Phân tích và chúng minh tiến trình văn hóa Việt Nam là quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa

PHẠM THỊ THUÝ
[TS, Đại học Sư phạm Hà Nội]

1. Mở đầu

     Văn hoá như một dòng chảy bất tận, luôn luôn biến đổi. Trong quá trình phát triển, giao lưu và tiếp biến luôn là quy luật của văn hoá, một quy luật tất yếu của đời sống con người.

     Trong lịch sử, Việt Nam đã trải qua nhiều lần chuyển biến lớn về văn hoá. Từ một nền văn hoá bản địa gốc Đông Nam Á, người Việt đã tiếp thu văn hoá Hán để phát triển, xây dựng nên nền văn hoá Đại Việt. Đến thời cận đại, văn hoá Đại Việt có điều kiện tiếp xúc với nền văn hoá Pháp, tiếp tục có những tiếp biến để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam hiện đại. Trong chặng đường dài của lịch sử đó, văn hoá Việt Nam luôn thể hiện một bản lĩnh kiên cường, với một sức sống mãnh liệt và một sự thích ứng kì diệu để có thể vượt qua mọi giai đoạn khó khăn, mọi sự đồng hoá để tạo dựng một nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại.

2. Từ văn hoá Đông Sơn đến văn hoá Đại Việt

     2.1. Văn hoá Đông Sơn

     Trải qua hàng vạn năm tích luỹ, từ những bước đi còn chập chững của những con người thời đại đồ đá cũ ở di chỉ núi Đọ, đến những cư dân nông nghiệp đầu tiên trong nền văn hoá Hoà Bình, liên tục phát triển qua văn hoá Bắc Sơn, văn hoá Hạ Long, văn hoá Quỳnh Văn,… người Việt cổ đã xây dựng được nền văn hoá kim khí Đông Sơn với những thành tựu vô cùng rực rỡ, đáng tự hào. Với văn hoá Đông Sơn, một nền văn hoá bản địa đã được định hình với đầy đủ những thành tố của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Nền văn hoá đó được hình thành trên cơ sở thích ứng của người Việt cổ với điều kiện tự nhiên vùng Đông Nam Á, với một địa bàn cư trú tương đối rộng lớn, trải dài từ lưu vực sông Hồng tới lưu vực sông Cả, sông Mã, một cộng đồng cư dân tương đối ổn định được hình thành trên cơ sở ý thức chung về nguồn gốc, dòng dõi con Rồng, cháu Tiên, về tinh thần đoàn kết trong cuộc đấu tranh sinh tồn với thiên nhiên và đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Một thiết chế nhà nước sơ khai đã hình thành để cai quản và điều hành các công việc chung của quốc gia với sự đứng đầu của các vua Hùng, vua Thục.

     Trong khuôn khổ của một nhà nước sơ khai như vậy, cộng đồng người Việt cổ đã hình thành những nét văn hoá chung. Để thích ứng với điều kiện khí hậu nóng nực về mùa hè nhưng ẩm ướt về mùa đông, người Việt đã dựng nhà sàn, nhà tranh để ở, vừa thoáng mát lại vừa khô ráo, lại tận dụng được nguồn nguyên liệu là tranh tre, nứa, lá có sẵn trong tự nhiên. Nguồn thức ăn cũng được tận dụng từ môi trường sống tự nhiên, vì vậy thức ăn chính của người Việt lúc này là các loại rau đậu, củ, quả với tôm, cua, cá, ốc, ếch, hến, ba ba,… những thức ăn luôn có sẵn trong môi trường tự nhiên. Cách thức chế biến thức ăn của người Việt khi đó cũng vô cùng phong phú, từ luộc, hấp, nướng, đến cả ăn gỏi, đặc biệt là việc sử dụng gia vị trong chế biến một cách hết sức tài tình và đầy nghệ thuật:“Con gà cục tác lá chanh, Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi, Con chó khóc đứng khóc ngồi, Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng, Con trâu cười ngả cười nghiêng, Tôi không ăn riềng, mua tỏi cho tôi”,…

