Mới của chiến dịch Biên giới thu đông 1950 so với chiến dịch Việt Bắc

Tóm tắt mục IV. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới thu đông năm 1950

IV. Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới thu đông năm 1950

1. Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến

- Ngày 1/10/1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời và đặt quan hệ ngoại giao với ta [18/01/1950]

- Từ tháng 1/1950, Liên Xô và các nước XHCN đặt quan hệ ngoại giao với ta.

- Ngày 13/5/1949, Mỹ giúp Pháp thực hiện kế hoạch Rơ ve:

+ Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương; công nhận chính phủ Bảo Đại; tháng 5/1950, đồng ý viện trợ cho Pháp.

+ Nội dung kế hoạch Rơ-ve: Tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, cắt đứt liên lạc của ta với quốc tế; Lập hành lang Đông - Tây [Hải Phòng - Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La]; Chuẩn bị tấn công Việt Bắc lần thứ hai, giành thắng lợi để nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

Video tư liệu về hoàn cảnh lịch sử và chiến dịch biên giới thu đông năm 1950

2. Chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950

a] Chủ trương của ta:

Tháng 6 - 1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới nhằm:

- Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch

- Khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới.

- Mở rộng và củng cố căn cứ Việt Bắc, tạo đà thúc đẩy kháng chiến tiến lên.

Bác Hồ thăm một đơn vị tham gia chiến dịch biên giới thu đông 1950

b] Diễn biến:

- Ngày 16/ 9/1950, ta tiến công Đông Khê, sau 2 ngày, ta chiếm Đông Khê.

- Thất Khê bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập, hệ thống phòng ngự của Pháp trên đường số 4 bị cắt làm đôi.

- Pháp phải rút quân từ Cao Bằng về theo đường số 4 và từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh quân từ Cao Bằng về.

- Đoán được ý định của Pháp, ta mai phục chặn đánh khiến cho hai cánh quân trên đường số 4 không gặp được nhau.

- Thất Khê bị uy hiếp, Pháp rút về Na Sầm [8/10/1950].

- Ngày 13/10/1950, địch rút khỏi Na Sầm, cuộc hành quân của địch ở Thái Nguyên cũng bị đập tan. Đường số 4 được giải phóng [22/10/1950]

- Phối hợp với mặt trận Biên giới, ta hoạt động mạnh ở tả ngạn sông Hồng, Tây Bắc, Đường số 6, số 12, buộc địch phải rút khỏi thị xã Hoà Bình. Phong trào du kích phát triển mạnh ở Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ.

Lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông 1950

c] Kết quả:

- Sau hơn một tháng, chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi

- Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.000 địch, giải phóng biên giới Việt - Trung với 35 vạn dân, khai thông con đường nối nước ta với các nước XHCN.

- Chọc thủng “hành lang Đông - Tây” của Pháp, phá vỡ thế bao vây của Pháp.

- Kế hoạch Rơ-ve phá sản.

d] Ý nghĩa

- Con đường liên lạc của ta với các nước Xã hội chủ nghĩa được khai thông.

- Pháp bị động, lúng túng nhiều mặt.

- Ta mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến:

+ Quân đội trưởng thành,

+ Giành thế chủ động trên chiến trường chính Bắc bộ

3. Mở rộng: Chiến thuật của ta và địch trong chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950

- Chiến thuật của Pháp - Mĩ: thực hiện kế hoạch Rơve với chiến thuật là “khóa then cửa” :

+ Thông qua việc tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4 để khóa chặt biên giới Việt - Trung, ngăn chặn sự chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam.

+ Đồng thời, thiết lập hành lang Đông - Tây [Hải Phòng- Hà Nội- Hòa Bình- Sơn La] để ngăn chặn sự chi viện từ liên khu 3 và 4 cho chiến trường Việt Bắc.

- Quân ta sử dụng lối đánh "đánh điểm, diệt viện" để đối phó với địch:

+ Đánh điểm: tấn công cứ điểm Đông Khê khiến cho hệ thống phòng ngự trên đường số 4 của quân Pháp bị chia cắt, cô lập].

