Nguyên nhân bệnh xoắn ruột

     22 giờ ngày mùng 2 tết năm nay bé sơ sinh nam Nguyễn C. P, 5 ngày tuổi, ở Gia Tân 1, Thống Nhất, phải nhập viện cấp cứu tại BV Nhi đồng Đồng nai vì sau sinh 2 ngày bé bị ói ngày càng nhiều , ói cả mật vàng kèm không đi cầu, sốt cao, thở nhanh và suy sụp tổng trạng.

Nguyên nhân bệnh xoắn ruột

Ngay sau khi nhập viện bé P được nhập vào khoa Hồi Sức Sơ Sinh, 1 loạt các xét nghiệm chuyên về hồi sức và truy tìm nguyên nhân được thực hiện, trong đó có cả chụp XQ cản quang dạ dày tá tràng. Với kỹ năng siêu âm chuyên nhi, nguyên nhân bí ẩn gây ói của bé P đã được phát hiện và BN phải được phẫu thuật khẩn cấp mới mong thoát nạn. Thật may mắn cho bé khi mở bụng toàn bộ ruột non (RN) bị xoắn đã chuyển màu đỏ sậm do dị tật ruột xoay bất toàn(RXBT) xoắn 1,5 vòng làm cho tắc ruột và nghẹt mạch máu nuôi ruột. BS phẫu thuật nhanh chóng tháo xoắn khôi phục dòng máu nuôi đã cứu được toàn bộ ruột non đang bị đe dọa hoại tử và khai thông chỗ ruột tắc nghẽn. Áp dụng thêm kỹ thuật mở rộng rễ mạc treo chung, chuyển vị đại tràng sang bên trái ổ bụng và ruột non sang bên phải đề phòng xoắn ruột tái phát. Sau mổ 5 ngày bé bắt đầu ăn lại, không ói, sức khỏe tăng dần và ra viện 25/02/2016 sau 16 ngày điều trị.

Xoắn ruột do RXBT hiếm gặp, tỷ xuất 1/6000. Dị tật này làm mất sự cố định sinh lý của ruột vào thành bụng: ruột non được treo trên mạc treo dài từ góc bụng phía trên bên trái xuống góc dưới bên phải và đại tràng dính vào thành bụng phía sau theo hình chữ U ngược giúp cho ruột được tự do hoạt động mà không bị xoắn. Khi xoắn ruột do RXBT xẩy ra thì mạch máu gốc của toàn bộ ruột non bị thắt nghẹt gây hoại tử toàn bộ ruột non nếu không phát hiện và mổ kịp thời thì nguy cơ tử vong rất cao. Đã có BN bị cắt hết ruột non do biến chứng này và rơi vào suy kiệt dần rồi tử vong. Đây là 1 loại xoắn ruột nguy hiểm nhất nên quí phụ huynh cần cảnh giác các triệu chứng báo hiệu sớm: nôn ói nhiều, ói mật xanh hoặc vàng, cần đến bệnh viện sớm

Bs Vũ Công Tầm

Tắc ruột là sự giảm cơ học hoặc tắc hoàn toàn lưu thông chất chứa trong lòng ruột do nguyên nhân tắc nghẽn ruột. Các triệu chứng bao gồm đau thắt, nôn mửa, bí trung đại tiện. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, xác định bởi chụp phim x quang bụng. Điều trị gồm bồi phụ lại khối lượng tuần hoàn, đặt sonde dạ dày, và phẫu thuật trong hầu hết các trường hợp tắc ruột.

Sự tắc nghẽn cơ học được chia thành tắc nghẽn của ruột non (bao gồm tá tràng) và tắc nghẽn ruột già. Sự tắc nghẽn có thể là một phần hoặc hoàn toàn. Khoảng 85% các tắc nghẽn ruột non không hoàn toàn được điều trị mà không cần phẫu thuật, trong khi đó khoảng 85% tắc ruột non hoàn toàn cần mổ.

