của anh ấy liên quan đến các đồng nghiệp của anh ấy và đóng góp chung của anh ấy cho đội của họ, tất cả đều liên quan đến khoảng thời gian khi Anh ấy đã chơi. & NBSP;

    Trước khi đọc, lưu ý rằng danh sách này sẽ chỉ bao gồm những người chơi thời đại hiện đại do thiếu bằng chứng thống kê cho các hậu vệ có sản xuất chính được đưa ra trước năm 1950. & NBSP;

    Và như mọi khi, hãy thoải mái để lại phản hồi trong phần bình luận bên dưới! & NBSP;

25. Tiki Barber (1997-2006)

1 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Chris Gardner/Associated Press

    Đội: & NBSP; Người khổng lồ New York (10 mùa) New York Giants (10 seasons)

    Accolades: & NBSP; Đội đầu tiên một lần All-Pro, Pro Bowler ba lần One-time first-team All-Pro, three-time Pro Bowler

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 10,449 sân gấp rút (24), 55 lần chạm bóng vội vã (55), 4,7 yard mỗi lần mang 10,449 rushing yards (24th), 55 rushing touchdowns (55th), 4.7 yards per carry, 5,183 receiving yards

    Thợ cắt tóc đã tỏ ra vô giá trong suốt nhiệm kỳ của mình với Người khổng lồ, bao gồm toàn bộ sự nghiệp chuyên nghiệp của anh ta. & NBSP;

    Anh ta là một vận động viên tuyệt vời, và với đôi bàn tay mềm mại, anh ta nguy hiểm như một người nhận ra khỏi sân sau. Khi anh ta kiếm được một công việc bắt đầu vào năm 2000, bộ kỹ năng cân bằng của anh ta đã đảm bảo với anh ta một công việc bắt đầu cho đến khi anh ta không thể chơi trong giải đấu nữa. & NBSP;

    Từ năm 2000 trở đi, thợ cắt tóc đã đạt được hơn 1.900 sân đa năng và tám lần chạm bóng mỗi mùa với mức trung bình 4,8 yard mỗi cỗ xe. & NBSP;

    Trong lịch sử, anh ta thường bị bỏ qua, nhưng vì sự nhất quán và tiến bộ của anh ta với tư cách là một cầu thủ cho đến những năm cuối cùng trong giải đấu, anh ta đã bỏ phiếu cho Hall of Fame. & NBSP;

24. John Riggins (1971-1985)

2 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Báo chí liên quan

    Đội: New York Jets (năm mùa), Washington Redskins (chín mùa)New York Jets (five seasons), Washington Redskins (nine seasons)

    Accolades: Đội đầu tiên một lần All-Pro, Pro Bowler một lần, 1982 Super Bowl MVPOne-time first-team All-Pro, one-time Pro Bowler, 1982 Super Bowl MVP

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 11.352 sân gấp rút (thứ 16), 104 lần chạm bóng vội 11,352 rushing yards (16th), 104 rushing touchdowns (sixth), 3.9 yards per carry, 2,090 receiving yards

    Riggins là mặt đất nguyên mẫu chạy trở lại trong suốt sự nghiệp 14 năm của mình. Anh ta chưa bao giờ là một trong những người chơi bùng nổ nhất ở vị trí của mình, nhưng anh ta là một người làm việc cho Redskins, đặc biệt là vào cuối sự nghiệp, và họ đã đưa anh ta đến một chiến thắng Super Bowl vào năm 1982. & NBSP;

    Mặc dù anh ta chỉ được chọn vào một Pro Bowl, anh ta được nhớ đến vì đã bất chấp tuổi tác và gấp rút cho một lần chạm bóng 24 kỷ lục vào năm 1983, mùa giải chuyên nghiệp thứ 12 của anh ta. Anh ấy đã theo dõi nó với một mùa giải 14 lần ấn tượng khác vào năm 1984 ở tuổi 35. & NBSP;

    Hạn chế đối với sơ yếu lý lịch của anh ấy là trung bình thấp trên mỗi mang của anh ấy và thiếu đóng góp như một người nhận. Tuy nhiên, bảng xếp hạng lịch sử cao của anh ấy trong tổng số sân và các lần chạm bóng kiếm cho anh ấy một vị trí trong danh sách này. & NBSP;

23. Curtis Martin (1995-2005)

3 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Gregory Bull/Associated Press

    Team (s): & nbsp; New England Patriots (ba mùa), New York Jets (tám mùa)New England Patriots (three seasons), New York Jets (eight seasons)

    Accolades: & NBSP; Đội đầu tiên một lần All-Pro, Pro Bowler năm lầnOne-time first-team All-Pro, five-time Pro Bowler

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 14.101 sân gấp rút (thứ tư), 90 lần chạm bóng vội vã (12), 4,0 yard mỗi lần mang, 14,101 rushing yards (fourth), 90 rushing touchdowns (12th), 4.0 yards per carry, 3,329 receiving yards

    Curtis Martin ổn định của một nhà sản xuất như vị trí này từng thấy. Chỉ trong một mùa giải cuối cùng của anh ấy ở tuổi 32, anh ấy đã không tạo ra 1.000 yard sau khi hoàn thành kỳ tích trong 10 mùa giải chuyên nghiệp đầu tiên của anh ấy ở New England và bảy lần ở New York. & NBSP;his final one at the age of 32did he fail to produce 1,000 yards after accomplishing the feat in his first 10 professional seasons—three times in New England and seven times in New York. 

