Top 10 quốc gia xuất khẩu vũ khí 2022 năm 2023
Lần đầu tiên, Việt Nam tổ chức Triển lãm Quốc phòng Quốc tế 2022 (Vietnam Defence 2022) từ ngày 08-10/12 tại sân bay Gia Lâm, Hà Nội, để « các nhà sản xuất trong nước và các nhà cung cấp hàng đầu thế giới có cơ hội giới thiệu các hệ thống trang bị, vũ khí, kỹ thuật tiên tiến nhất ngay tại Việt Nam ». Trong số khoảng 29 quốc gia tham dự, có Mỹ, Ả Rập Xê Út, Pháp, Đức và đặc biệt là Nga, nhà cung cấp vũ khí chính cho Việt Nam. Show
Tuy nhiên, nguồn cung này khó được bảo đảm trong tương lai do Nga đã sử dụng số vũ khí khổng lồ trên chiến trường Ukraina từ chín tháng qua. Theo thống kê của trang Oryx chuyên theo dõi thiệt hại quân sự trên chiến trường Ukraina, tính đến ngày 06/10/2022, Nga đã mất khoảng 50% số xe tăng tác chiến, 40% số xe bọc thép bộ binh, 1/10 đội bay, hạm đội và hệ thống tên lửa. Có thể thấy, ưu tiên trước mắt của Matxcơva sẽ là bổ sung khí tài cho quân đội. Ngoài ra, khả năng sản xuất sẽ không được bảo đảm do Nga bị phương Tây cấm vận, trong khi nhiều linh kiện điện tử lại chủ yếu nhập từ phương Tây. Trả lời RFI Tiếng Việt, nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, trực thuộc trường Đại học New South Wales, Úc, giải thích thêm về hợp tác quân sự Việt-Nga, cũng như việc điều chỉnh chính sách nhập khẩu vũ khí của Hà Nội. RFI : Việt Nam là khách hàng mua vũ khí lớn của Nga với khoảng 75% được nhập từ Nga. Xin anh cho biết, cụ thể Việt Nam nhập những loại thiết bị quân sự nào ? Nguyễn Thế Phương : Hiện tại, thứ nhất do vấn đề lịch sử và thứ hai là do một số vấn đề mang tính kỹ-chiến thuật cho nên hầu như mọi vũ khí, từ lớn đến nhỏ của Việt Nam hiện nay đều nhập từ Nga và một số nước Đông Âu cũ thuộc Liên Xô. Việt Nam đang sử dụng và nhập khẩu hầu như tất cả các loại vũ khí lớn, quan trọng nhất. Ví dụ toàn bộ các loại máy bay trong Không quân Việt Nam đều là các dòng máy bay của Nga. Các tầu chiến của Hải quân Việt Nam từ tầu nhỏ đến tầu lớn, phải nói là 95% đều thứ nhất là có nguồn gốc từ Liên Xô cũ và thứ hai là sản phẩm của các ngành công nghiệp quốc phòng Nga. Về bộ binh, cũng tương tự như các binh chủng khác, các loại vũ khí, khí tài, từ xe tăng, xe bọc thép cho tới các loại vũ khí cá nhân, như súng, đều có nguồn gốc từ Liên Xô hoặc mua từ Nga. Kể từ năm 2019, Việt Nam có kế hoạch « Hiện đại hóa » ngay lập tức một số binh chủng. Trong thời điểm đó, tư duy hiện đại hóa quân đội, vũ khí của Việt Nam cũng được đặt trên nền tảng là Việt Nam sẽ tiếp tục sử dụng các loại vũ khí nhập khẩu từ Liên bang Nga. Nói tóm lại, hiện nay, sự phụ thuộc về mặt vũ khí, khí tài và đặc biệt là sự ảnh hưởng đến quá trình hiện đại hóa của tất cả các binh chủng của quân đội Việt Nam hiện nay đều đặt trong một giả định rằng vũ khí của Nga sẽ là một nền tảng quan trọng cho quá trình hiện đại hóa đó. RFI : Chiến tranh Ukraina đã buộc Nga huy động nhiều loại vũ khí, thiết bị quân sự ra chiến trường và chịu khá nhiều tổn thất. Việc này có ảnh hưởng đến nguồn xuất khẩu của Nga cho các đối tác nước ngoài không ? Và tác động đến Việt Nam như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến khả năng cung cấp vũ khí của Nga cho đối tác nước ngoài. Ảnh hưởng thứ nhất là các đối