Nhìn chung, các nguyên nhân phổ biến nhất gây tắc nghẽn cơ học là dính ruột thoát vị Thoát vị thành bụng Thoát vị của thành bụng là sự nhô ra của các tạng trong ổ bụng qua một vùng thành bụng yếu hoặc khuyết tật bẩm sinh. Nhiều thoát vị không có triệu chứng, nhưng một số trường hợp bị kẹt hoặc... đọc thêm

Nguyên nhân bệnh xoắn ruột
, và do u. Các nguyên nhân khác là viêm túi thừa Viêm túi thừa đại tràng Viêm túi thừa là viêm và/hoặc nhiễm trùng của một túi thừa, có thể dẫn đến viêm tấy thành ruột, viêm phúc mạc, thủng ruột, lỗ rò, hoặc áp xe. Triệu chứng chính là đau bụng. Chẩn đoán bằng CT... đọc thêm
Nguyên nhân bệnh xoắn ruột
, dị vật gây tắc Tổng quan về các dị vật đường tiêu hoá Nhiều loại dị vật có thể đi vào đường tiêu hóa vô tình hoặc cố ý. Nhiều dị vật tự đi qua ống tiêu hóa, nhưng một số bị dừng lại, gây nên các triệu chứng và đôi khi gây các biến chứng. Vai trò... đọc thêm
Nguyên nhân bệnh xoắn ruột
(bao gồm sỏi mật Viêm đường mật Sỏi mật là sự hiện diện của một hoặc nhiều sỏi mật (galli) trong túi mật. Ở các nước phát triển, khoảng 10% người lớn và 20% dân số > 65 tuổi bị sỏi mật. Sỏi mật có khuynh hướng không triệu... đọc thêm
Nguyên nhân bệnh xoắn ruột
), xoắn ruột (xoắn ruột trên mạc treo của nó), lồng ruột Lồng ruột Lồng ruột là lồng một phần của ruột (phần ruột bị lồng) vào một phần của đoạn ruột liền kề (phần ruột nhận ruột lồng), gây tắc ruột và đôi khi gây thiếu máu ruột cục bộ. Chẩn đoán bằng siêu... đọc thêm (lồng một phần quai ruột này vào quai ruột khác), và ứ đọng phân. Các đoạn ruột khác nhau bị ảnh hưởng khác nhau. ( xem Bảng: Nguyên nhân gây tắc ruột cơ học Nguyên nhân gây tắc ruột cơ học
Nguyên nhân bệnh xoắn ruột
).

Nguyên nhân bệnh xoắn ruột

Trong tắc ruột cơ học đơn thuần, tắc nghẽn không kèm tổn thương mạch máu. Thức ăn, dịch tiêu hóa, và ứ khí trên đoạn tắc. Đoạn ruột trên chỗ tắc giãn, đoạn sau chỗ tắc ruột xẹp. Chức năng bài tiết và hấp thu bình thường của lớp niêm mạc suy giảm, thành ruột phù nề và xung huyết. Sự chướng ruột xuất hiện và nặng dần lên, gây tăng nhu động và rối loạn bài tiết dịch tiêu hóa, làm gia tăng nguy cơ mất dịch và thắt nghẹt ruột.

Tắc nghẹt là tắc có tổn thương mạch máu, gặp ở gần 25% các bệnh nhân tắc ruột non. Tình trạng này thường liên quan đến thoát vị, xoắn ruột, và lồng ruột. Thắt nghẹt ruột có thể tiến triển đến nhồi máu và hoại tử chỉ sau 6 giờ. Sự tắc nghẽn tĩnh mạch diễn ra trước tiên, tiếp theo là tắc động mạch, dẫn đến sự thiếu máu nhanh chóng của thành ruột. Ruột thiếu máu trở nên phù nề và nhồi máu, dẫn đến hoại tử và thủng ruột. Trong tắc ruột già, hoại tử hiếm xảy ra (trừ xoắn ruột).