    Mãi đến mùa thứ 10, anh mới thực sự củng cố vị trí của mình trong Hội trường Danh vọng. 1.697 sân ào ạt của anh ấy đã dẫn đầu giải đấu và đánh dấu một sự nghiệp cao. Ông đã thêm 14 lần chạm bóng để mang lại tổng số sự nghiệp của mình trong vòng năm của thế kỷ. & NBSP;

    Martin sẽ luôn được biết đến với độ tin cậy của anh ấy và cách anh ấy chăm sóc bóng đá, chỉ dò dẫm 29 lần trong hơn 4.000 lần chạm vào sự nghiệp. Anh ta cũng có thể được tính vào sân, chỉ thiếu bốn trận trong 10 mùa giải NFL đầu tiên. & NBSP;

22. Jim Taylor (1958-1967)

4 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Bill Ingraham/Associated Press

    Team (s): & nbsp; Green Bay Packers (chín mùa), New Orleans Saints (một mùa)Green Bay Packers (nine seasons), New Orleans Saints (one season)

    Accolades: & NBSP; Đội một một lần All-Pro, Pro Bowler năm lần, 1962 NFL MVPOne-time first-team All-Pro, five-time Pro Bowler, 1962 NFL MVP

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 8,597 rushing yards (36th), 83 rushing touchdowns (16th), 4.4 yards per carry, 1,756 receiving yards

    Tương tự như Riggins, Taylor là một người chạy bộ nguyên mẫu, nhưng không giống như Riggins, thành công của anh đến sớm trong sự nghiệp. Trong kéo dài năm năm từ mùa giải thứ ba đến thứ bảy NFL, Taylor trung bình 1.214 yard và 14 lần chạm bóng mỗi mùa trên 4,9 yard mỗi lần mang. & NBSP;

    Anh ấy được biết đến nhiều nhất với màn trình diễn mẫu mực trong một trò chơi tiêu đề NFL mũi khó khăn giữa Packers và New York Giants, người có một trong những hàng phòng ngự mập mạp nhất của giải đấu. Anh ấy đã mang bóng 33 lần và ghi bàn thắng của đội chỉ trong chiến thắng 16-7. & NBSP;

    Đối với một sức mạnh chạy trở lại, hiệu quả gấp rút của Taylor là cao đáng ngạc nhiên và giành được MVP vào năm 1962, anh ta ở trong công ty hiếm hoi trong số các hoạt động. & NBSP;

21. Tony Dorsett (1977-1988)

5 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Nonymous/Associated Press

    Team (s): & nbsp; Dallas Cowboys (11 mùa), Denver Broncos (một mùa) Dallas Cowboys (11 seasons), Denver Broncos (one season)

    Giải thưởng: & NBSP; Đội đầu tiên một lần All-Pro, Bowler bốn lần One-time first-team All-Pro, four-time Pro Bowler

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 12.739 sân gấp rút (thứ tám), 77 lần chạm bóng vội 12,739 rushing yards (eighth), 77 rushing touchdowns (21st), 4.3 yards per carry, 3,554 receiving yards

    Dorsett gần với một điều chắc chắn như bất kỳ hoạt động nào được phác thảo trong thời kỳ hiện đại. Tại Pittsburgh, anh ấy là một người Mỹ bốn lần và giành được chiếc cúp Heisman mùa cao cấp của anh ấy. & NBSP;

    Và anh ta không lãng phí thời gian để mang theo sản phẩm đó cho NFL. Trong chín mùa đầu tiên của anh ấy với Cowboys, anh ấy đã đạt được 1.204 yard và tám lần chạm bóng mỗi mùa trong khi trung bình 4,4 yard mỗi lần mang theo. Anh ấy đã làm, tuy nhiên, đấu tranh với các vụ lộn xộn, trung bình tám mỗi mùa so với cùng một đoạn. & NBSP;

    Cuối cùng, anh ấy là một cầu thủ bóng đá vô cùng tài năng và toàn diện với sự nghiệp bao gồm một chuyến thăm trò chơi vô địch NFC ấn tượng và hai chuyến đi Super Bowl. & NBSP;

20. Larry Csonka (1968-1979)

6 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    HTW/Associated Press

    Team (s): & nbsp; Miami Dolphins (chín mùa), Người khổng lồ New York (ba mùa) Miami Dolphins (nine seasons), New York Giants (three seasons)

    Accolades: & NBSP; Đội một All-Pro hai lần, năm lần Pro Bowler, 1973 Super Bowl MVP Two-time first-team All-Pro, five-time Pro Bowler, 1973 Super Bowl MVP

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 8,081 rushing yards (43rd), 64 rushing touchdowns (40th), 4.3 yards per carry, 820 receiving yards

    Đứng ở 6'3 ", 235 pounds, Csonka không phải là người dễ dàng trở lại nhất trong danh sách này để giảm xuống, đặc biệt là khi anh ta có một cái đầu đầy hơi. chiếm ưu thế vào đầu những năm 70. & nbsp;

    Bởi vì anh ta là một hậu vệ thực sự, số liệu thống kê của anh ta không bao giờ tăng vọt như hầu hết các lần chạy trong danh sách này, nhưng sản xuất của anh ta phù hợp như một người chạy bộ, và anh ta cũng đóng góp như một người chặn mạnh.

    Trong một đoạn đường từ năm 1970 đến năm 1973, anh đã trung bình hơn 1.000 sân vội vã và sáu lần chạm bóng vội vã mỗi mùa với mức trung bình 4,9 yard mỗi cỗ xe không phải là những chiến công nhỏ cho một hậu vệ. MVP Super Bowl năm 1973 của anh ấy cũng có anh ấy ở lãnh thổ hiếm hoi ở vị trí của mình. & NBSP;—not small feats for a fullback. His 1973 Super Bowl MVP also has him in rare territory at his position. 