     Trình độ phát triển và bản sắc văn hoá bản địa còn được thể hiện rõ trong lĩnh vực văn hoá tinh thần. Cả cộng đồng dân tộc Việt lúc bấy giờ đã có chung những tín ngưỡng như thờ cúng tổ tiên, tôn sùng những người anh hùng có công với dân tộc. Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới nảy sinh, người Việt cổ còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như: tín ngưỡng vật tổ, ma thuật, phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. Những phong tục, tập quán văn hoá cũng được hình thành tạo nên một sự cố kết sâu đậm trong cuộc sống đậm đà “tình làng, nghĩa xóm” như tục ăn đất, uống nước bằng mũi, tục giã cối [để làm hiệu lệnh, truyền tin], tục cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết trong mộ đất, mộ có quan tài hình thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn theo đồ tuỳ táng bằng hiện vật,… Lễ hội bấy giờ rất phổ biến, thịnh hành, là một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người Văn Lang – Âu Lạc. Các loại hình nghệ thuật cũng được nảy nở và phát triển phong phú: âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc,…

     Tất cả những giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của người Lạc Việt được kết tinh trên một hiện vật tiêu biểu, đó là các trống đồng. Trống đồng với những đường nét tinh xảo, đặc sắc, là một sản phẩm lao động, một tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của cư dân Văn Lang – Âu Lạc, thể hiện một cách sinh động và rõ nét những thành tựu của nền văn hoá Đông Sơn, nền văn minh đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt, niềm tự hào của người Việt.

     2.2. Thời kì tiếp biến văn hoá lần thứ nhất: Thời Bắc thuộc

     Tuy nhiên, với cuộc xâm lược của Triệu Đà, từ năm 179 TCN, người Việt bị mất chủ quyền dân tộc. Suốt hơn 1.000 năm sau đó, các triều đại phong kiến Trung Quốc liên tiếp thay nhau thống trị Âu Lạc.

     Trong thời gian đó, nền văn hoá Đông Sơn chịu một sự áp bức rất lớn, người Việt chịu sự áp đặt về văn hoá bởi chính sách “đồng hoá” của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Các giá trị văn hoá bản địa của người Việt cổ có sự va chạm và tiếp biến mạnh mẽ trong một điều kiện vô cùng khắc nghiệt, đó là đất nước bị mất chủ quyền, bị xâm lược, người dân bị thống trị, áp bức một các tàn bạo. Bên cạnh những thủ đoạn cai trị về chính trị, bóc lột về kinh tế, các triều đại Trung Quốc còn ráo riết thực hiện chính sách “đồng hoá” trên các lĩnh vực: về phong tục, tập quán, huyết thống, tư tưởng, tôn giáo,… Đây thực sự là một sự cưỡng bức về văn hoá vô cùng nghiệt ngã mà người dân Âu Lạc phải đối mặt, một giai đoạn “đối đầu về văn hoá”, trong đó người Trung Quốc thì thống trị và áp đặt văn hoá Hán, còn người Việt thì tìm cách chống lại để bảo vệ những giá trị của văn hoá Việt. Chính trong cuộc đấu tranh ấy, bản sắc dân tộc Việt, bản lĩnh con người Việt được mài giũa, trở nên sáng tỏ, vững vàng và mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

     Trong cuộc đấu tranh văn hoá đầu tiên đó, người Việt đã chọn lựa những cách thức đấu tranh vô cùng độc đáo và hiệu quả. Khi phải đối mặt với những chính sách thâm độc của phong kiến Trung Quốc, người Việt đã không co lại một cách bảo thủ mà mở rộng giao lưu, chủ động tiếp nhận những thành tựu của các nền văn hoá bên ngoài phù hợp với lối sống và nền văn hoá Việt, vừa bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống, vừa phát triển nền văn hoá dân tộc lên một tầm cao mới, phù hợp với những thay đổi của cuộc sống và thời đại.