tác nhìn vào tình hình trên chiến trường và đánh giá khả năng của vũ khí Nga. Và trên thực tế, một số loại vũ khí của Nga đã không thể hiện được tiềm năng như Nga đã quảng cáo. Điểm thứ hai, cuộc chiến của Nga ở Ukraina đã khiến cho Nga tốn rất nhiều nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực về quân sự. Gần đây, nhìn trên chiến trường, người ta thấy là các loại vũ khí, khí tài của Nga tiêu hao trong cuộc chiến – 6 tháng kể từ tháng Hai cho đến giờ – rất là lớn. Thậm chí, Nga đã phải triển khai một số loại vũ khí mà họ đã niêm cất từ rất lâu. Điều đó chứng tỏ rằng tốc độ sản xuất vũ khí hiện tại của Nga không theo kịp với mức độ tiêu hao vũ khí trên chiến trường. Điều này cũng gây ảnh hưởng tới khả năng của ngành công nghiệp quốc phòng Nga tạo ra thêm vũ khí mới có thể đáp ứng các hợp đồng vũ khí với các đối tác nước ngoài. Yếu tố thứ ba là sau cuộc chiến này, rõ ràng là ngành công nghiệp quốc phòng Nga nói riêng và nền kinh tế Nga nói chung chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nặng nề bởi các lệnh cấm vận của phương Tây. Rất nhiều lệnh cấm vận của phương Tây nhắm vào chuỗi cung ứng nguyên nhiên liệu và đặc biệt là công nghệ cho ngành quốc phòng Nga bởi vì phải nói rằng ngành công nghiệp quốc phòng Nga phụ thuộc vào công nghệ phương Tây một phần rất lớn. Họ không hoàn toàn tự chủ 100% công nghệ mà phải nhập một số linh kiện, đặc biệt mang tính công nghệ cao từ các nước phương Tây. Cho nên, việc các nước phương Tây cấm vận khiến cho năng lực sản xuất, cũng như năng lực đổi mới sáng tạo của ngành công nghiệp quốc phòng Nga giảm xuống. Điều này tác động một cách tiêu cực tới việc phát triển các loại vũ khí mới để đáp ứng nhu cầu thị trường vũ khí quốc tế và ảnh hưởng tới những đơn hàng mà Nga đã có với các đối tác nước ngoài. Đó là ba tác động, khá tiêu cực tới viễn cảnh xuất khẩu vũ khí của Nga và tới năng lực của ngành công nghiệp quốc phòng Nga hiện tại. RFI : Anh vừa nêu đến những biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với ngành sản xuất vũ khí của Nga. Về phía Việt Nam, liệu tiếp tục mua vũ khí của Nga, cũng như các dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng và huấn luyện, có gây ảnh hưởng cho Việt Nam không ? Nguyễn Thế Phương : Điều nay gây ảnh hưởng rất lớn. Nó tạo ra một « cú sốc » cho giới lãnh đạo quân sự Việt Nam bởi vì rõ ràng là với tình hình Biển Đông hiện tại, với nhu cầu hiện đại hóa rất lớn, đặc biệt là với các binh chủng, các quân chủng như Hải quân và Không quân, thì việc quốc gia cung cấp cho mình là Nga vấn đề gây ảnh hưởng cực kỳ lớn tới cấp độ hiện đại hóa quân đội Việt Nam hiện nay đặt trong bối cảnh đối thủ lớn nhất của Việt Nam hiện tại là Trung Quốc có một bước hiện đại hóa cực kỳ nhanh. Điều này khiến cho cán cân lực lượng của Việt Nam ở Biển Đông ngày càng bị kéo giãn ra so với Trung Quốc. Mặc dù từ kỳ Đại hội Đảng năm 2016, Việt Nam đã có một số biện pháp nhằm đang dạng hóa nguồn cung cấp vũ khí nhưng việc nguồn cung vũ khí quan trọng nhất từ nước ngoài là từ Nga bị ảnh hưởng như vậy cũng khiến cho một số kế hoạch, đặc biệt là trong việc hiện đại hóa quân đội hơi bị đảo lộn một chút, hơi bị chậm trễ một chút so với kế hoạch. RFI : Vừa