19. Edgerrin James (1999-2009)

7 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Phil Coale/Associated Press

    Team (s): & NBSP; Indianapolis Colts (bảy mùa), Hồng y Arizona (ba mùa), Seattle Seahawks (một mùa) Indianapolis Colts (seven seasons), Arizona Cardinals (three seasons), Seattle Seahawks (one season)

    Giải thưởng: & NBSP; Đội đầu tiên một lần All-Pro, Bowler bốn lần One-time first-team All-Pro, four-time Pro Bowler

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 12.739 sân gấp rút (thứ tám), 77 lần chạm bóng vội 12,246 rushing yards (11th), 80 rushing touchdowns (19th), 4.0 yards per carry, 3,364 receiving yards

    Dorsett gần với một điều chắc chắn như bất kỳ hoạt động nào được phác thảo trong thời kỳ hiện đại. Tại Pittsburgh, anh ấy là một người Mỹ bốn lần và giành được chiếc cúp Heisman mùa cao cấp của anh ấy. & NBSP;

    Và anh ta không lãng phí thời gian để mang theo sản phẩm đó cho NFL. Trong chín mùa đầu tiên của anh ấy với Cowboys, anh ấy đã đạt được 1.204 yard và tám lần chạm bóng mỗi mùa trong khi trung bình 4,4 yard mỗi lần mang theo. Anh ấy đã làm, tuy nhiên, đấu tranh với các vụ lộn xộn, trung bình tám mỗi mùa so với cùng một đoạn. & NBSP;

    Cuối cùng, anh ấy là một cầu thủ bóng đá vô cùng tài năng và toàn diện với sự nghiệp bao gồm một chuyến thăm trò chơi vô địch NFC ấn tượng và hai chuyến đi Super Bowl. & NBSP;

20. Larry Csonka (1968-1979)

6 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    HTW/Associated Press

    Team (s): & nbsp; Miami Dolphins (chín mùa), Người khổng lồ New York (ba mùa) Los Angeles/St. Louis Rams (three seasons), Pittsburgh Steelers (10 seasons)

    Accolades: & NBSP; Đội một All-Pro hai lần, năm lần Pro Bowler, 1973 Super Bowl MVP Two-time first-team All-Pro, six-time Pro Bowler

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 13,662 rushing yards (sixth), 91 rushing touchdowns (10th), 3.9 yards per carry, 1,449 receiving yards

    Đứng ở 6'3 ", 235 pounds, Csonka không phải là người dễ dàng trở lại nhất trong danh sách này để giảm xuống, đặc biệt là khi anh ta có một cái đầu đầy hơi. chiếm ưu thế vào đầu những năm 70. & nbsp;

    Rất ít người tin rằng một lưng lớn như vậy có thể rất nhanh nhẹn, nhưng anh ta không phải là người cho phép cân nặng của anh ta hạn chế anh ta. Sự nghiệp 13 năm của anh bao gồm kéo dài sáu mùa giải 1.000 yard liên tiếp. Nếu chấn thương và một đường tấn công suy yếu không giới hạn sản xuất của anh ta vào đầu những năm 2000, anh ta có thể đã mở rộng chuỗi đó. & NBSP;

17. Franco Harris (1972-1984)

9 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Nonymous/Associated Press

    Đội: & NBSP; Pittsburgh Steelers (12 mùa), Seattle Seahawks (một mùa) Pittsburgh Steelers (12 seasons), Seattle Seahawks (one season)

    Accolades: & NBSP; Đội một một lần All-Pro, Chín lần Pro Bowler, 1974 Super Bowl MVP One-time first-team All-Pro, nine-time Pro Bowler, 1974 Super Bowl MVP

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 12.120 sân gấp rút (13), 91 lần chạm bóng vội 12,120 rushing yards (13th), 91 rushing touchdowns (10th), 4.1 yards per carry, 2,287 receiving yards

    Harris nổi tiếng nhất với "sự tiếp đón vô nhiễm" khi anh ta bắt được một đường chuyền để mang lại cho Steelers chiến thắng playoff đầu tiên của họ từ trước đến nay, một chiến thắng 13-7 trước Raiders, nhưng di sản của anh ta vượt xa lối chơi đó. & NBSP;but his legacy stretches far beyond that play. 

    Anh ta là một khía cạnh nhất quán trong hành vi phạm tội của Steelers trong hơn một thập kỷ và vượt qua 1.000 sân ào ạt tám lần cho đội. Có lẽ khía cạnh ấn tượng hơn trong di sản của anh ấy là khả năng nâng cao hiệu suất của anh ấy trong vòng playoffs. Anh ấy đã dẫn dắt Steelers chiến thắng trong Super Bowl IX, giành được danh hiệu MVP sau khi gấp rút trong 158 yard. & NBSP;

16. Shaun Alexander (2000-2008)

10 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Elaine Thompson/Associated Press

    Team (s): & nbsp; Seattle Seahawks (tám mùa), Washington Redskins & NBSP; (Một mùa) Seattle Seahawks (eight seasons), Washington Redskins (one season)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro, Pro Bowler ba lần, 2005 NFL MVP, Người chơi tấn công năm 2005 One-time first-team All-Pro, three-time Pro Bowler, 2005 NFL MVP, 2005 Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: 9,453 & nbsp; sân gấp rút (thứ 32), 100 lần chạm bóng vội vã (thứ bảy), 4,3 yard mỗi lần mang9,453 rushing yards (32nd), 100 rushing touchdowns (seventh), 4.3 yards per carry, 1,520 receiving yards

    Sau một mùa giải tân binh khiêm tốn, sản xuất của Alexander được cải thiện đều đặn với kinh nghiệm, cuối cùng lên đến đỉnh điểm với một trong những mùa tuyệt vời nhất từ ​​trước đến nay bằng cách chạy trở lại. & NBSP;

    Vào năm 2005, anh đã vội vã cho 27 lần chạm bóng sau đó, và 1.880 yard của anh đủ tốt để dẫn đầu giải đấu. Anh ấy đã được trao tặng danh hiệu MVP của League và dẫn dắt đội của anh ấy xuất hiện Super Bowl vào cuối mùa giải đó. & NBSP;

    Anh ta thường bị đánh giá thấp, nhưng kéo dài năm năm của anh ta từ năm 2001 đến 2005, 1,501 yard và 19 lần chạm bóng mỗi mùa là một trong những ấn tượng nhất từ ​​trước đến nay khi chạy trở lại.—1,501 yards and 19 touchdowns per seasonis one of the most impressive ever by a running back.