Thủng ruột có thể xảy ra trên một đoạn ruột thiếu máu (đặc biệt ruột non) hoặc khi giãn ruột xảy ra. Nguy cơ cao nếu manh tràng giãn 13 cm. Thủng ruột do khối u hoặc túi thừa cũng có thể xảy ra ở vị trí tắc.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Tắc ruột gây ra các triệu chứng ngay sau khi khởi phát: đau bụng như chuột rút tập trung ở quang rốn hoặc thượng vị, nôn, và bí trung đại tiện nếu tắc hoàn toàn. Bệnh nhân bị tắc tắc ruột bán phần có thể bị tiêu chảy. Đau nặng, kéo dài gợi ý có thắt nghẹt ruột. Nếu không có thắt nghẹt ruột, ổ bụng không có phản ứng khi ấn đau. Tăng phản ứng, tăng nhu động khi kích thích kèm với đau thắt là triệu chứng đặc trưng. Đôi khi, có thể sờ thấy các quai ruột nổi. Khi nhồi máu xảy ra, bụng trở nên mềm và nghe thấy bụng im lặng hoặc rất ít nhu động. Sốc và thiểu niệu là những dấu hiệu quan trọng cho thấy chỉ tắc ruột đơn thuần hay thắt nghẹt ruột.

Tắc đại tràng thường gây ra các triệu chứng nhẹ hơn, diễn biến từ từ hơn tắc ruột non. Táo bón tăng dẫn đến bí trung đại tiện và chướng bụng. Nôn có thể xảy ra (thường vài giờ sau xuất hiện triệu chứng) nhưng không phổ biến. Thắt nghẹt vùng ruột dưới làm không bài xuất phân. Khám lâm sàng thấy bụng chướng điển hình với tiếng sôi bụng. Không có điểm đau và trực tràng thường rỗng. Một khối lượng tương ứng với vị trí khối u nghẽn có thể thấy rõ. Các triệu chứng toàn thân tương đối nhẹ, thiếu dịch và điện giải không còn hiếm gặp.

Xoắn ruột thường có khởi đầu đột ngột. Đau liên tục, thỉnh thoảng trội lên thành cơn như cơn đau quặn.

  • Các phương pháp đánh giá ổ bụng

Chụp x quang bụng tư thế đứng và nằm nên được chỉ định và thường đủ để chẩn đoán tắc ruột. Mặc dù chỉ nội soi thăm dò ổ bụng mới chẩn đoán xác định nghẹt ruột, khám lâm sàng cẩn thận có thể phát hiện sớm trên lâm sàng. Tăng bạch cầu và toan máu có thể cho thấy thắt nghẹt đã xảy ra, nhưng các dấu hiệu này không có nếu tĩnh mạch dẫn máu từ quai ruột thắt nghẹt giảm lưu lượng.

Trong tắc nghẽn ruột già, x-quang bụng thấy giãn đại tràng trên chỗ tắc. Trong xoắn manh tràng, có thể có bóng hơi lớn giữa bụng hoặc góc trên trái. Cả xoắn manh tràng và đại tràng sigmoid, chụp khung đại tràng nhờ thụt cản quang cho thấy vị trí tắc điển hình là cắt cụt hình "mỏ chim" tại vị trí xoắn; thụt đôi khi làm giảm tắc ruột. Nếu không thụt đại tràng cản quang, nội soi đại tràng có thể làm giảm xoắn đại tràng sigma nhưng hiếm khi hiệu quả với xoắn manh tràng.

Chụp CT ổ bụng ngày càng được chỉ định phổ biến khi nghi ngờ tắc ruột non.

  • Hút dịch dạ dày

  • Truyền dịch

  • Kháng sinh tĩnh mạch nếu nghi ngờ thiếu máu ruột

Bệnh nhân có thể bị tắc ruột nên nhập viện. Điều trị tắc ruột cấp phải tiến hành đồng thời với chẩn đoán. Luôn luôn cần sự tham vấn của bác sĩ ngoại khoa.

Điều trị hỗ trợ giống nhau giữa tắc ruột non và tắc ruột già: sonde hút dạ dày, truyền dịch (dịch đẳng trương 0,9% hoặc Ringer lactat bù đủ khối lượng tuần hoàn), và theo dõi số lượng nước tiểu qua sonde tiểu. Bù điện giải nên dựa theo kết quả xét nghiệm, nhưng trong những trường hợp nôn nhiều lần, natri và kali máu có thể bị mất. Nếu nghi ngờ thiếu máu hay nhồi máu ruột thì nên dùng kháng sinh (ví dụ, cephalosporin thế hệ 3, như cefotetan 2 g tiêm tĩnh mạch) trước khi phẫu thuật thăm dò.