rồi anh nêu chính sách ngoại giao quốc phòng Việt Nam và để giảm phụ thuộc vào Nga, Việt Nam đi theo hướng đa dạng hóa nguồn cung. Hiện giờ, Việt Nam đang hướng đến những nhà xuất khẩu nào ? Nguyễn Thế Phương : Bắt đầu từ năm 2016 và có thể sớm hơn, đối với vấn đề hiện đại hóa và mua sắm vũ khí trang bị, Việt Nam làm đồng thời ba cách tiếp cận. Thứ nhất, Việt Nam cố gắng tăng hạn sử dụng các loại vũ khí cũ, điển hình là đề án hiện đại hóa xe tăng T-54, T-55 mà Việt Nam hợp tác Israel chẳng hạn. Cách thứ hai là Việt Nam cố gắng hiện đại hóa ngành công nghiệp quốc phòng nội địa. Việt Nma có cả chiến lược, cả chính sách đầu tư vào một số trung tâm phát triển quốc phòng mạnh như Viettel để chế tạo một số loại vũ khí, khí tài 100% « made in Vietnam ». Cách thứ ba, vẫn là cách truyền thống, là Việt Nam mua sắm vũ khí của các đối tác nước ngoài, như trao đổi từ đầu là 75% vũ khí là từ Nga. Với cách tiếp cận thứ ba, là nguồn mua sắm vũ khí từ Nga bị giảm thì Việt Nam đang cố gắng tập trung vào hai cách tiếp cận đầu. Còn trong trường hợp mua sắm vũ khí từ nước ngoài, từ 5 năm trở lại đây, Việt Nam đã bắt đầu đa dạng hóa nguồn cung, đặc biệt tập trung vào hai đối tác truyền thống là Israel và Ấn Độ. Đối với Israel, hiện tại, ngoài quá trình nâng cấp một số loại vũ khí cũ, nhờ vào công nghệ của Israel thì Việt Nam mua sắm các loại vũ khí cho Không quân, như các loại tên lửa không đối không, các loại tên lửa không đối đất và nhờ công nghệ của Israel trong quá trình hiện đại hóa một số thiết bị trong cách loại vũ khí của Hải quân. Đối với Ấn Độ, Việt Nam tập trung vào mảng an ninh hàng hải và huấn luyện vì cách đây 5-6 năm, có thông tin là Ấn Độ đã hỗ trợ Việt Nam trong việc huấn luyện cho một số phi công máy bay chiến đấu và đặc biệt là huấn luyện nhân lực cho hạm đội tầu ngầm Việt Nam. Đó là hai đối tác lớn truyền thống. Tại sao lại là Israel và Ấn Độ ? Bởi vì hai quốc gia này cũng là hai quốc gia đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chế tạo vũ khí có tích hợp công nghệ của cả Liên Xô, cả Nga và phương Tây. Cho nên, hai đối tác đó cũng là những đối tác quan trọng giúp Việt Nam có khả năng tích hợp các loại vũ khí đa hệ, đa nhiệm. Đó cũng là một lý do khiến Israel và Ấn Độ là đối tác đang nổi lên như vậy. Một đối tác tiềm năng nữa trong tương lai chính là một số quốc gia Đông Bắc Á, như Nhật Bản và đặc biệt là Hàn Quốc. Trong khoảng thời gian 2-3 năm trở lại đây, công nghiệp quốc phòng Hàn Quốc đã trở nên lớn mạnh. Đặc biệt là Hàn Quốc có mối quan hệ rất tốt với Việt Nam và năm 2023, Việt-Hàn nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện. Cũng hy vọng rằng trong tương lai, quan hệ hợp tác an ninh quốc phòng, đặc biệt là mua sắm vũ khí, khí tài với Hàn Quốc cũng có thể được mở rộng hơn và nâng cấp hơn. Đó là ba đối tác, được gọi là « tiềm năng » và « rất tiềm năng » trong tương lai, giúp Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung vũ khí vượt qua khỏi đối tác truyền thống là Nga hiện nay. RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, nghiên cứu sinh tiến sĩ về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, trực thuộc trường Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.
