Thanh bình điệu lý bạch

                  Lý Bạch (t.t)
                      (701-762)

          Đại thi hào đời Thịnh Đường (713 – 716)Trung Quốc.

 
       清 

平 調
          Thanh bình điệu

 

( kỳ 1)
雲  想  衣  裳  花  想  容,
 Vân tưởng y thường hoa tưởng dung,
春  風  拂  檻  露  華  濃。
 Xuân phong phất hạm lộ hoa nùng
若  非  群  玉  山  頭  見
  Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến,
會  向  瑤  臺  月  下  逢
 Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng.

其二 (k

2)
一  枝  紅  艷  露  凝  香
Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương,
雲  雨  巫  山  枉  斷  腸。
Vân vũ Vu sơn uổng đoạn trường.
借  問  漢  宮  誰  得  似,
Tá vấnHán cung thuỳ đắc tự,
可  憐  飛  燕  倚  新  粧。
  Khả  liên  Phi  Yến  ỷ  tân  trang.
其三 (K 3)
名  花  傾  國  兩  相  歡
Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
長  得  君  王  帶  笑  看。
Trường đắc quân vương đới tiếu khan.
解  釋  春  風  無  限  恨
  Giải thích xuân phong vô hạn hận,
沉  香  亭  北  倚  闌  幹。
 Trầm Hương đình bắc ỷ lan can.

*Dịch nghĩa:
  -Bài 1:
Mây tưởng là xiêm y, hoa tưởng là khuôn mặt
Gió xuân thổi qua hiên, mang hương tinh khiết của sương hoa.
Nếu như không gặp ở đầu non Quần Ngọc
Sẽ hẹn đến Dao Đài gặp dưới trăng.Bài 2:
Một cành hồng đẹp đọng sương thơm.
Thần nữ mây mưa ở Vu Sơn  cũng tiếc đứt ruột
Thử hỏi khắp Hán cung  ai sánh được.
Đáng thương cho Phi Yến phải dựa vào màu xuân trang điểm.Bài 3:
Danh hoa nghiêng nước cùng sánh đôi vui.
Luôn được quân vương nhìn ngắm tươi cười.
Gió xuân làm tiêu tan nỗi giận hờn vô kể
Khi cùng nhau ngồi tựa lan can nơi đình Trầm Hương phía bắc.

 *Dịch thơ:

          ĐIỆU HÁT THANH BÌNH                     (1)

Bài 1: Mây tưởng xiêm y, hoa tưởng mặt
Gió xuân lả lướt , hoa sương giăng
Đầu non Quần Ngọc dù không thấy
Hẹn gặp Dao Đài mộng dưới trăng                   (2)Bài 2:
Một cành hồng  đẹp đọng hương sương
Thần nữ non Vu cũng đoạn trường                  (3)
Thử hỏi Hán cung ai sánh được
Đáng thương Phi Yến mượn màu xuân.            (4)Bài 3:
Sắc nước nghiêng thành hoa sánh đôi               (5)
Quân vương say đắm ngắm hoa cười
Gió xuân thổi hết bao hờn giận                           (6)
Đình Trầm phơi phới tựa hiên vui.                       
(7)
                     *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

*Chú thích:
1) Thanh bình điệu:

Điệu hát thanh bình. Vào dịp mùa xuân, trăm hoa đua nở, Đường Minh Hoàng tổ chức thưởng hoa cùng Dương Quý Phi, nhà vua cho mời Lý Bạch đến làm thơ còn Lý Quy Niên thì phổ nhạc để hát khúc ca này. Tương truyền  Lý Bạch đã làm ba bài này trong lúc đang say rượu và khi làm xong  nhà thơ vẫn còn say.(Theo Thái Chân ngoại truyện).
    Bài thơ này sáng tác vào năm 743.
2) Dao Đài: Đài bằng ngọc, còn gọi là Luân Đài. Theo truyền thuyết, đây là nơi ở của Tây Vương Mẫu.
3) Vân vũ Vu Sơn: Mây mưa ở núi Vu. Vu Sơn tiếp liên với núi Vu Giáp. Dưới chân núi Vu Giáp có đền thờ thần nữ.Theo truyền thuyết: vua Sở Tương Vương đến chơi ban ngày ở Cao Đường, lúc ngủ nhà vua mộng thấy mình ân ái với một người đẹp. Vua hỏi thì nàng thưa: Thiếp là thần nữ ở núi Vu Sơn đến chơi ở Cao Đường. Thiếp có bổn phận buổi sớm làm mây và buổi chiều làm mưa ở chốn Dương Đài. Do tích ấy, các từ : mây mưa, Vu Sơn, Vu Giáp.. có nghĩa bóng là chỉ việc chăn gối của  nam nữ.
     Hai câu: " Nhất chi hồng diễm lộ ngưng hương./Vân vũ Vu Sơn uổng đoạn trường" có ý muốn nói: Nàng Dương Quý Phi như một cành hồng đẹp phủ móc đọng hương khiến cho thần nữ mây mưa ở Vu Sơn cũng phải đứt ruột..    
4) Phi Yến: tên đầy đủ làTriệu Phi Yến, là hoàng hậu của Hán Thành Đế. Có nhan sắc và tài ca núa hơn người từ thuở nhỏ. Nhân Hán Thành Đế vi hành, thấy hai chị em học múa ở nhà Dương A liền đem về cung làm Tiệp Dư. Vua hết sức thương yêu Phi Yến nên dần dà đã phế hoàng hậu cũ để Phi Yến thay vào ngôi vị này. Trong hơn 10 năm, Phi Yến đã ra sức mê hoặc vua. Vì quá ham mê tửu sắc, vua đã mang bạo bệnh chết sớm. Hán Ai Đế tôn Phi Yến làm Hoàng Thái Hậu. Đến đời Bình Đế, Phi Yến bị phế xuống làm thứ nhân và nàng đã tự sát.
5) Danh hoa khuynh quốc: Danh hoa làm nghiêng nước. Trong một bài thơ của Lý Diên Niên làm để ca tụng người đẹp phương Bắc, có câu: “Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc” (Nhìn qua khiến nghiêng thành của người, nhìn lại khiến nghiêng nước của người).Ý nói người rất đẹp, mỗi sóng mắt liếc của họ có thể làm cho nghiêng thành nghiêng nước. Ý này gần ngĩa tương đương với ý “Quốc sắc thiên hương” (Sắn nước hương trời).
6) Giải thích xuân phong vô hạn hận : Chúng tôi hiểu với nghĩa: Gió xuân làm tiêu tan nỗi giận hờn vô kể. Vì chữ hận đây có nghĩa là hờn giận chứ không hề có nghĩa là gió sầu hay người sầu gì cả. Vậy Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi có hờn giận nhau không? Căn cứ vào điển tích văn học để lại là có. Chuyện kể Dương Quí Phi lúc mới vào cung tính hay ghen, Đường Minh Hoàng tức giận đưa giam một nơi. Nhưng không lâu nhà vua nhớ quá sai Cao Lực Sĩ- một cận thần ra thăm. Dương Quý Phi cắt tóc gửi về dâng vua. Vua thấy tóc lại thương quá cho vời vào cung. Bỡi vậy trong bài thơ “Màu thời gian”, Đoàn Phú Tứ đã có hai câu thơ : “Tóc mây một món dao vàng./ Nghìn trùng e lệ phụng quân vương”...Lý Bạch là người cùng thời, biết rõ mối hờn giận này nên khéo đưa vào thơ một cách tinh tế.
              Mặc dù hết sức khéo léo nhưng bài thơ tuyệt tác trên đây cũng là một bài đã gây đại họa cho Lý Bạch. Nguyên  là có lần Lý Bạch say, vua Đường Minh Hoàng sai cao Lực Sĩ cởi giày cho ông. Cao Lực Sĩ tức giận về việc này nên rủ cả bọn dèm pha với Dương Quý Phi, cho rằng Lý Bạch dám cả gan ví nàng với Triệu Phi Yến, là có ý muốn nàng có tai tiếng và kết cục bi thảm như Phi Yến(xem chú thích Phi Yến) . Dương Quý Phi nghe lời bọn này nên đã tác động tới Đường Minh Hoàng, đuổi Lý Bạch ra khỏi triều không cho làm quan nữa.
  7) Đình Trần Hương: Ngôi đình làm bằng gỗ Trầm Hương, một loại gỗ quí có hương thơm, nằm ở cửa bắc hoàng thành, trước vườn hoa Ngự Uyển.