     Qua hơn một nghìn năm Bắc thuộc nhưng tiếng nói dân tộc vẫn được gìn giữ và ngày càng phong phú nhờ một hệ thống các từ Hán Việt được hình thành trên cơ sở Việt hoá các từ Hán. Từ chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm là thứ chữ viết của dân tộc. Một số thành tựu văn hoá của người Hán đã được người Lạc Việt tiếp thu như những kĩ thuật tiến bộ trong canh tác nông nghiệp [kĩ thuật bón phân, trồng trọt…], trong thủ công nghiệp [kĩ thuật làm giấy, rèn sắt, làm gốm, làm đồ kim hoàn…]. Đó là những giá trị văn minh cần được học hỏi để nâng cao đời sống kinh tế của người Việt. Bên cạnh đó, người Việt vẫn tìm cách duy trì những phong tục tập quán của mình như tục búi tóc, xăm mình, tục ăn trầu, nhuộm răng… Cùng với các lễ giáo Trung Quốc du nhập theo Nho giáo, người Việt vẫn bảo tồn tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng dân tộc, sự tôn trọng và đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội khác hẳn với tư tưởng của Nho giáo. Đồng thời, để có hệ tư tưởng đối trọng với Nho giáo, người Việt đã chủ động tiếp nhận Phật giáo từ Ấn Độ du nhập vào. Phật giáo với sự cảm thông, củng cố và cổ vũ cho tinh thần đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt nhanh chóng trở thành tôn giáo phổ biến và tạo nên ý thức hệ của người Việt đương thời: “Phật giáo Việt Nam là Phật giáo Tổ quốc luận. Dưới thời Bắc thuộc, nó là nơi bảo vệ ý thức dân tộc, chống sự đồng hoá về văn hoá.” [1, tr. 49].

     Như vậy, trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, chịu sự giao lưu một cách cưỡng bức với nền văn hoá Trung Quốc nhưng người Việt vẫn bảo tồn được những giá trị văn hoá truyền thống của mình đồng thời biết tiếp thu, học hỏi những tinh hoa từ các nền văn hoá bên ngoài để làm phong phú thêm vốn liếng văn hoá dân tộc bằng chính thành quả tri thức của kẻ thống trị. Kết quả là dân tộc Việt không những không bị diệt vong, người Việt không bị đồng hoá mà còn lớn lên, phát triển lên một tầm cao mới để có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần chiến thắng chủ nghĩa Đại Hán. Đó thực sự là một bài học lớn cho dân tộc trong việc tiếp biến văn hoá ở những thời kì sau này, thể hiện rõ nét bản lĩnh văn hoá Việt Nam.

3. Từ văn hoá Đại Việt đến văn hoá Việt Nam

     3.1. Văn hoá Đại Việt

      Nhờ có nền móng vững vàng được tạo dựng từ nền văn hoá bản địa đầu tiên, cộng với những thành tựu tiếp thu được từ các nền văn hoá bên ngoài, chỉ sau chưa đầy một thế kỉ giành lại nền độc lập, người Việt đã xây dựng một nền văn hoá rực rỡ mang tên Đại Việt với ba đỉnh cao: văn hoá Lý – Trần, văn hoá Lê và văn hoá Nguyễn.

     Về kinh tế, nền văn hoá Đại Việt hình thành và phát triển trên nền tảng của kinh tế nông nghiệp tiểu nông phong kiến và các nghề thủ công truyền thống như dệt, gốm, mĩ nghệ… Nhiều làng nghề và trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện, tiêu biểu là kinh thành Thăng Long với 36 phường hội.