Nguồn: RFI Việt ngữ Ngành công nghiệp vũ khí, còn được gọi là ngành công nghiệp quốc phòng, ngành công nghiệp quân sự, hay buôn bán vũ khí, là một ngành công nghiệp toàn cầu sản xuất và bán vũ khí và công nghệ quân sự.Các công ty khu vực công và khu vực tư nhân tiến hành nghiên cứu và phát triển, kỹ thuật, sản xuất và phục vụ vật liệu quân sự, thiết bị và cơ sở.Khách hàng là lực lượng vũ trang của các quốc gia và thường dân.Arsenal là một nơi mà vũ khí và đạn dược - dù thuộc sở hữu tư nhân hay công khai - được thực hiện, duy trì và sửa chữa, lưu trữ hoặc phát hành, trong bất kỳ sự kết hợp nào.Các sản phẩm của ngành công nghiệp vũ khí bao gồm vũ khí, đạn dược, nền tảng vũ khí, truyền thông quân sự và các thiết bị điện tử khác, v.v.Ngành công nghiệp vũ khí cũng cung cấp hỗ trợ vận hành và hậu cần khác.arms industry, also known as the defense industry, the military industry, or the arms trade, is a global industry which manufactures and sells weapons and military technology. Public sector and private sector firms conduct research and development, engineering, production, and servicing of military material, equipment, and facilities. Customers are the armed forces of states, and civilians. An arsenal is a place where arms and ammunition - whether privately or publicly owned - are made, maintained and repaired, stored, or issued, in any combination. Products of the arms industry include weapons, munitions, weapons platforms, military communications and other electronics, and more. The arms industry also provides other logistical and operational support. Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) ước tính chi tiêu quân sự vào năm 2018 ở mức 1822 tỷ đô la. [1]Điều này thể hiện sự sụt giảm tương đối từ năm 1990, khi chi tiêu quân sự chiếm 4% GDP thế giới.Một phần của tiền được chuyển đến việc mua sắm phần cứng và dịch vụ quân sự từ ngành công nghiệp quân sự.SIPRI. [2]Con số này cao hơn 4,6 % so với doanh thu trong năm 2017 và đánh dấu năm thứ tư liên tiếp tăng trưởng trong 100 doanh số bán vũ khí hàng đầu.Năm 2004, hơn 30 tỷ đô la đã được chi cho thương mại vũ khí quốc tế (một con số không bao gồm doanh số bán vũ khí trong nước). [3]Theo Viện, khối lượng chuyển nhượng quốc tế của vũ khí lớn trong năm 20141818 cao hơn 7,8 % so với năm 200913 và cao hơn 23 % so với năm 20042002008.Năm nhà xuất khẩu lớn nhất trong năm 20141818 là Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Đức và Trung Quốc trong khi năm nhà nhập khẩu lớn nhất là Ả Rập Saudi, Ấn Độ, Ai Cập, Úc và Algeria. [4] Nhiều quốc gia công nghiệp có một ngành công nghiệp vũ khí trong nước để cung cấp lực lượng quân sự của riêng họ.Một số quốc gia cũng có một thương mại vũ khí trong nước hợp pháp hoặc bất hợp pháp để sử dụng bởi chính công dân của họ, chủ yếu cho mục đích tự vệ, săn bắn hoặc thể thao.Thương mại bất hợp pháp trong vũ khí nhỏ xảy ra ở nhiều quốc gia và khu vực bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn chính trị.Cuộc khảo sát vũ khí nhỏ ước tính 875 triệu vũ khí nhỏ lưu hành trên toàn thế giới, được sản xuất bởi hơn 1.000 công ty từ gần 100 quốc gia. [5] Chính phủ trao giải hợp đồng cung cấp cho quân đội của đất nước họ;Hợp đồng vũ khí như vậy có thể trở thành tầm quan trọng chính trị đáng kể.Mối liên hệ giữa chính trị và buôn bán vũ khí có thể dẫn đến sự phát triển của những gì Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower mô tả vào năm 1961 là một khu phức hợp công nghiệp quân sự, nơi các lực lượng vũ trang, thương mại và chính trị được liên kết chặt chẽ, tương tự như phòng thủ đa phương châu Âutạp vụ.Các tập đoàn khác nhau, một số được tổ chức công khai, những người khác riêng tư, đấu thầu các hợp đồng này, thường trị giá nhiều tỷ đô la.