15. Linh mục Holmes (1997-2007)

11 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Larry W Smith/Associated Press

    Team (s) Baltimore Ravens (four seasons), Kansas City Chiefs (six seasons)

    Accolades: & NBSP; Đội một All-Pro ba lần, Pro Bowler ba lần, Người chơi tấn công NFL năm 2002 Three-time first-team All-Pro, three-time Pro Bowler, 2002 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 8.172 sân gấp rút (42), 86 lần chạm bóng vội 8,172 rushing yards (42nd), 86 rushing touchdowns (14th), 4.6 yards per carry, 2,962 receiving yards

    Khi Holmes ở trên, cậu bé đã ở trên. Trong bốn năm kéo dài với các tù trưởng từ năm 2001 đến 2004, anh ấy đã trung bình 101,5 yard mỗi trận, và mặc dù đã bỏ lỡ một nửa mùa giải 2004, anh ấy đã đạt được hơn 1.900 sân đa năng và 20 lần chạm bóng mỗi mùa trong đoạn đường đó. & NBSP ;

    Các mùa giải 20 lần trở lại của Holmes vào năm 2002 và 2003 (lần lượt là 24 và 27 lần chạm bóng) có anh ấy trong số các công ty hạn chế trong số NFL chạy trở lại. Khả năng đóng góp của anh ấy như một người nhận cũng có anh ấy ở vị trí cao trong mắt tôi. & NBSP;

    Nếu anh ấy chỉ có thể xâu chuỗi lại với nhau một vài mùa lành mạnh hơn, tôi không còn nghi ngờ gì nữa, tôi sẽ được xếp hạng trong số ba lần trở lại hàng đầu trong những lần chạm bóng vội vã trong sự nghiệp. & NBSP;

14. Thurman Thomas (1988-2000)

12 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Mark Lennihan/Associated Press

    Đội: Buffalo Bills & nbsp; (12 mùa), Miami Dolphins (một mùa) Buffalo Bills (12 seasons), Miami Dolphins (one season)

    Accolades: & NBSP; Đội một All-Pro hai lần, năm lần Pro Bowler, 1991 NFL MVP, Người chơi tấn công NFL năm 1991 Two-time first-team All-Pro, five-time Pro Bowler, 1991 NFL MVP, 1991 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 12.074 sân vội vã (14), 65 lần chạm bóng vội 12,074 rushing yards (14th), 65 rushing touchdowns (37th), 4.2 yards per carry, 4,458 receiving yards

    Ra khỏi bang Oklahoma ngay trước khi Hall of Fame chạy trở lại Barry Sanders, Thomas nhanh chóng trở thành trụ cột trong số những người chơi hàng đầu ở vị trí trong một thập kỷ. & NBSP;

    Anh ấy là một trong số ít những người ủng hộ vào thời điểm đó là người nhận năng suất cũng như các vận động viên nổi bật. Anh ta đã vội vã trong 1.000 yard trong tám mùa liên tiếp với Buffalo và trên cùng một đoạn đường trung bình 47 lần tiếp nhận và 458 sân nhận mỗi mùa. & NBSP;

    Anh ta chưa bao giờ bùng nổ như Sanders, người mà anh ta sẽ luôn vẽ một sự so sánh không công bằng, nhưng anh ta là một trong những hậu phương cân bằng nhất trong thời đại của anh ta. Với giải thưởng MVP của NFL để khởi động, anh ấy có rất nhiều điều để tự hào khi nhìn lại sự nghiệp của mình. & NBSP;

13. Marcus Allen (1982-1997)

13 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Nonymous/Associated Press

    Đội: Oakland Raiders & NBSP;Oakland Raiders (11 seasons), Kansas City Chiefs (five seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro hai lần, Pro Bowler sáu lần, 1983 Super Bowl MVP, 1985 NFL MVP, 1985 Người chơi tấn công NFL của năm Two-time first-team All-Pro, six-time Pro Bowler, 1983 Super Bowl MVP, 1985 NFL MVP, 1985 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 12.243 sân gấp rút (12), 123 lần chạm bóng vội 12,243 rushing yards (12th), 123 rushing touchdowns (third), 4.1 yards per carry, 5,411 receiving yards

    Khi sự nghiệp của anh kết thúc sau mùa giải 1997, Allen là nhà lãnh đạo chạm bóng vội vã mọi thời đại trong lịch sử NFL. Mặc dù Al Davis đã đưa tài năng chạy trở lại trong nhà ổ chuột trong những năm đầu tiên, anh ấy vẫn có thể đăng một số con số hào nhoáng trong sự nghiệp của mình. & NBSP;

    Anh ta không chỉ dẫn đến Raiders đến chiến thắng Super Bowl XVIII trước Redskins, gấp rút trong 191 yard và hai lần chạm bóng, mà anh ta còn chứng tỏ là một trong những người biểu diễn mùa thường nhất mọi thời đại. Anh trở thành người chơi đầu tiên vượt qua 10.000 sân ào ạt và 5.000 sân tiếp nhận. & NBSP;

12. Terrell Davis (1995-2001)

14 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Elise Amendola/Associated Press

    Đội: & NBSP; Denver Broncos (bảy mùa)Denver Broncos (seven seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro ba lần, Pro Bowler ba lần, Người chơi tấn công NFL năm 1996, & NBSP; 1997 Super Bowl MVP, 1998 NFL MVP, Người chơi tấn công NFL năm 1998 Three-time first-team All-Pro, three-time Pro Bowler, 1996 NFL Offensive Player of the Year, 1997 Super Bowl MVP, 1998 NFL MVP, 1998 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 7.607 sân gấp rút (51), 60 lần chạm bóng vội vã (thứ 45), 4,6 yard mỗi lần mang, 1.280 sân tiếp nhận 7,607 rushing yards (51st), 60 rushing touchdowns (45th), 4.6 yards per carry, 1,280 receiving yards