      Về tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng Đại Việt dựa trên cơ sở Tam giáo đồng nguyên [Phật – Đạo – Nho], kết hợp nhuần nhuyễn với tín ngưỡng bản địa, tạo nên một đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, mang nặng tính ứng xử hơn là tính triết lí, lấy sự hoà nhập, khoan dung làm cốt cách, xa lạ với sự xung đột và bài xích giữa các tôn giáo. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn văn hoá lại chịu sự chi phối của một tôn giáo khác nhau. Thời Lý – Trần, hệ tư tưởng Phật giáo đóng vai trò chủ đạo trong đời sống tư tưởng của người dân Việt nhưng đến thời Lê sơ, Nho giáo lại chiếm ưu thế so với các tôn giáo khác. Chính sách độc tôn Nho giáo của nhà Lê tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của dòng văn hoá bác học với nhiều thành tựu rực rỡ thể hiện trong nền văn học viết. Thế nhưng hệ tư tưởng Nho giáo với những lễ giáo chặt chẽ lại gặp phải sự phản kháng mãnh liệt trong dân gian thể hiện rõ trong dòng văn hoá dân gian, phát triển mạnh trong các thế kỉ XVI-XVIII, làm cho Nho giáo dần bị suy sụp trong đời sống xã hội. Đến thời Nguyễn, từ vua Gia Long đến Tự Đức đều ra sức củng cố địa vị của Nho giáo trong đời sống tư tưởng của đất nước nhưng không thể khôi phục được vị thế của Nho giáo như thời Lê sơ. Nho giáo lúc này thể hiện rõ là một hệ tư tưởng lạc hậu, bảo thủ và lỗi thời, không thể giải quyết được những vấn đề của thời đại.

     Bên cạnh đó, từ thế kỉ XVI, một tôn giáo mới từ phương Tây được du nhập vào Đại Việt, đó là đạo Kitô. Sự truyền bá và phát triển của đạo Kitô trải qua nhiều bước thăng trầm, khi thì được cho phép, lúc lại bị cấm đoán, nhưng cuối cùng Kitô giáo đã có mặt ở Việt Nam, góp phần làm phong phú đời sống tư tưởng, tinh thần của người Việt thời kì này.

     Về xã hội, khuôn khổ gia đình thời Đông Sơn đã mở rộng thành gia tộc. Cơ cấu xã hội cơ bản là Nhà – Làng – Nước, trong đó Nhà [gia đình, gia tộc] và Làng [làng xã] là nhân tố xã hội nền tảng, từ đó chuẩn mực ứng xử là sự mở rộng từ gia tộc ra toàn xã hội. Đến thời Lê sơ, với chính sách quân điền, chính quyền phong kiến được tập trung cao độ thể hiện trong việc quản lí, chi phối của trung ương với địa phương và quyền chuyên chế tuyệt đối của nhà vua. Nhà nước Đại Việt đã trở thành một khối thống nhất từ trung ương đến địa phương một cách trật tự và quy củ. Trong suốt gần 10 thế kỉ, Đại Việt tồn tại và phát triển dựa trên sức mạnh của tinh thần yêu nước, của sự cố kết cộng đồng. Các cuộc kháng chiến chống quân Tống, quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh kéo dài trong suốt lịch sử trung đại đã hun đúc và tôi luyện tinh thần yêu nước của người Việt, với bản lĩnh kiên cường bất khuất, quyết tâm chiến thắng bất kì một kẻ thù xâm lược nào.

      Nền văn minh Đại Việt thể hiện tất cả những đặc điểm của một dân tộc đã trưởng thành sau một nghìn năm chịu sự khổ nhục dưới ách Bắc thuộc. Những ý thức xây dựng một đời sống văn hoá toàn diện đã lắng đọng trong giấc ngủ ngàn năm ấy để bừng dậy với tất cả sức sống mãnh liệt của một dân tộc độc lập. Vì vậy nền văn minh Đại Việt có tính chất phong phú và toàn diện, là bằng chứng hùng hồn cho sức sống mãnh liệt của nền văn hoá Việt Nam sau những thăng trầm của lịch sử.

     3.2. Thời kì tiếp biến văn hoá lần thứ hai: Thời Pháp thuộc

      Nền văn hoá Đại Việt tồn tại và phát triển suốt từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX thì đứng trước thách thức mới.