Đôi khi, như với hợp đồng cho máy bay chiến đấu tấn công chung quốc tế, một quá trình đấu thầu cạnh tranh diễn ra, với quyết định được đưa ra dựa trên giá trị của các thiết kế được gửi bởi các công ty liên quan.Những lần khác, không có đấu thầu hoặc cạnh tranh diễn ra. History[edit][edit]Vẽ vỏ trong một nhà máy làm đầy vỏ trong Thế chiến I. Trong thời kỳ đầu hiện đại, Anh, Pháp, Hà Lan và một số quốc gia ở Đức đã tự cung cấp sản xuất vũ khí, với sự khuếch tán và di cư của những người lao động lành nghề đến các quốc gia ngoại vi như Bồ Đào Nha và Nga. Ngành công nghiệp vũ khí hiện đại nổi lên trong nửa sau của thế kỷ XIX như là một sản phẩm của sự sáng tạo và mở rộng của các công ty công nghiệp quân sự lớn đầu tiên.Là các quốc gia nhỏ hơn (và thậm chí các nước công nghiệp mới như Nga và Nhật Bản) không còn có thể sản xuất các thiết bị quân sự tiên tiến với tài nguyên và năng lực bản địa của họ, họ ngày càng bắt đầu ký hợp đồng sản xuất các thiết bị quân sự, như tàu chiến, các mảnh pháo và súng trường đểcác công ty nước ngoài. Năm 1854, chính phủ Anh đã trao một hợp đồng cho Công ty Ordnance Elwick về việc cung cấp các mảnh pháo súng được tải mới nhất của ông.Điều này đã mạ điện cho khu vực tư nhân vào sản xuất vũ khí, với thặng dư ngày càng xuất khẩu sang nước ngoài.Armstrong trở thành một trong những đại lý vũ khí quốc tế đầu tiên, bán hệ thống vũ khí của mình cho các chính phủ trên khắp thế giới từ Brazil đến Nhật Bản. [6]Năm 1884, ông đã mở một xưởng đóng tàu tại Elswick để chuyên sản xuất tàu chiến, vào thời điểm đó, đó là nhà máy duy nhất trên thế giới có thể xây dựng một tàu chiến và hoàn toàn vũ trang. [7]Nhà máy sản xuất tàu chiến cho nhiều hải quân, bao gồm cả Hải quân Hoàng gia Nhật Bản.Một số tàu tuần dương Armstrong đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đánh bại hạm đội Nga trong Trận Tsushima vào năm 1905. Trong Nội chiến Hoa Kỳ năm 1861, miền Bắc đã có khoảng mười lần năng lực sản xuất của nền kinh tế của các quốc gia Liên minh Hoa Kỳ.Lợi thế này trên miền Nam bao gồm khả năng sản xuất (với số lượng tương đối nhỏ) súng trường tải breech để sử dụng để chống lại các súng hỏa mai có súng trường của miền Nam.Điều này bắt đầu quá trình chuyển sang vũ khí cơ giới được sản xuất công nghiệp như Gatling Gun. [8] Sự đổi mới công nghiệp này trong ngành công nghiệp quốc phòng đã được Prussia áp dụng vào năm 1866 và 1870.Đến lúc này, súng máy đã bắt đầu vào Arsenals.Những ví dụ đầu tiên về hiệu quả của nó là vào năm 1899 trong Chiến tranh Boer và năm 1905 trong Chiến tranh Russo-Nhật.Tuy nhiên, Đức dẫn đầu sự đổi mới của vũ khí và lợi thế này trong vũ khí của Thế chiến I gần như đã đánh bại các đồng minh. Năm 1885, Pháp quyết định tận dụng thương mại ngày càng sinh lợi này và bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí.Khung pháp lý cho giai đoạn cho đến Chiến tranh thế giới thứ nhất được đặc trưng bởi chính sách Laissez-Faire đặt ít vật cản trong cách xuất khẩu vũ khí.Do cuộc tàn sát của Thế chiến I, các thương nhân vũ khí bắt đầu bị coi là "thương nhân của cái chết" và bị buộc tội đã xúi giục và duy trì cuộc chiến để tối đa hóa