Những quan điểm về giá trị của triết học Phật giáo
Quan niệm về nhận thức trong triết học phật giáo Việt NamTS Triết học Nguyễn Đức Diện Quá trình hình thành quan niệm lý luận về nhận thức luận trong các học thuyết triết học thường diễn ra thông qua mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Trong triết học Phật giáo, giữa bản thể và nhận thức có quan hệ không tách rời. Biểu hiện của quan hệ ấy ở chỗ tính “không” của bản thể, cũng như tính vô thường, nhân quả của thế giới hiện tượng chỉ được nhận thức thông qua mối quan hệ với “tâm”. Quan hệ này cũng giống như quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng. Vì thế, việc tách rời bản thể luận và nhận thức luận chỉ có tính chất tương đối nhằm nghiên cứu phương pháp nhận thức bản thể của Phật giáo. Nhận thức Phật giáo thực chất là nhận ra bản thể, chân tâm của chính mình, tức giác ngộ. Để đạt được mục đích đấy, người học đạo phải tự mình chứng ngộ lấy chân lý thông qua con đường trực giác. Với mục đích giải thoát những đau khổ tinh thần nơi trần thế cho con người, Phật giáo còn đưa ra con đường Tam học. Kết quả của thực hành Tam học, người học đạo sẽ có trí tuệ sáng suốt. Tuy nhiên, trí tuệ này không phải là những tri thức khoa học con người đạt được thông qua con đường biện chứng của quá trình nhận thức, mà là trí tuệ vô sư. Theo Phật giáo, có 2 loại trí. Trí, do học qua thầy, bạn, sách vở là trí hữu sư. Trí này phần lớn từ bên ngoài vào, nó không phải là của mình. Trí do tâm an mà có mới là trí vô sư, nghĩa là không cần đến học tập và truyền bá tri thức. Trí này tiềm ẩn trong mọi người, khi mây mù phiền não tan đi thì nó hiện ra. Nói theo ngôn ngữ nhà Phật, thì người tu hành phải lấy thiền định để nhiếp trì (nhiếp tâm, trì giới) mọi căn, tập trung tư duy, bỏ hết tạp niệm lập tức trí tuệ bát nhã xuất hiện. Song, để có trí (trí vô sư) người học cần phải thiền định, và thiền định lại do công phu trì giới. Do đó, Giới, Định, Tuệ có quan hệ mật thiết với nhau, khiến cho quá trình giác ngộ không bỏ qua bất cứ một bước nào, trong đó thiền đóng vai trò quyết định. 1. Giới (Sila): Phiên âm theo tiếng Hán là Thi La, nghĩa là ngăn cản, phòng ngừa sự sai trái của thân và tâm. Thi La còn có nghĩa là Thanh hương, vì nó có khả năng ngăn ngừa nên gọi là giới. Ý nghĩa của giới là tích cực làm điều thiện, bỏ điều ác để tránh mọi lỗi lầm của thân, khẩu, ý. Giới còn gọi là Ba La Đề Mộc Xoa (Pra- timoksa), hay biệt giải thoát, gồm các điều giới được ghi trong kinh giới của Tỳ Khiêu và Tỳ Khiêu Ni. Biệt giải thoát là giữ kiêng từng điều một thì sẽ được giải thoát từng lỗi một. Ngũ giới là không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu và không vọng ngữ (vọng ngữ là cái tâm không trong sạch, luôn luôn muốn nói dối, che giấu sự thật, nói sai sự thật và sinh khẩu nghiệp). Thập thiện bao gồm ba điều thiện thuộc về thân (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm), bốn điều thiện thuộc về khẩu (không nói dối, không nói hai chiều, không ác khẩu, không nói thêu dệt) và ba điều thiện thuộc về ý (không tham, không si, không sân). Thực chất của giới nhằm hướng dẫn, giúp đỡ con người vươn tới đạo đức cao thượng. Đối với đạo Phật thì giới là giai đoạn đầu tiên, tất yếu với mục đích dìu dắt người tu hành từng bước đến với đạo. Không thể có sự tập trung trí tuệ cao độ nếu thân tâm không trong sạch. Một khi trong đầu óc, trong trái tim còn tràn đầy những khát vọng, ham muốn thì tâm tính còn bị dục vọng sai khiến. Khi tâm dao động không yên thì khó có thể có một nhận định, một suy nghĩ đúng đắn , phản ánh khách quan sự vật, hiện tượng. Tập trung tư duy cao độ vào một vấn đề gì đó chỉ có thể có được khi con người đã gạt ra ngoài tất cả những suy nghĩ vọng động. Để giữ cho tâm tính yên lặng, tỉnh táo thì giới là điều kiện không thể thiếu. Trong đạo Phật, giới còn là phương tiện giúp con người vượt qua sông mê bể khổ luân hồi tới chốn an lạc giải thoát. Khi chưa giác ngộ thì như vậy, khi ngộ rồi nếu chấp vào giới thì giới lại có thể trở thành dây trói buộc thêm, điều đó cũng giống như người qua sông còn vác thuyền lên vai đi tiếp. Ngoài Giới, Định, Tuệ, Trần Thái Tông còn đưa ra phương pháp nhận thức khác như trực giác. Sở dĩ Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng đề cao trực giác là do quan điểm về bản thể. Theo Phật giáo thì bản thể là tự nhiên, bất sinh, bất diệt, không thêm, không bớt... và đứng trước nó mọi ngôn ngữ đều bất lực. Muốn trực nhận bản thể thì không có con đường nào khác ngoài con đường Giới, Định, Tuệ.Kế thừa phương pháp trực nhận bản thể của Thiền tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ Trần Tung (1230 -1291) cho rằng, người học đạo phải hiểu ra ngoài lời nói, để nhận thức cái “tự bản chi tâm”, “tự bản chi tính”, là cái “bất sinh”, “bất diệt”, lời nói không nói cái đó được, bất cứ lúc nào, trong bất cứ ý niệm nào (đang kế tiếp nhau một cách nhanh chóng) nó cũng tự nhiên, nhi nhiên mà hiện ra, tất cả mọi hiện tượng đều thông. “Một” là chân, “tất cả” cũng đều là chân, muôn vàn cảnh giới đều là “như như” (bằng nhau, không thêm không bớt) cái ý thức về tính như như đó là chân thực. Vì thế, chừng nào chưa tìm thấy gốc của giác ngộ thì người tu hành còn chìm đắm ở sông mê bể khổ. Ông nói: “Nếu cứ buông trôi trong mọi thú vui mà không tìm ra điểm bắt đầu, thì duyên lành vô hạn chỉ đến thế mà thôi”.
Nguồn:Tạp chí Phật học (2009) Phật giáođạo Phậttriết họcnhận thứcnhận thức luận |