* Giới thiệu một số bản dịch khác:
1) Bản dịch của Ngô Tất Tố:

ĐIỆU HÁT THANH BÌNH

I
Thoáng bóng mây hoa ngỡ bóng hồng,
Gió xuân dìu dặt hạt sương trong.
Ví chăng non Ngọc không nhìn thấy,
Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông.
II
Hương đông móc đượm một cành hồng,
Vu Giáp mây mưa những cực lòng.
Ướm hỏi Hán cung ai mảng tượng?
Điểm tô, Phi Yến tốn bao công.
III
Sắc nươc, hương trời khéo sánh đôi,
Quân vương nhìn ngắm những tươi cười.
Sầu xuân man mác tan đầu gió,
Cửa bắc đình Trầm đứng lả lơi

2) Bản dịch của Trần Trọng San:

I
Mặt tưởng là hoa, áo ngỡ mây ;
Hiên sương phơ phất gió xuân bay.
Nếu không gặp gỡ trên Quần Ngọc,
Dưới nguyệt Dao đài sẽ gặp ai.
 II
Một nhánh hồng tươi, móc đọng sương ;
Mây mưa Vu Giáp uổng sầu thương.
Hỏi nơi cung Hán ai người giống ?
Phi Yến còn nhờ mới điểm trang.
 III
Hoa trời, sắc nước thảy đều vui,
Luôn được vua trông với nụ cười.
Mối hận gió xuân bay thoảng hết ;
Bên đình, thơ thẩn tựa hiên chơi.
                         *
           寄遠
          Ký viễn

          滿  堂,

 Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường,
            床。 
  Mỹ nhân khứ hậu dư không sàng
            寢, 
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm
            香。 
Chí kim tam tải văn dư hương
        滅,
Hương diệc cánh bất diệt, 
        來。
 Nhân diệc cánh bất lai. 
        落,
 Tương tư hoàng diệp lạc, 
        苔。
Bạch lộ thấp thanh đài.

*Dịchnghĩa:

           Gửi phương xa

   Lúc mỹ nhân còn ở đây hoa đầy nhà.
  Sau khi mỹ nhân đi rồi giường bỏ không.
  Trên giường chăn thêu xếp lại không còn người đắp.
  Đến nay đã  ba năm mà khi ngửi vẫn còn sực nức mùi hương.
  Hương không phai mất hết.
  Người mãi không trở lại.
  Mối tương tư để lá vàng rơi rụng
  Sương trắng đẫm ướt rêu xanh.
                             *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch.
*Dịch thơ:   GỬI PHƯƠNG XA   Mỹ nhân lúc ở hoa đầy khắp.
  Nay đã đi rồi giường bỏ không
  Chăn thêu xếp để không người đắp
  Ba năm, hương cũ vẫn thơm nồng

  Hương vẫn chờ ai mà phảng phất

  Sao ai đi mãi chẳng về nhanh
  Tương tư, sắc lá vàng rơi rụng
  Sương trắng  còn vương rêu ướt xanh.

            *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG  dịch

* Các bản dịch của các tác giả khác:

 1)    Bản dịch của Nguyễn Bính


      Em còn ở, đầy nhà hoa ngát 
Em đi rồi, ngơ ngác giường xưa 
      Chăn khâu nếp nếp hững hờ 
Ba năm hương mãi bây giờ còn bay 
      Thơm nào nghe quyện đâu đây 
Người đi bữa đấy mai này còn sang 
      Nhớ nhau cho rụng lá vàng 
Cho sương lạnh trắng mấy làn rêu xanh.

2)    Các bản dịch của văn học nước ngoài:                        

The Fair Lady
           Translated by Sun Yu

When the fair lady was here,
I filled our house with flowers;
But she went away,
Leaving her empty couch behind !
There stands her couch, with the embroidered quilts all folded.
Could I sleep any more ?
It is three years since then;
Her sweet perfume still lingers... The perfume never dies out;
She never comes back again.
I think of her till the yellow leaves
All fall off from the trees,
And the white dew wets the green moss, twinkling silently...
 

Envoyé au loin
                    Translated by P. Jacob

Quand la belle était là, la salle était en fleurs;
Puis la belle partit, son lit vide l'atteste;
Couverture roulée, interdite aux dormeurs;
Et trois ans à ce jour que son odeur y reste\.
L'odeur ainsi ne s'éteint toujours pas;
La femme ainsi n'est toujours pas rentrée\.
L'amour a mis les feuilles jaunes bas;
Au lichen vert va la blanche rosée.

怨情
       Oán tình


       

 Mỹ nhân quyển châu liêm, 
       
 Thâm toạ  tần  nga  my. 
         濕,
 Đản  kiến   lệ   ngân thấp, 
        誰。
Bất    tri   tâm   hận   thuỳ.