lợi nhuận của họ từ việc bán vũ khí.Một cuộc điều tra về những cáo buộc này ở Anh đã không tìm thấy bằng chứng để hỗ trợ họ.Tuy nhiên, sự thay đổi trên biển trong thái độ về chiến tranh nói chung có nghĩa là các chính phủ bắt đầu kiểm soát và điều chỉnh thương mại. Ngăn xếp vỏ trong nhà máy sản xuất vỏ sò trong Thế chiến I. Khối lượng thương mại vũ khí tăng lên rất nhiều trong thế kỷ 20, và nó bắt đầu được sử dụng như một công cụ chính trị, đặc biệt là trong Chiến tranh Lạnh nơi Hoa Kỳ và Liên Xô đã cung cấp vũ khí cho các ủy quyền của họ trên thế giới, đặc biệt là các nước thế giới thứ ba (Xem Học thuyết Nixon). [9] Sectors[edit][edit]Sê -ri vũ khí AK đã được sản xuất với số lượng lớn hơn bất kỳ loại súng nào khác và đã được sử dụng trong các cuộc xung đột trên toàn thế giới. Vũ khí trên đất liền [Chỉnh sửa][edit]Thể loại này bao gồm tất cả mọi thứ, từ vũ khí nhẹ đến pháo hạng nặng, và phần lớn các nhà sản xuất là nhỏ.Nhiều người nằm ở các nước thế giới thứ ba.Thương mại quốc tế về súng ngắn, súng máy, xe tăng, người vận chuyển nhân sự bọc thép và vũ khí tương đối rẻ tiền khác là đáng kể.Có rất ít quy định ở cấp quốc tế, và kết quả là, nhiều vũ khí rơi vào tay tội phạm có tổ chức, lực lượng nổi loạn, khủng bố hoặc chế độ theo lệnh trừng phạt. [10] Vũ khí nhỏ [chỉnh sửa][edit]Chiến dịch Vũ khí Kiểm soát, được thành lập bởi Tổ chức Ân xá Quốc tế, Oxfam và Mạng lưới hành động quốc tế trên vũ khí nhỏ, ước tính vào năm 2003 rằng có hơn 639 triệu vũ khí nhỏ đang lưu hành và hơn 1.135 công ty có trụ sở tại hơn 98 quốc gia sản xuất vũ khí nhỏ nhưcũng như các thành phần và đạn dược khác nhau của họ. [11] Hệ thống hàng không vũ trụ [Chỉnh sửa][edit]Bao gồm các máy bay quân sự (cả hàng không trên đất liền và hải quân), tên lửa thông thường và vệ tinh quân sự, đây là lĩnh vực công nghệ tiên tiến nhất của thị trường.Nó cũng là cạnh tranh ít nhất từ quan điểm kinh tế, với một số ít các công ty thống trị toàn bộ thị trường.Các khách hàng hàng đầu và các nhà sản xuất chính hầu như đều nằm ở thế giới phương Tây và Nga, với Hoa Kỳ dễ dàng ngay từ đầu.Các công ty hàng không vũ trụ nổi tiếng bao gồm Rolls-Royce, Hindustan Aeronautics Limited, BAE Systems, Saab AB, Dassault Hàng không, Sukhoi, Mikoyan, EADS, Leonardo, Thales Group, Lockheed Martin, Northrop Grumman, Raytheon Technologies.Ngoài ra còn có một số tập đoàn đa quốc gia chủ yếu tham gia vào việc sản xuất máy bay chiến đấu, chẳng hạn như Eurofighter.Hợp đồng quân sự lớn nhất trong lịch sử, được ký kết vào tháng 10 năm 2001, liên quan đến việc phát triển máy bay chiến đấu chung. [10] Hệ thống hải quân [Chỉnh sửa][edit]Một số cường quốc thế giới duy trì các lực lượng hải quân đáng kể để cung cấp sự hiện diện toàn cầu, với các quốc gia lớn nhất sở hữu tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân và hệ thống phòng thủ chống không khí tiên tiến.Phần lớn các tàu quân sự được cung cấp năng lượng theo quy ước, nhưng một số là chạy bằng năng lượng hạt nhân.Ngoài ra còn có một thị trường toàn cầu lớn trong các tàu hải quân đã qua sử dụng, thường được mua bởi các nước đang phát triển từ chính phủ phương Tây. [10] Ngành công nghiệp an ninh mạng [Chỉnh sửa][edit]Ngành công nghiệp an ninh mạng đang trở thành ngành công nghiệp quốc phòng quan trọng nhất vì các cuộc tấn công mạng đang được coi là một trong những rủi ro lớn nhất đối với quốc phòng trong mười năm tới khi NATO Tạp chí trích dẫn vào năm 2013. [12]Do đó, mức đầu tư cao đã được đặt trong ngành an ninh mạng để sản xuất phần mềm mới để bảo vệ quá trình chuyển đổi ngày càng tăng sang phần cứng chạy kỹ thuật số.