+ Diệt viện: tập kích tiêu diệt quân chi viện từ Thất Khê lên và truy kích.

ND chính

- Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến.

- Chủ trương của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950.

- Chiến thuật của ta và địch trong chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950.

Sơ đồ tư duy Hoàn cảnh lịch sử mới và chiến dịch biên giới thu đông năm 1950

Loigiaihay.com

Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 - Xem ngay

Ý nghĩa quan trọng nhất của chiến thắng Biên giới thu- đông năm 1950 là

Chiến thuật nào được Pháp - Mĩ sử dụng trong kế hoạch Rơve?

Sau chiến dịch Biên giới thu - đông 1950, quân đội ta đã

Sau đây là nội dung so sánh giữa chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 và chiến dịch Biên giới thu – đông 1950:

1. Về hoàn cảnh diễn ra

***Chiến dịch Việt Bắc: Do Pháp mở, sau khi chiếm được các đô thị và các trục đường giao thông chính, Pháp tiến tới tiêu diệt cơ quan đầu não của ta nhằm thực hiện đúng kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh,hạn chế tối đa sự tổn hao lực lượng, nhanh chóng bắt tay vào khai thác,bóc lột.

***Chiến dịch Biên giới: Do ta chủ động mở. Thất bại trong chiến dịch Việt Bắc làm phá sản hoàn toàn âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp, ta có thêm điều kiện nhằm giành thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ.

2. Về thế lực của ta

***Chiến dịch Việt Bắc: Địch tấn công, ta phản công lại thắng lợi

***Chiến dịch Biên giới: Ta chủ động tấn công địch.

3. Về Chiến thuật đánh địch

***Chiến dịch Việt Bắc: Ta đánh kiểu du kích ngắn ngày.

***Chiến dịch Biên giới: Đánh điểm diệt viện.

4. Về Kết quả, ý nghĩa

***Chiến dịch Việt Bắc: 

+ Sau hơn hai tháng chiến đấu, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 6.000 tên, bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm 11 tàu chiến và ca nô; giữ vững căn cứ, bảo vệ an toàn cơ quan đầu não và quân chủ lực

+ Đây là cuộc phản công lớn của ta; ta đánh bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của địch, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.

***Chiến dịch Biên giới:

+ Chiến dịch Biên giới kết thúc, thắng lợi thuộc về ta. Ta đã loại hơn 8.000 tên địch; khai thông vùng biên giới Việt – Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập dài 750km với 35 vạn dân; chọc thủng hành lang Đông – Tây của Pháp. Thế bao vây của địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Kế hoạch Rơve bị phá sản.

+ Đây là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của ta giành thắng lợi, nói lên sự trưởng thành nhiều mặt của quân đội ta. Với chiến thắng Biên giới, con đường liên lạc của ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông; quân đội ta đã trưởng thành, ta giành được quyền chủ động trên chiến trường chính [Bắc Bộ], địch bị đẩy vào thế bị động đối phó, mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến chống Pháp.

5. Về ý nghĩa

***Chiến dịch Việt Bắc: 

– Là chiến dịch phản công đầu tiên của ta trong kháng chiến chống Pháp, chứng tỏ ta có đủ khả năng đẩy lùi những cuộc tiến công lớn của địch, củng cố niềm tin cho quân dân, tạo đà cho những thắng lợi kế tiếp.

– Chứng minh đường lối lãnh đạo của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn đồng thời cho thấy sự vững chắc của căn cứ địa Việt Bắc.

– Làm thất bại hoàn toàn âm mưu “đánh nhanh thắng nhanh” của giặc Pháp, buộc chúng phải tiến tới đánh lâu dài, tạo điều kiện cho ta chủ động thực hiện trường kỳ kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến sang 1 giai đoạn mới.