Tắc ruột non hoàn toàn ưu tiên nội soi ổ bụng sớm dù vậy phẫu thuật có thể trì hoãn 2 đến 3 giờ để cải thiện tĩnh trạng thiếu dịch và nước tiểu, mất nước của bệnh nhân. Tổn thương nên cắt bỏ bất cứ khi nào có thể. Nếu sỏi mật là nguyên nhân gây tắc nghẽn, nó sẽ được lấy ra thông qua phẫu thuật cắt ruột và không cần phải phẫu thuật cắt túi mật. Cần thực hiện các thủ tục để ngăn ngừa tái phát, bao gồm sửa chữa thoát vị, loại bỏ các dị vật và ly giải các chất dính vi phạm. Trên những bệnh nhân tắc ruột sớm sau mổ, hoặc tắc ruột tái phát do dính khi không có dấu hiệu viêm phúc mạc, nên điều trị thử bằng đặt sonde theo chiều dài của ruột thay vì phẫu thuật (nhiều bác sĩ cho rằng sonde dạ dày có hiệu quả tương đương), hơn là phẫu thuật, có thể được cố gắng trong trường hợp không có dấu hiệu phúc mạc.

Tắc nghẽn ruột non do ung thư gieo rắc trong phúc mạc là một nguyên nhân chính gây tử vong ở người lướn có ung thư đường tiêu hóa. Bỏ qua đoạn tắc, đặt stent qua mổ mở hoặc nội soi có thể là giải pháp tạm thời trong thời gian ngắn.

Tắc ruột do u đại tràng đôi khi có thể được điều trị bằng cắt bỏ đơn thuần và mở thông có hoặc không mở thông đại tràng hoặc hỗng tràng. Nếu không áp dụng được phương pháp này, cắt bỏ khối u và làm hậu môn nhân tạo đại tràng hoặc hồi tràng có thể được tiến hành và đóng hậu môn thì hai. Đôi khi, làm hậu môn nhân tạo và trì hoẵn cắt bỏ u được khuyến cáo. Việc sử dụng stent nội soi để tạm thời làm giảm tắc nghẽn đang gây tranh cãi. Mặc dù stent đóng một vai trò trong giảm nhẹ ung thư tắc nghẽn bên trái ở những bệnh nhân không thể chịu được phẫu thuật, nhưng vẫn có khả năng xảy ra thủng, và một số nghiên cứu đã gợi ý giảm tỷ lệ sống sót so với phẫu thuật cắt bỏ khi đặt stent. một loại ung thư có khả năng chữa khỏi.

Tắc ruột do phân thường xảy ra ở trực tràng và có thể được lấy bỏ và thụt hậu môn. Tuy nhiên, khối phân kết chặt đơn độc hoặc lẫn lộn (cùng barit hoặc kháng acid) gây tắc ruột hoàn toàn (thường ở đại tràng sigma) cần phải nội soi để lấy bỏ.

Điều trị xoắn manh tràng bao gồm cắt bỏ và lập lại lưu thông ruột giữa đoạn di động và đoạn cố định của manh tràng ở vị trí bình thường của nó sau khi mở thông manh tràng ở những bệnh nhân thể trạng kém. Trong xoắn đại tràng sigma, ống nội soi hoặc ống sonde trực tràng đủ dài thường có thể giải áp các quai ruột, và cắt bỏ và tái thông có thể được trì hoãn trong một vài ngày. Nếu không phẫu thuật hầu như không thể tránh khỏi tái phát.

  • Nguyên nhân phổ biến nhất của tắc ruột là dính, thoát vị và ung thư; tắc ruột non khi không có tiền sử phẫu thuật hoặc thoát vị thường do khối u gây ra.

  • Nôn mửa và thoát dịch vào khoang thứ ba gây mất thể tích tuần hoàn.

  • Tắc ruột lâu có thể gây ra thiếu máu, nhồi máu và thủng ruột.

  • Đặt sonde dạ dày và dịch truyền tĩnh mạch trước khi phẫu thuật sửa chữa.

  • Cân nhắc thử hút qua sonde dạ dày thay vì phẫu thuật ngay ở những bệnh nhân tắc ruột tái phát do dính.