*Dịch nghĩa:

       
  Oán tình

Mỹ nhân cuốn bức rèm ngọc.
Ngồi lặng im chau mày ngài.
Chỉ thấy ngấn lệ ràn rụa,
Không biết lòng nàng đang giận ai?  
     
 *Dịch thơ:      Oán tình

Mỹ nhân cuốn rèm ngọc
Ngồi im chau mày ngài
Thấy rưng rưng ngấn lệ
Biết lòng nàng giận ai?
      HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch.

*Giới thiệu bản dịch khác của Tản Đà:
            OÁN TÌNH

       Người xinh cuốn bức rèm châu, 
Ngồi im thăm thẳm nhăn chau đôi mày. 
       Chỉ thay giọt lệ vơi đầy 
Đố ai biết được lòng này giận ai?

   月  下  獨   酌
    Nguyệt hạ độc chước

   花  間  一  壺  酒

   Hoa gian nhất hồ tửu,
   獨  酌  無  相  親;
   Độc chước vô tương thân.
   舉  杯  邀  明  月,
   Cử bôi yêu minh nguyệt,
   對  影  成  三  人 o
   Đối ảnh thành tam nhân.
   月  既  不  解  飲
   Nguyệt ký bất giải ẩm,
   影  徒  隨  我  身;
   Ảnh đồ tùy ngã thân.
   暫  伴  月  將  影
   Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
   行  樂  須  及  春  o
   Hành lạc tu cập xuân.
   我  歌  月  徘  徊,
   Ngã ca nguyệt bồi hồi ;
   我  舞  影  零  亂;
   Ngã vũ ảnh linh loạn.
   醒  時  同  交  歡,
   Tỉnh thì đồng giao hoan,
   醉  後  各  分  散   o
   Tuý hậu các phân tán.
   永  結  無  情  遊,
   Vĩnh kết vô tình du,
   相  期  邈  雲  漢   o
   Tương kỳ mạc Vân Hán.
 

   *Dịch nghĩa:

    Một mình uống 
      rượu

dưới trăng.
   Giữa hoa một bầu rượu
   Rót uống không người thân
   Nâng chén mời trăng sáng
   Đối bóng thành ba người
   Trăng đã không  biết uống
   Bóng chỉ theo thân mình
   Tạm làm bạn với trăng và bóng
   Cùng vui cho kịp ngày xuân
   Ta ca làm trăng bồi hồi
   Ta múa làm bóng quay loạn
   Khi tỉnh cùng nhau vui
   Khi say rồi mỗi thứ đều phân tán
   Mối giao kết này tình ngắn ngủi
   Xin gặp nhau trên Vân Hán xa tít,

*Dịch thơ:

   Một mình uống 

rượu
                    dưới trăng

Giữa hoa một bầu rượu
Không người thân cùng chơi
Nâng chén mời trăng sáng
Đối bóng thành ba người
Trăng không biết uống rượu
Bóng bên mình chơi vơi
Tạm chơi trăng với bóng
Cho kịp ngày xuân vui
Ta múa bóng quay loạn
Ta ca trăng bồi hồi
Khi tỉnh cùng vui nhộn
Say rồi tan mỗi nơi
Két giao tình ngắn ngủi
Xin gặp ở sông trời.           
(1)
*HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch*Chú thích:
-Sông trời: Theo nguyên tác là Vân Hán. Đây là một tên khác của sông 
Ngân Hà. Ngân Hà còn gọi là Thiên Hà và Thiên Hà là sông trời.

      靜   夜   思
       Tĩnh dạ tứ

床   前   明   月   光,

Sàng tiền minh nguyệt quang 
疑   是   地   上   霜  o
Nghi thị địa thượng sương,
舉   頭   望   明   月,

Cử đầu vọng minh nguyệt
低   頭   思   故   鄉  o
Đê  đầu   tư   cố   hương

*Dịch nghĩa:

   Cảm xúc 
         đêm yên tĩnh

Trước giường nhìn ánh trăng sáng
   Cứ ngỡ màu sương phủ trên mặt đất
   Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
   Cúi đầu nhớ cố hương

    *Dịch thơ:

    Cảm xúc 
        đêm yên tĩnh

   Trước giường trăng lênh láng
   Ngỡ đất phủ đầy sương
   Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
   Cúi đầu nhớ cố hương.
           *HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch

       *

                          V

ƯƠNG XƯƠNG LINH (王昌齡 )
                                         (698 - 756)