    Mặc dù sự nghiệp của Davis không dài, nhưng chỉ kéo dài 78 trận trước khi cuối cùng bị đình trệ, sản xuất của anh ấy từ năm 1996 đến năm 1998 đánh dấu một trong những trận đấu đầy rẫy nhất trong lịch sử của vị trí. & NBSP;

    Trong ba năm đó, anh không chỉ được mệnh danh là đội hạng nhất All-Pro mỗi mùa, mà anh còn tích lũy Cầu thủ tấn công của năm danh dự hai lần và danh hiệu MVP của League một lần. Anh ấy đã làm điều này sau các mùa liên tiếp với hơn 2.000 sân đa năng và 15 lần chạm bóng. & NBSP;

    Davis, cũng được biết đến như là "T.D.", vẫn vắng mặt trong Hall of Fame do sự nghiệp viết tắt, nhưng khi bạn nói về những hậu vệ điện nhất trong lịch sử NFL, tên của anh ấy chắc chắn sẽ xuất hiện. & NBSP;

11. Gale Sayers (1965-1971)

15 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Nonymous/Associated Press

    Đội: & NBSP; Chicago Bears (bảy mùa)Chicago Bears (seven seasons)

    Accolades: & NBSP; Đội đầu tiên năm lần All-Pro, Bowler bốn lần Five-time first-team All-Pro, four-time Pro Bowler

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 4.956 sân gấp rút (thứ 132), 39 lần chạm bóng vội vã (113), 5,0 yard mỗi lần mang, 4,956 rushing yards (132nd), 39 rushing touchdowns (113th), 5.0 yards per carry, 1,307 receiving yards

    Sayers đã có một thời gian ngắn trong NFL, thi đấu trong 68 trận đấu trước khi kết thúc sự nghiệp bóng đá ở tuổi 28, nhưng khi anh ấy ở trên sân, anh ấy rất vui khi xem. & NBSP;

    Bất kể mưa hay nắng, anh ta dường như luôn xuất hiện với một cạnh. Anh ta không chỉ là một trong những vận động viên giỏi nhất trên sân, mà khả năng của anh ta để xem các khối của anh ta phát triển trước mặt anh ta được mời chào trên khắp giải đấu. & NBSP;

    Bất chấp sự nghiệp ngắn ngủi của mình, anh đã được giới thiệu vào Hội trường danh vọng vào năm 1977 và vẫn không chỉ là một trong những người chạy trở lại ấn tượng nhất mà còn là một trong những người trở lại tốt nhất, với tám lần chạm bóng chỉ trên 118 lần trở lại. & NBSP;

10. Emmitt Smith (1990-2004)

16 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Eric Gay/Associated Press

    Team (s): & nbsp; Dallas Cowboys (13 mùa), Hồng y Arizona (hai mùa)Dallas Cowboys (13 seasons), Arizona Cardinals (two seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội đầu tiên bốn lần All-Pro, Pro Bowler tám lần, 1993 Super Bowl MVP, 1993 NFL MVP Four-time first-team All-Pro, eight-time Pro Bowler, 1993 Super Bowl MVP, 1993 NFL MVP

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 18.355 sân vội vã (đầu tiên), 164 lần chạm bóng vội vã (đầu tiên), 4,2 yard mỗi lần mang, 18,355 rushing yards (first), 164 rushing touchdowns (first), 4.2 yards per carry, 3,224 receiving yards

    Nhiều độc giả sẽ tranh luận rằng điều này quá thấp đối với người ghi bàn và ghi bàn hàng đầu mọi thời đại của giải đấu trên mặt đất, nhưng tôi trích dẫn mức trung bình vội vàng của anh ấy, đường tấn công ưu tú và đóng góp hạn chế như một người nhận là yếu tố ngăn chặn chính trong cuộc tranh luận cho Smith như một Top-năm mọi thời đại chạy trở lại. & NBSP;

    11.000 mùa liên tiếp của anh ấy là một mùa tốt nhất mọi thời đại, và bạn sẽ không nghe thấy bất kỳ cuộc tranh luận nào từ tôi chống lại sự nhất quán và tuổi thọ ấn tượng của anh ấy. Tuy nhiên, anh ta không bao giờ thống trị trò chơi khi sự ủng hộ trước anh ta trong danh sách này đã làm. & NBSP;

    Bất kể, anh ấy là một người biểu diễn thời gian chính và là một phần quan trọng cho ba đội Cowboys Super Bowl. Đối với những người coi trọng người đóng góp cho các nhóm thành công, anh ta nên cao trong danh sách những người vĩ đại nhất mọi thời đại của bạn. & NBSP;

9. Ladainian Tomlinson (2001-2011)

17 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Denis Poroy/Associated Press

    Đội (s)San Diego Chargers (nine seasons), New York Jets (two seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội đầu tiên ba lần All-Pro, năm lần Pro Bowler, 2006 NFL MVP, Người chơi tấn công NFL năm 2006 Three-time first-team All-Pro, five-time Pro Bowler, 2006 NFL MVP, 2006 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 13.684 sân gấp rút (thứ năm), 145 lần chạm bóng vội 13,684 rushing yards (fifth), 145 rushing touchdowns (second), 4.3 yards per carry, 4,722 receiving yards

    Khi sản xuất từ ​​Shaun Alexander và Priest Holmes bắt đầu rơi ra, Tomlinson là người chạy trở lại bước vào ánh đèn sân khấu vào giữa những năm 2000. Anh ấy đã phá vỡ kỷ lục ghi bàn vẫn còn của Alexander với 31 điểm và 2.323 sân đa năng trong năm 2006. & NBSP;

    Tomlinson giữ một vị trí đặc biệt trong trái tim của nhiều cầu thủ bóng đá giả tưởng với chuỗi chín mùa giải hai chữ số liên tiếp từ năm 2001 đến 2009. Trước khi dòng tấn công của Bộ sạc bắt đầu sụp đổ vào cuối những năm 2000, trung bình vội vàng của anh là một trong số đó thời gian của anh ấy. & nbsp;