      Trước nhất, đó là sự phát triển của nền văn minh thế giới, đặc biệt là văn minh phương Tây đã đặt các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng trước những đòi hỏi mới. Sự thâm nhập của các nước phương Tây trong cơn lốc đi tìm thị trường là điều kiện để các nước phương Đông có cơ hội tiếp xúc với văn hoá phương Tây và tiếp thu những thành tựu của nền văn minh công nghiệp. Trong bối cảnh đó, văn hoá Đại Việt đã có sự tiếp biến với văn hoá phương Tây, mà chủ yếu là văn hoá Pháp, thông qua sự thâm nhập của người Pháp vào Việt Nam. Nhưng cũng giống như thời Bắc thuộc, chính quyền phong kiến nhà Nguyễn đã không giữ được nền độc lập dân tộc, Việt Nam lại rơi vào sự xâm lược và đô hộ của thực dân Pháp, bị mất chủ quyền, do vậy sự tiếp biến văn hoá lần này ban đầu cũng hoàn toàn mang tính áp đặt, cưỡng bức về văn hoá.

     Tuy nhiên, cùng với những bài học tích luỹ được trong lịch sử, một lần nữa văn hoá Đại Việt không phản ứng theo kiểu tiêu cực, co lại, đóng kín. Trong sự đối đầu với thực dân Pháp, nền văn hoá Việt Nam một lần nữa lại mềm mại và cởi mở, dần tìm cách đối thoại với nền văn hoá Pháp để tiếp tục xây dựng, phát triển lên một tầm cao mới. Theo nhà nghiên cứu văn hoá Phan Ngọc thì “việc quân đội Pháp chiếm Việt Nam quá dễ dàng và nhanh chóng dẹp tắt các cuộc nổi dậy đã khiến Việt Nam tỉnh khỏi giấc mơ giáo điều để nhận thức những ưu thế của văn hoá phương Tây so với văn hoá truyền thống.” [2, tr. 368]. Vì vậy, chính các Nho sĩ lại là những người đề xuất các phong trào cải cách như Duy Tân, Đông Du… để tiếp nhận các thành tựu của văn hoá Pháp và các nền văn hoá bên ngoài, tiếp nhận chủ nghĩa duy lí thay cho chủ nghĩa giáo điều, xu hướng tự do, dân chủ thay thế tư tưởng quân chủ đã trở nên lạc hậu và lỗi thời.

     Mặc dầu thời gian chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá Pháp chưa đầy một thế kỉ nhưng có thể nói văn hoá Việt Nam đã biến đổi rõ rệt hơn thời gian tiếp xúc văn hoá Hán trên 2.000 năm. Vào khoảng những năm 1920, những yếu tố của văn hoá Trung Quốc trong lòng văn hoá Đại Việt đã chết, thay vào đó là tinh thần của nền văn hoá Pháp. Toàn bộ văn hoá Việt Nam từ văn học, hội hoạ, âm nhạc đến kiến trúc đều thay đổi do ảnh hưởng của văn hoá Pháp. Đã diễn ra một sự đổi mới thành công rực rỡ trong mọi lĩnh vực và xuất hiện một nền văn hoá Việt Nam mới, vẫn mang đậm tính dân tộc nhưng đã có âm hưởng của nền văn hoá phương Tây như tư duy lí luận, tinh thần tự do cá nhân và tính nhân loại khá rõ nét. Nền văn hoá Việt Nam đã có sự chuyển mình, mang cấu trúc và diện mạo mới, từng bước “rời bỏ phương thức sản xuất châu Á, tức là nền văn minh nông nghiệp truyền thống để đi vào quỹ đạo của nền văn minh công nghiệp phương Tây” [6, tr. 62].

     Sự tiếp biến văn hoá thời kì này dẫn đến sự đổi mới cả về chủ thể văn hoá, cả văn hoá vật chất lẫn văn hoá tinh thần. Một đội ngũ tri thức mới ra đời, đặt nền móng cho sự hình thành các ngành khoa học như Ngôn ngữ học, Dân tộc học, Nghệ thuật, Tôn giáo, Địa lí, Sử học, Khảo cổ học… Nhiều hình thức văn hoá mới nảy nở và phát triển: tiểu thuyết, thơ mới, sân khấu kịch, điện ảnh…

     Cùng với quá trình giao lưu, tiếp thu có chọn lọc nền văn hoá Pháp để làm giàu nền văn hoá truyền thống, dân tộc Việt đồng thời tiến hành các các cuộc kháng chiến chống Pháp dưới nhiều hình thức khác nhau, lúc đầu do các văn thân yêu nước, sau đó là Đảng Cộng sản lãnh đạo, để giành độc lập dân tộc. Kết quả là, đến năm 1945, với Cách mạng Tháng Tám, chúng ta đã đánh đuổi thực dân Pháp, khôi phục lại độc lập, nền văn hoá nước ta đổi mới, phong phú và lớn mạnh hơn trước.