Đối với ngành công nghiệp quân sự, điều quan trọng là các biện pháp bảo vệ được sử dụng cho các hệ thống được sử dụng để trinh sát, giám sát và thu thập thông tin tình báo. Tuy nhiên, các cuộc tấn công trên mạng và những kẻ tấn công mạng đã trở nên tiên tiến hơn trong lĩnh vực của họ bằng cách sử dụng các kỹ thuật như Worm Mạng lưới Horse Horse Trojan (DTHN) động, tấn công bằng không và bot tàng hình.Do đó, ngành công nghiệp an ninh mạng đã phải cải thiện các công nghệ quốc phòng để loại bỏ mọi lỗ hổng về các cuộc tấn công mạng bằng các hệ thống như bảo mật thông tin (SIM), tường lửa thế hệ tiếp theo (NGFWS) và kỹ thuật DDOS. Khi mối đe dọa đối với máy tính tăng lên, nhu cầu bảo vệ mạng sẽ tăng lên, dẫn đến sự phát triển của ngành công nghiệp an ninh mạng.Dự kiến ngành công nghiệp này sẽ bị chi phối bởi các cơ quan an ninh quốc phòng và nội địa sẽ chiếm 40% trong ngành. [13] Chuyển vũ khí quốc tế [Chỉnh sửa][edit]Theo Viện nghiên cứu SIPRI, khối lượng chuyển nhượng quốc tế của vũ khí lớn trong năm 20101414 cao hơn 16 % so với năm 20052002009.Năm nhà xuất khẩu lớn nhất trong năm 20102014 là Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc, Đức và Pháp, và năm nhà nhập khẩu lớn nhất là Ấn Độ, Ả Rập Saudi, Trung Quốc, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Pakistan.Dòng vũ khí đến Trung Đông tăng 87 % trong giai đoạn 200913 và 20141818, trong khi có sự giảm dòng chảy đến tất cả các khu vực khác: Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Á và Châu Đại Dương và Châu Âu. [14] SIPRI đã xác định 67 quốc gia là nhà xuất khẩu vũ khí lớn trong năm 20141818.5 nhà xuất khẩu hàng đầu trong giai đoạn này chịu trách nhiệm cho 75 phần trăm của tất cả các sản xuất vũ khí.Thành phần của năm nhà xuất khẩu vũ khí lớn nhất đã thay đổi từ năm 2014 và 2018 vẫn không thay đổi so với năm 20091313, mặc dù tổng xuất khẩu của họ cao hơn 10 %.Trong năm 2014, 1818, có thể thấy sự gia tăng đáng kể trong xuất khẩu vũ khí từ Mỹ, Pháp và Đức, trong khi xuất khẩu của Trung Quốc tăng nhẹ và xuất khẩu của Nga đã giảm. [14] Trong năm 20141818, 155 quốc gia (khoảng ba phần tư của tất cả các quốc gia) đã nhập khẩu vũ khí lớn.5 người nhận hàng đầu chiếm 33 phần trăm trong tổng số lượng nhập khẩu vũ khí trong giai đoạn này.Năm nhà nhập khẩu vũ khí hàng đầu - Ả Rập Saudi, Ấn Độ, Ai Cập, Úc và Algeria - chiếm 35 % tổng số lượng nhập khẩu vũ khí trong năm 20141818.Trong số này, Ả Rập Saudi và Ấn Độ nằm trong số năm nhà nhập khẩu hàng đầu trong cả hai năm 200913 và 20141818. Trong năm 20141818, khối lượng chuyển nhượng quốc tế chính cao hơn 7,8 % so với năm 2009-13 và 23 % so với năm 2004.Nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất là Ả Rập Saudi, nhập khẩu vũ khí chủ yếu từ Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp.Từ năm 2009, 13 đến 20141818, dòng vũ khí đến Trung Đông tăng 87 %.Cũng bao gồm Ấn Độ, Ai Cập, Úc và Algeria, năm nhà nhập khẩu hàng đầu đã nhận được 35 % tổng số lượng nhập khẩu vũ khí, trong năm 20141818.Bên cạnh đó, các nhà xuất khẩu lớn nhất là Hoa Kỳ, Nga, Pháp, Đức và Trung Quốc. [14] Cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 của Nga đã thay đổi khả năng của các thành viên của Quỹ thể thao bắn súng quốc gia để có được giấy phép xuất khẩu từ việc mất một