    Hai năm của anh ấy với các máy bay phản lực dường như làm mờ danh tiếng của anh ấy một chút, nhưng khi thời gian trôi qua, sự đánh giá cao về những đóng góp của anh ấy cho trò chơi sẽ chỉ tăng lên. & NBSP;

8. Earl Campbell (1978-1985)

18 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Nonymous/Associated Press

    Đội: Houston Oilers & NBSP; (Bảy mùa), New Orleans Saints (hai mùa)Houston Oilers (seven seasons), New Orleans Saints (two seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro, năm lần của PRO, Người chơi tấn công NFL năm 1978, Người chơi tấn công NFL năm 1979 Three-time first-team All-Pro, five-time Pro Bowler, 1978 NFL Offensive Player of the Year, 1979 NFL MVP, 1979 NFL Offensive Player of the Year, 1980 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 9,407 rushing yards (12th), 74 rushing touchdowns (24th), 4.3 yards per carry, 5,411 receiving yards

    Rất ít người chạy trở lại đã từng bùng nổ trong bối cảnh như Earl Campbell. Dòng Stat của anh ấy trong ba mùa giải đầu tiên của anh ấy trong giải đấu là ... Chà ... điên rồ: 5.081 sân ào ạt và 45 lần chạm bóng trên 4,9 yard mỗi lần mang. Anh ấy đã dẫn đầu giải đấu vội vã trong mỗi mùa giải đó và lần đầu tiên được ghi bàn trong hai trong số ba. & NBSP;

    Với đùi Herculean và tốc độ dài để phù hợp, bạn phải cảm thấy tiếc cho những người chơi phòng thủ đã cản đường anh ấy. Anh ta trông giống như một người đàn ông trong số các chàng trai, và thật khó để tin rằng cơ thể của anh ta kéo dài miễn là nó đã làm với việc đánh đập anh ta đã đặt nó qua mỗi Chủ nhật. & NBSP;

    Đáng buồn thay, anh ấy không bao giờ có thể tiếp cận Super Bowl, và màn trình diễn của anh ấy trong các trò chơi vô địch AFC 1978 và 1979 là đáng quên, nhưng với một trong những phong cách chạy độc đáo nhất từ ​​trước đến nay, anh ấy là một trong những người bạn yêu thích của tôi từng chơi trò chơi. & nbsp;

7. Marshall Faulk (1994-2005)

19 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Leon Đại số/Associated Press

    Đội: Indianapolis Colts & NBSP; (Năm mùa), St. Louis Rams (bảy mùa)Indianapolis Colts (five seasons), St. Louis Rams (seven seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội đầu tiên ba lần All-Pro, Pro Bowler bảy lần, 2000 NFL MVP, Cầu thủ tấn công 2000 NFL, Cầu thủ tấn công của năm 2001 Three-time first-team All-Pro, seven-time Pro Bowler, 2000 NFL MVP, 2000 NFL Offensive Player of the Year, 2001 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 12.279 sân vội vã (10), 100 lần chạm bóng vội vã (thứ bảy), 4,3 yard mỗi lần mang 12,279 rushing yards (10th), 100 rushing touchdowns (seventh), 4.3 yards per carry, 6,875 receiving yards

    Nhiều người hâm mộ quên rằng sự nghiệp của Faulk bắt đầu ở Indianapolis, và có lẽ đó là điều tốt nhất. Mãi cho đến khi anh tham gia "chương trình tuyệt vời nhất trên sân cỏ", sản xuất của anh ấy đã tăng vọt về cấp độ Hall of Fame. & NBSP;

    Trong ba mùa đầu tiên của mình với St. Louis, anh đã tích lũy được 4.122 sân ào ạt, 2.643 sân và 59 lần chạm bóng với mức trung bình 5,4 yard trên thế giới này. 84 lần tiếp khách của anh ấy mỗi mùa trong đoạn đường này cũng đặt ra một điểm chuẩn cho các scatback được đo lường trong tương lai. & NBSP;

    Faulk cũng không phải là một người nhút nhát từ giai đoạn lớn; Màn trình diễn dài 159 yard của anh ấy trong trận đấu NFC Championship 2001 là chìa khóa cho chiến thắng của Rams trước Eagles. Anh ta cũng củng cố vị thế của mình như một trong những người nhận ngoài sân tốt nhất từng có khi anh ta bắt được năm đường chuyền trong 90 yard trong chiến thắng Super Bowl XXXIV trước Tennessee. & NBSP;

6. O.J. Simpson (1969-1979)

20 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Báo chí liên quan

    Team (s): & nbsp; Buffalo Bills (chín mùa), San Francisco 49ers (hai mùa)Buffalo Bills (nine seasons), San Francisco 49ers (two seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro năm lần, Pro Bowler sáu lần, NFL MVP, 1973 Five-time first-team All-Pro, six-time Pro Bowler, 1973 NFL MVP, 1973 Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 11.236 sân gấp rút (18), 61 lần chạm bóng vội 11,236 rushing yards (18th), 61 rushing touchdowns (43rd), 4.7 yards per carry, 2,142 receiving yards

    Mọi người thậm chí còn nhớ rằng O.J. Simpson là một trong những người chạy tốt nhất từ ​​trước đến nay? Không có cầu thủ nào làm mờ danh tiếng của mình nhiều hơn trong cuộc sống sau NFL của mình, nhưng người ta không thể phủ nhận năng lực của mình trên sân bóng. & NBSP;

    Kỷ lục của anh ấy 143,1 sân gấp rút mỗi trận trong mùa giải 1973 vẫn khiến tôi kinh ngạc; Đây có khả năng là kỷ lục không thể phá vỡ nhất trong bóng đá. & NBSP;