4. Văn hoá Việt Nam và những tiếp biến trong thời kì mới

Từ khi ra đời đến nay mới hơn nửa thế kỉ, nền văn hoá Việt Nam hiện đại còn đang trong thời kì định hình và chịu nhiều thử thách.

     4.1. Giai đoạn trước đổi mới [1945-1986]

     Cách mạng Tháng Tám đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp. Nền văn hoá Việt Nam gắn với sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà từ năm 1945. Đó là nền văn hoá hình thành trên nền tảng văn hoá Đại Việt và quá trình đổi mới của văn hoá Việt Nam trong khung cảnh tiếp xúc văn hoá Đông – Tây cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Trong quá trình chuyển tiếp ấy, các nhân tố nội lực của nền văn hoá cổ truyền và các nhân tố ngoại sinh của thế giới bên ngoài đang cùng tác động và chuyển hoá lẫn nhau. Dưới sự kích thích của cách mạng và chiến tranh, các giá trị văn hoá tạo ra do tiếp biến thời Pháp thuộc đã đem lại nhiều thành tích trong khuôn khổ của một quốc gia độc lập [về văn học, nghệ thuật, nền móng khoa học đầu tiên,…].

     Nếu nền văn hoá Đại Việt hình thành và định hình từ hai nhân tố mang tính hệ thống là nông nghiệp tiểu nông phong kiến và ý thức hệ tam giáo, trong đó xương sống là Nho giáo, thì nền văn hoá Việt Nam hình thành và định hình trên cơ sở nền kinh tế công nghiệp hoá, ý thức hệ Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Giai đoạn này, văn hoá Việt Nam mang đậm tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Sự tiếp xúc với văn hoá thế giới không chỉ giới hạn ở nền văn hoá Tây Âu, văn hoá Mĩ, mà còn mở rộng với các nền văn hoá Đông Âu mang tính xã hội chủ nghĩa [Liên Xô, Nam Tư, Hunggari, Bungari, Tiệp Khắc,…]. Do đó mà hàng loạt các tác phẩm cổ điển của Nga, Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani, Bungari, Anbani,… được dịch và phổ biến rộng rãi ở Việt Nam.

     Tuy nhiên, với hơn 90% dân số là nông dân, tư duy và phong tục tập quán vẫn in đậm dấu ấn truyền thống, nặng ảnh hưởng của Nho giáo phong kiến, công cuộc xây dựng nền văn hoá mới thời kì này gặp nhiều khó khăn. Thành công lớn nhất của chính phủ mới là việc tiến hành xoá nạn mù chữ, xây dựng những nền móng cơ bản của nền văn hoá mới từ các cơ sở kinh tế công nghiệp ban đầu một cách có hệ thống ở miền Bắc… Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh kéo dài và lối tư duy còn máy móc, khuôn mẫu nên giai đoạn này chưa đạt được nhiều thành tựu.

     4.2. Giai đoạn từ Đổi mới [1986]

     Có thể nhận thấy từ sau tư tưởng đổi mới được đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, nền văn hoá Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức mới.

     Từ năm 1986, với tư tưởng đổi mới toàn diện đề ra trong Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam bước vào một thời kì mới: thời kì xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Từ đó đến nay, Việt Nam từng bước hoà nhập vào đời sống kinh tế, văn hoá của khu vực thông qua việc gia nhập các tổ chức khu vực [Hiệp hội các nước Đông Nam Á [ASEAN] – 1995, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương [APEC] – 1998, Diễn đàn hợp tác Á – Âu [ASEM] – 1996] và tiến đến tham gia các tổ chức thế giới mà tiêu biểu là việc gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới WTO vào năm 2007. Việt Nam đã chính thức bước vào sân chơi của thời đại, sân chơi của thời kì “toàn cầu hoá”. Và phương châm được chúng ta chọn trong cuộc chơi toàn cầu này là “Đưa văn hoá Việt Nam ra thế giới và đưa văn hoá thế giới đến Việt Nam”.