tháng sang chỉ mất bốn ngày. [15]Điều này là do Bộ Thương mại và Cơ quan Hoa Kỳ liên kết với các lô hàng vũ khí của ITAR đến Ukraine. [16]Ngoài ra, thời gian cần có giấy phép mua súng ở Ukraine cũng giảm từ vài tháng xuống còn vài ngày. [17] Các nhà xuất khẩu vũ khí lớn nhất thế giới [chỉnh sửa][edit]Số liệu là các giá trị chỉ báo xu hướng SIPRI (TiV) được biểu thị bằng hàng triệu.Những con số này có thể không đại diện cho các dòng tài chính thực sự vì giá cho các vũ khí cơ bản có thể thấp như số 0 trong trường hợp viện trợ quân sự.Sau đây là ước tính từ Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm. [18]
Sgraffito tại nhà máy vũ khí Lambert Sevart, ở Liege (Bỉ) (đầu thế kỷ 20). Tổng xuất khẩu vũ khí toàn cầu đã tăng khoảng 6 phần trăm trong 5 năm qua so với giai đoạn 2010-2014 và tăng 20 phần trăm kể từ năm 20052002009. [19] Lưu ý rằng bảng xếp hạng cho các nhà xuất khẩu dưới một tỷ đô la ít có ý nghĩa hơn, vì chúng có thể bị ảnh hưởng bởi các hợp đồng đơn lẻ.Một bức tranh chính xác hơn nhiều về khối lượng xuất khẩu, miễn phí từ các biến động hàng năm, được trình bày bởi trung bình di chuyển 5 năm. Bên cạnh SIPRI, có một số nguồn khác cung cấp dữ liệu về việc chuyển vũ khí quốc tế.Chúng bao gồm các báo cáo quốc gia của các chính phủ quốc gia về xuất khẩu vũ khí, đăng ký của Liên Hợp Quốc về các vũ khí thông thường và một ấn phẩm hàng năm của Dịch vụ nghiên cứu của Quốc hội Hoa Kỳ bao gồm dữ liệu về xuất khẩu vũ khí sang các nước đang phát triển như được biên soạn bởi các cơ quan tình báo Hoa Kỳ.Do các phương pháp và định nghĩa khác nhau đã sử dụng các nguồn khác nhau thường cung cấp dữ liệu khác nhau đáng kể. Nhà xuất khẩu vũ khí sau chiến tranh lớn nhất thế giới [EDIT][edit]Chia sẻ doanh số bán vũ khí theo quốc gia vào năm 2013. Nguồn được cung cấp bởi SIPRI. [20] SIPRI sử dụng "các giá trị chỉ số xu hướng" (TiV).Chúng dựa trên chi phí sản xuất đơn vị đã biết của vũ khí và đại diện cho việc chuyển giao tài nguyên quân sự hơn là giá trị tài chính của việc chuyển nhượng. [21] [22]
*Liên Xô cho đến năm 1991 Các nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới [chỉnh sửa][edit]Các đơn vị nằm trong các giá trị chỉ số xu hướng được biểu thị bằng hàng triệu đô la Mỹ với giá 1990s.Những con số này có thể không đại diện cho các dòng tài chính thực sự vì giá cho các nhánh cơ bản có thể thấp bằng số 0 trong trường hợp viện trợ quân sự. [21]
& NBSP; Trung Quốc & nbsp; Ý[edit]& NBSP; Cộng hòa Séc
% tổng doanh thu từ quốc phòng[edit]Lockheed Martin 89%[edit]Boeing
34%[edit]
References[edit][edit]
Những quốc gia nào xuất khẩu nhiều vũ khí nhất?Thị phần của các nhà xuất khẩu hàng đầu của vũ khí lớn từ năm 2017 đến 2021, theo quốc gia. Quốc gia nào mua hầu hết các vũ khí từ Nga?Ấn Độ không chỉ là nhà nhập khẩu vũ khí lớn nhất thế giới, đây còn là khách hàng lớn nhất của ngành quốc phòng Nga, dữ liệu từ Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm cho thấy. is not only the biggest arms importer in the world, it is also the biggest customer to the Russian defense industry, data from the Stockholm International Peace Research Institute shows.
Ai đang cung cấp vũ khí cho châu Phi?Điều quan trọng, chúng có thể ảnh hưởng đến khả năng mua sắm và duy trì phần cứng quân sự của lục địa từ Nga.Gần một nửa số nhập khẩu thiết bị quân sự của Châu Phi (49%) đến từ Nga.Russia. Almost half of Africa's imports of military equipment (49%) come from Russia. |