    6.0 yard mỗi lần mang mùa đó và 4,7 trung bình cho sự nghiệp của anh ấy là những yếu tố rất lớn trong sự hiện diện cao của anh ấy trong danh sách này. Rất ít người chạy trở lại chiếm ưu thế hơn so với Simpson. Trong kéo dài năm năm từ năm 1972 đến năm 1976, anh đã chạy tới 7.699 yard và 54 lần chạm bóng, dẫn đầu giải đấu trong bốn trong số năm mùa. & NBSP;

5. Eric Dickerson (1983-1993)

21 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Steve Pyle/Associated Press

    (S): & nbsp; st. Louis Rams (năm mùa), & NBSP; Indianapolis Colts (năm mùa), Los Angeles Raiders (một mùa), Atlanta Falcons (một mùa)St. Louis Rams (five seasons), Indianapolis Colts (five seasons), Los Angeles Raiders (one season), Atlanta Falcons (one season)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro năm lần, Pro Bowler sáu lần, Người chơi tấn công NFL năm 1986 Five-time first-team All-Pro, six-time Pro Bowler, 1986 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 13.259 sân gấp rút (thứ bảy), 90 lần chạm bóng vội 13,259 rushing yards (seventh), 90 rushing touchdowns (12th), 4.4 yards per carry, 2,137 receiving yards

    Tương tự như Earl Campbell, Dickerson không lãng phí thời gian để đưa ra trường hợp của mình cho Hội trường danh vọng. Trong bảy mùa giải đầu tiên của anh ấy trong giải đấu, anh ấy đã vượt qua 1.000 sân gấp rút mỗi lần trên đường tới 11.226 tổng số sân ào ạt và 82 lần chạm bóng vội vã trên đoạn đường đó. & NBSP;

    Chấn thương đều đặn gây thiệt hại cho Dickerson, người đã sản xuất nhanh chóng sau mùa giải 1989, thứ hai của anh với Colts. & NBSP;

    Mùa giải 2.105 yard của anh ấy vào năm 1984 vẫn là màn trình diễn gấp rút một mùa hàng đầu của bất kỳ cầu thủ nào trong lịch sử NFL, mặc dù Adrian Peterson đã gõ cửa sổ với 2.097 yard vào năm 2012. & NBSP;

4. Walter Payton (1975-1987)

22 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    John Swart/Associated Press

    Đội: & NBSP; Chicago Bears (13 mùa)Chicago Bears (13 seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro năm lần, Chín lần Pro Bowler, 1977 NFL MVP, & NBSP; Five-time first-team All-Pro, nine-time Pro Bowler, 1977 NFL MVP, 1977 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 16.726 sân vội vã (thứ hai), 110 lần chạm bóng vội 16,726 rushing yards (second), 110 rushing touchdowns (fourth), 4.4 yards per carry, 4,538 receiving yards

    Có lẽ không có biệt danh thích hợp nào trong số những người chơi trong danh sách này hơn là của Walter "ngọt ngào" Payton; NFL đổi tên thành giải thưởng Người đàn ông của năm sau khi chạy lại do những nỗ lực nhân đạo của anh ấy trong suốt cuộc đời. & NBSP;

    Payton cũng ngọt ngào như vậy trên sân và xuất hiện để lướt qua các hậu vệ trên đường để lập kỷ lục cho sự nghiệp vội vã ở mức 16.726 (đã bị phá vỡ bởi Emmitt Smith). & NBSP;

    Bears chạy trở lại là một trong số ít trong danh sách này vẫn ở trong một đội trong suốt sự nghiệp của anh ấy, và anh ấy đã làm như vậy trong thời trang ngoạn mục, với rất ít sản xuất khi anh ấy già đi. & NBSP;

    Anh ấy cũng cực kỳ bền bỉ, chơi trong 186 trận liên tiếp tại một thời điểm trong sự nghiệp của mình. & NBSP;

3. Adrian Peterson (2007-Hiện tại)

23 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Ann Heisenfelt/Associated Press

    ĐộiMinnesota Vikings (seven seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội đầu tiên ba lần All-Pro, Pro Bowler sáu lần, 2012 NFL MVP, Người chơi tấn công NFL 2012 Three-time first-team All-Pro, six-time Pro Bowler, 2012 NFL MVP, 2012 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 10.115 sân gấp rút (27), 86 lần chạm bóng vội vã (14), 5,0 yard mỗi lần mang, 1.697 sân tiếp nhận 10,115 rushing yards (27th), 86 rushing touchdowns (14th), 5.0 yards per carry, 1,697 receiving yards

    Một số người sẽ thấy điều này là quá cao trong bảng xếp hạng cho một người chơi trong sự nghiệp của anh ấy, nhưng Peterson đã chứng tỏ là một trong những người ưu tú chạy trở lại để chơi trò chơi. & NBSP;

    Sự kết hợp giữa thể chất, bùng nổ cấp hai và khả năng thoát khỏi khả năng thoát khỏi sự kìm kẹp của những người bảo vệ khiến anh ta trở nên giải trí, và sản xuất ưu tú của anh ta , điều này làm cho số của anh ấy thậm chí còn ấn tượng hơn. & NBSP;—98.2 yards per game over his career—has come in the age of the quarterback, which makes his numbers even more impressive. 