***Chiến dịch Biên giới:

– Là chiến dịch tiến công lớn đầu tiên của ta trong kháng chiến chống Pháp, do ta chủ động mở, khẳng định thế chủ động của ta trên chiến trường chính Bắc Bộ

– Là thất bại lớn nhất từ đầu cuộc kháng chiến của địch cả về quân sự lẫn chính trị. Địch bị đẩy lui vào thế phong ngự bị động, càng thêm lúng túng về mọi mặt

– Tạo thế và lực mới đua cuộc kháng chiến của ta sang thời kỳ phản công cục bộ

– Chứng tỏ sự trưởng thành nhiều mặt của quân đội ta, từ đánh du kích sang đánh tập trung quy mô lớn. Là bước nhảy vọt của ta về chiến thuật: chọn địa điểm tấn công,chủ động mai phục, đoán trước được kế hoạch của địch, làm quân địch trở nên hoảng loạn.

– Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược lớn đối với toàn bộ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

– Hình thành nên thế chủ động của ta, đẩy địch vào thế bị động, so sánh tương quan bắt đầu có lợi cho ta.

– Con đường liên lạc với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông.

Nhận xét: Từ chiến thắng Việt Bắc thu – đông năm 1947 đến chiến thắng Biên giới thu – đông năm 1950 là một bước phát triển mới của cuộc kháng chiến, quyền chủ động trên chiến trường chính đã về tay chúng ta.

Tháng 6/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt-Trung. Nguồn: TTXVN

[Thanhuytphcm.vn]- Sau 29 ngày đêm quân ta chiến đấu quyết liệt, anh dũng và mưu trí [16/9 đến 14/10/1950], chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 đã giành thắng lợi. Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam vào hệ thống phòng ngự của quân Pháp trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn, mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược [1945-1954].

Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước có nhiều biến đổi lớn:

Trên thế giới: Các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, phát triển và lớn mạnh về mọi mặt. Trong đó, Liên Xô giành được nhiều thắng lợi quan trọng trong xây dựng, phát triển đất nước, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh. Ngày 30/1/1950, Việt Nam và Liên Xô chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Trong khu vực: Sau ngày thành lập [1/10/1949], Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố là một nước dân chủ mới, thực hiện chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời tuyên bố đoàn kết với tất cả các nước và dân tộc yêu chuộng hòa bình, tự do trên thế giới, cùng các dân tộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của đế quốc để giữ gìn nền hòa bình lâu dài. Ngày 18/1/1950, Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tình hình trong nước: Sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, quân và dân ta tiếp tục giành nhiều thắng lợi quan trọng: Lực lượng kháng chiến phát triển về mọi mặt; chiến tranh du kích được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch; lực lượng vũ trang ba thứ quân hình thành tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực phát triển nhanh, phương thức tác chiến phát triển từ đánh du kích lên đánh tập trung, với nhiều chiến dịch quy mô nhỏ trên chiến trường. Thực dân Pháp thực hiện kế hoạch mới, được Mỹ giúp sức ráo riết thực hiện Kế hoạch Rơ-ve, tập trung lực lượng mở rộng chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ; ra sức phong tỏa biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của cách mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam; bao vây, cô lập căn cứ địa Việt Bắc.

Trước tình hình đó, để đẩy mạnh kháng chiến tiến lên một bước mới. Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt - Trung với mục đích tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn kế hoạch tác chiến với các sĩ quan quân đội trong chiến dịch vào hạ tuần tháng 8/1950. Nguồn: TTXVN

Ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch giải phóng vùng biên giới Đông Bắc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng Phong II, tiến công phòng tuyến của địch trên đường số 4, tập trung vào khu vực Cao Bằng - Thất Khê. Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân đội ta, mang ý nghĩa chiến lược rất to lớn. Sự thành bại trong chiến dịch này có ảnh hưởng quyết định đến việc thay đổi cục diện chiến tranh, đến lòng tin của quân và dân đối với đường lối kháng chiến của Đảng, đến quá trình xây dựng, trưởng thành của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!”[1].

Với quyết tâm giành thắng lợi cho chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược quan trọng này, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp nghiên cứu tình hình, phê chuẩn kế hoạch tác chiến, chỉ đạo các ngành ở Trung ương và địa phương đem hết sức mình phục vụ tiền tuyến và thực hiện sự phối hợp chiến trường trên toàn quốc để bảo đảm cho chiến dịch toàn thắng. Liên khu Việt Bắc là địa phương chính động viên sức người, sức của phục vụ chiến dịch. Để bảo đảm chắc thắng, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định sử dụng nhiều đơn vị mạnh tham gia chiến dịch. Với tổng số lực lượng tương đương hai đại đoàn, Chiến dịch Biên Giới đã vượt tất cả các chiến dịch trước đây về quy mô sử dụng lực lượng.