     Đối diện toàn cầu hoá, trong cuộc đối thoại văn hoá, Việt Nam có thuận lợi lịch sử là đã tiếp biến văn hoá thành công khi đối đầu với văn hoá Trung Quốc và văn hoá phương Tây [Pháp] mà vẫn giữ được và làm phong phú thêm bản sắc dân tộc. Vì vậy, hành trang cho văn hoá Việt Nam trong cuộc chơi toàn cầu hoá, theo chúng tôi, đó là:

     – Về nền tảng văn hoá: Việt Nam đã có một nền văn hoá truyền thống lâu đời, với gốc rễ là nền văn hoá bản địa Đông Sơn trên cơ tầng của cư dân Đông Nam Á. Những bản sắc văn hoá đã được thử thách và tôi luyện qua nhiều lần đối đầu và đối thoại văn hoá trong lịch sử, tạo nên một sức đề kháng tuyệt vời trước sức ép của các nền văn hoá bên ngoài. Trước sức mạnh xâm nhập của các giá trị văn hoá bên ngoài, văn hoá Việt Nam không khi nào bị đồng hoá, luôn giữ được bản sắc của mình.

      – Về chủ thể văn hoá: Con người Việt Nam luôn mang trong mình tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, bản lĩnh kiên cường, bất khuất và ý chí quyết tâm chiến thắng trong bất kì cuộc đấu tranh nào, đặc biệt là cuộc đấu tranh mang danh nghĩa “dân tộc”. Do vậy, có thể khẳng định rằng, dù có khó khăn, nhưng chắc chắn không bao giờ người Việt chịu đầu hàng trước những nguy cơ của công cuộc toàn cầu hoá. Điều quan trọng là cần có biện pháp để khơi gợi, củng cố và tăng cường những phẩm chất tốt đẹp vốn có đó của mỗi cá nhân trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay.

      – Tính chủ động và hài hoà trong tiếp biến văn hoá: Cái đặc sắc và bản lĩnh văn hoá Việt Nam luôn dựa trên sự lựa chọn lối ứng xử hài hoà của chủ thể văn hoá. Hài hoà với thiên nhiên, hài hoà trong xã hội được biểu hiện ở tất cả các mặt, các lĩnh vực của cuộc sống và trên tất cả các cấp độ, từ cách đối nhân xử thế hàng ngày đến nếp sống, lối tư duy, quan niệm về đạo lí làm người. Do ứng xử hài hoà, văn hoá Việt Nam không cự tuyệt các giá trị văn hoá bên ngoài theo lối cực đoan, mà sẵn sàng tiếp thu một cách có nguyên tắc, không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc.

5. Kết luận

     Lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam là quá trình đấu tranh đầy cam go nhưng cũng đầy tự hào để xây dựng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, thể hiện bản lĩnh vững vàng trước sự du nhập của những trào lưu văn hoá ngoại lai. Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu và trở thành chuẩn mực đạo lí Việt Nam là tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, truyền thống đoàn kết vì đại nghĩa dân tộc. Bản lĩnh của nền văn hoá Việt đã được hình thành và tôi luyện trong quá trình tiếp xúc và giao lưu với các nền văn hoá ngoại nhập. Đó chính là sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng một nền văn hoá Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Phan Ngọc, Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2005.

2. Phan Ngọc, Một cách tiếp cận văn hoá, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2005.

3. Phan Ngọc, Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam với văn hoá Pháp, NXB Văn hoá Thông tin và Viện Văn hoá, Hà Nội, 2006.

4. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.

5. Ngô Đức Thịnh, Một cách tiếp cận lịch sử văn hoá Việt Nam, Văn hoá dân gian, số 2, 2005.

6. Trần Quốc Vượng [chủ biên], Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003.

Video liên quan

Chủ Đề