    Cũng xem xét rằng anh ta đã không có một nhóm người xuất sắc trước mặt anh ta và đã chiến đấu trở lại sau một số chấn thương, bao gồm một ACL bị rách trước mùa giải 2.097 yard của anh ta. & NBSP;

    Nếu Peterson có thể vẫn khỏe mạnh, anh ấy sẽ tiến hành kết thúc giữa những người ghi bàn hàng đầu và những người vội vàng trong lịch sử giải đấu. & NBSP;

2. Jim Brown (1957-1965)

24 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    Báo chí liên quan

    Đội: & NBSP; Cleveland Browns (chín mùa)Cleveland Browns (nine seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội đầu tiên tám lần All-Pro, Chín lần Pro Bowler, 1957 NFL MVP, 1958 NFL MVP, 1965 NFL MVP Eight-time first-team All-Pro, nine-time Pro Bowler, 1957 NFL MVP, 1958 NFL MVP, 1965 NFL MVP

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 12.312 sân gấp rút (thứ chín), 106 lần chạm bóng vội 12,312 rushing yards (ninth), 106 rushing touchdowns (fifth), 5.2 yards per carry, 1,697 receiving yards

    Brown chỉ được xếp hạng thứ hai vì dường như quá nhiều cảnh sát để có một chiếc cà vạt ở vị trí số 1, và thật khó để so sánh sản xuất từ ​​nửa thế kỷ trước với các huyền thoại hiện đại hơn. & NBSP;

    Tuy nhiên, đây không phải là một chút đối với Brown, người mà tôi có trong một tầng trên các lần chạy trở lại được xếp hạng bên dưới anh ta. Anh ấy đã đến Pro Bowl trong mỗi một mùa giải NFL của mình và được đặt tên là đội một All-Pro tám lần. Nói một cách đơn giản, anh ta là người chơi thống trị nhất trong thời đại của mình. & NBSP;

    Trung bình 5,2 yard mỗi cet-carry của anh ấy và trung bình 104,3 yard mỗi trò chơi là bằng chứng cho sự vượt trội của anh ấy. Anh ta xếp hạng trong số những cầu thủ giỏi nhất trong lịch sử giải đấu. & NBSP;

1. Barry Sanders (1989-1998)

25 trên 25

    Top 5 mặt sau chạy tốt nhất trong nfl năm 2022

    John Swart/Associated Press

    Đội: & NBSP; Detroit Lions (10 mùa)Detroit Lions (10 seasons)

    ACCOLADES: & NBSP; Đội một All-Pro thứ nhất sáu lần, Pro Bowler 10 lần, Người chơi tấn công NFL năm 1994, NFL MVP, 1997 Six-time first-team All-Pro, 10-time Pro Bowler, 1994 NFL Offensive Player of the Year, 1997 NFL MVP, 1997 NFL Offensive Player of the Year

    Số liệu thống kê chính: & NBSP; 15.269 sân gấp rút (thứ ba), 99 lần chạm bóng vội vã (thứ năm), 5,0 yard mỗi lần mang 15,269 rushing yards (third), 99 rushing touchdowns (fifth), 5.0 yards per carry, 2,921 receiving yards

    Sanders không chỉ là những người chạy trở lại thú vị nhất mà còn là người có năng suất cao nhất và có lợi cho thành công của đội anh ta. & NBSP;

    Nếu không có Sanders, thập niên 90 sẽ là một thập kỷ dài cho Lions. Anh ta đã xoay sở để thực hiện hành vi phạm tội trên vai mà không có nhiều tài năng trên đường tấn công hoặc vũ khí để đánh lạc hướng phòng thủ khỏi trò chơi đang chạy.

    Mặc dù họ tập trung vào việc chứa anh ta, phòng thủ không bao giờ thực sự tìm ra cách làm điều đó. Với đôi mắt ở phía sau đầu và sự nhanh nhẹn không thể tin được, anh ấy luôn là một số ít để có kế hoạch trò chơi chống lại, và những con số kể cùng một câu chuyện. & NBSP;

    Sanders đã vượt qua 1.000 yard trên mặt đất và được bầu cho Pro Bowl trong mỗi mùa anh ấy chơi trong NFL trước khi gọi nó thoát vì thiếu đam mê để tiếp tục. Nếu anh ta ở lại trong các miếng đệm, không biết tổng số sân của anh ta có thể leo lên như thế nào. & NBSP;

    Tất cả các số liệu thống kê và giải thưởng lịch sử lịch sự của & nbsp; pro-football-reference.com.

Ai là RB số 1 trong NFL?

Derrick Henry, Jonathan Taylor Top ESPN xếp hạng của RB tốt nhất bước vào mùa giải NFL 2022. Derrick Henry của Tennessee Titans đã được bầu chọn là đỉnh cao của NFL chạy lại trong năm thứ hai liên tiếp trong một cuộc khảo sát của ESPN về các giám đốc điều hành, huấn luyện viên, trinh sát và cầu thủ của giải đấu., Jonathan Taylor Top ESPN Rankings of Best RBs Entering 2022 NFL Season. The Tennessee Titans' Derrick Henry was voted as the NFL's top running back for the second straight year in an ESPN survey of the league's executives, coaches, scouts and players.

Ai là RB 2022 tốt nhất?

Trong một thông báo dịch vụ công cộng giả tưởng, Tennessee Titans chạy lại Derrick Henry có một số từ cho các nhà quản lý tưởng tượng đang tránh RB trong các bản nháp. Không có gì ngạc nhiên đối với hầu hết các cầu thủ giả tưởng của chúng tôi rằng Jonathan Taylor không chỉ là người đứng đầu trong bảng xếp hạng vị trí của chúng tôi, mà anh ấy có thể sẽ là số.

Ai là người chạy tốt nhất trong NFL?

Dưới đây là 10 lần chạy trở lại tốt nhất bước vào mùa giải 2022:..
Dalvin Cook, Minnesota Viking. ....
Nick Chubb, Cleveland Browns. ....
Najee Harris, Pittsburgh Steelers. ....
Austin Ekeler, Bộ sạc Los Angeles. ....
Joe Mixon, Cincinnati Bengals. ....
Alvin Kamara, New Orleans Saints. ....
Leonard Fournette, Tampa Bay Buccaneers ..

Top 10 chạy trở lại mọi thời đại trong NFL là ai?

25 NFL vĩ đại nhất của Gil Brandt mọi thời đại..
1/25. Joe Perry.San Francisco 49ers, 1948-1960 và 1963;Baltimore Colts, 1961-1962.....
2/25. Ollie Matson.....
3/25. Jim Taylor.....
4/25. Larry Csonka.....
5/25. Marcus Allen.....
6/25. Marion Motley.....
7/25. Terrell Davis.....
8/25. John Riggins ..