 
       Vương Xương Linh là người Kinh Triệu, Trường An (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc). Sống vào thời Thịnh Đường. Ông thi đỗ Tiến sĩvào năm 727 đời Đường  Huyền Tông , trải qua nhiều năm ông giữ chức Huyện úy huyện Dĩ Thủy.
       Năm 740 vì phạm lỗi ông bị giáng chức làm Giang Ninh thừa, sau đó  lại bị giáng làm Long Tiêu úy. Cuối năm 755, loạn An Lộc Sơn xảy ra, ông trở về làng . Khi đi qua Hào Châu, ông bị tên thứ sử địa phương là Lư Khâu Hiểu giết chết vì tư thù.
       Ông  nổi danh về thơ thất ngôn tuyệt cú. Ở thể loại này, ông được tôn vinh là Thi thiên tử , được sánh ngang với Thi tiên Lý Bạch .
            Xin giới thiệu một số bài thơ nổi tiếng của ông:

 

  1.   採 蓮 曲 其 二
             

  Thái liên khúc kỳ 2
 
荷  葉  羅  裙  一  色  裁,
Hà  diệp    la   quần  nhất sắc tài, 
芙  蓉  向  臉  兩  邊  開。 
Phù dung hướng kiểm lưỡng biên khai. 
亂  入  池  中  看  不  見,
Loạn nhập trì  trung khan  bất  kiến, 
聞  歌  始  覺  有  人  來。
Văn ca thủy giác hữu nhân lai.

  • Dịch nghĩa:

            KHÚC HÁT HÁI SEN

 Lá sen và quần lụa cùng chung một màu.
Hoa sen ghé hai bên khuôn mặt hoa, cùng nở
Trong ao lẫn lộn không nhìn thấy rõ giữa người
và hoa.
Khi nghe có tiếng hát mới nhận biết có người


 

  • Dịch thơ:

      KHÚC HÁT HÁI SEN

 Lá sen quần lụa chung màu lục.
Hai bên sen ghé mặt hoa cười.
Trong ao lẫn lộn nhìn không thấy.
Khi cất lời ca mới biết người.
            HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG

dịch

  II)           
                          Khuê  oán

閨  中  少   婦  不  知  愁 
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu 
春  日  凝   妝  上  翠  樓 
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu 
忽  見  陌   頭  楊  柳  色 
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc 
悔  教  夫   婿  覓  封  侯
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

  • Dịch nghĩa:

    NỖI OÁN CHỐN PHÒNG KHUÊ

 Thiếu phụ nơi phòng khuê chưa cảm biết được nỗi sầu.
Ngày xuân trang điểm lộng lẫy rồi bước lên tầng lầu hoa lệ .
Chợt thấy sắc (xanh tươi) cây dương liễu ở đầu đường.
Hối tiếc mình đã khuyên chồng ra đi mong kiếm tước hầu được phong.

  • Dịch thơ:
  • Bản dịch 1:

NỖI OÁN CHỐN PHÒNG KHUÊ
 
Thiếu phụ phòng khuê chẳng biết sầu.
Ngày xuân trang điểm bước lên lầu.
Chợt nhìn sắc liễu bên đường vắng.
Hối tiếc chồng đi kiếm tước hầu.
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
 
      - Bản dịch 2:
      NỖI OÁN CHỐN PHÒNG KHUÊ
 
          Phòng khuê thiếu phụ chưa sầu.
Ngày xuân trang điểm lên lầu ngắm trông.
          Chợt nhìn sắc liễu, hối lòng.
Lỡ khuyên chàng kiếm cầu phong tước hầu
          HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG
dịch

*Chú thích:
- Hầu: Một tước trong năm cấp bậc thời phong kiến: công ,
hầu, bá, tử , nam
          

 *Giới thiệu một số bản dịch khác:
1) Bản dịch của Ngô Tất Tố:

Cô gái phòng the chửa biết sầu
Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu
Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu
Hối để chồng đi kiếm tước hầu.

2) Bản dịch của Trần Trọng San

Phòng khuê nàng chửa biết buồn, 
Ngày xuân điểm phấn tô son, lên lầu. 
Chợi trông dương liễu xanh màu, 
Xui ai tìm cái phong-hầu mà chi !

3)Bản dịch thơ của thi sĩ Tản Đà:

             Trẻ trung nàng biết chi sầu,
    Ngày xuân trang điểm, lên lầu ngắm gương.
             Nhác trông vẻ liễu bên đường,
    "Phong hầu" nghĩ dại xui chàng kiếm chi.           
                             *