Ngày 27/7/1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng chiến dịch; đồng chí Lê Liêm làm Chủ nhiệm Chính trị; đồng chí Trần Đăng Ninh làm Chủ nhiệm Cung cấp.

Số lượng lớn pháp binh và công binh của Bộ Tư lệnh được tập trung cho Chiến dịch biên giới. Nguồn: TTXVN

Tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trên đường ra mặt trận, Người ân cần thăm hỏi, nắm thêm tình hình, động viên bộ đội, dân công.

Ngày 16/8/1950, sau khi cân nhắc, thảo luận, Đảng ủy chiến dịch quyết định đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch; đồng thời, tổ chức tiêu diệt quân ứng cứu cho Đông Khê, sau đó đánh xuống Thất Khê và chỉnh đốn rồi tiếp tục đánh Cao Bằng.

Lực lượng của thực dân Pháp tại biên giới hầu hết là các đơn vị tinh nhuệ, tổng số binh lực chiếm đóng và cơ động là 11 tiểu đoàn, 9 đại đội bộ binh, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh, 27 khẩu pháo các loại và 8 máy bay; xây dựng thành các cụm cứ điểm có lô cốt, hầm hào tương đối kiên cố, hỏa lực chi viện được cho nhau.

Lực lượng của ta tham gia chiến dịch với khoảng 2/3 lực lượng chủ lực của Bộ, cùng lực lượng chủ lực của Liên Khu Việt Bắc và lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn; được phân chia làm ba mặt trận: mặt trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê và quân dù có thể nhảy xuống quanh Đông Khê; mặt trận đánh quân ứng chiếm bố trí ở đoạn đường giữa Đông Khê - Thất Khê; mặt trận Na Sầm - Lạng Sơn có nhiệm vụ phá đường, tiêu hao, quấy rối, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.

Chiến dịch Biên Giới diễn ra 3 đợt:

Đợt 1 [từ ngày 16 đến ngày 20/9/1950]: Ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê.

Đợt 2 [từ ngày 21 đến ngày 29/9/1950]: Tiến hành trận then chốt quyết định tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác - tông.

Đợt 3 [từ ngày 9 đến ngày 14/10/1950]: Địch ở Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn rút chạy, ta truy kích địch giải phóng Thất Khê, Na Sầm.

Sáng ngày 16/9/1950, ta bắt đầu nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch. Mặc dù địch chống cự hết sức quyết liệt và tình huống chiến đấu diễn ra rất gay go, phức tạp, song bộ đội ta vẫn dũng cảm chiến đấu, tổ chức nhiều đợt xung phong, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ. Sáng ngày 18/9, bộ đội ta chiếm toàn bộ cụm cứ điểm Đông Khê.

Sau thất bại Đông Khê, Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương vội vàng thực hiện kế hoạch rút quân khỏi thị xã Cao Bằng, điều động binh đoàn Lơ Pa-giơ ở Thất Khê hành quân tiến lên chiếm lại Đông Khê và đón binh đoàn Sác-tông từ Cao Bằng rút về. Ngoài ra, Bộ chỉ huy quân Pháp còn mở cuộc hành quân Phô-cơ đánh lên vùng tự do Thái Nguyên, nhằm thu hút chủ lực của ta, giải tỏa cho hướng biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn.

Nhờ phán đoán từ trước và đã chuẩn bị sẵn sàng để đối phó, ta vẫn tập trung lực lượng tại biên giới, kiên quyết tiến hành kế hoạch chiến dịch như đã xác định. Bộ Chỉ huy chiến dịch tập trung gần như toàn bộ lực lượng để đánh quân địch đi tiếp viện, lấy đó là đòn đánh then chốt quyết định giành toàn thắng.

Từ ngày 1/10 đến 5/10/1950 đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt ở khu vực phía Nam và phía Tây Đông Khê. Binh đoàn Lơ Pa-giơ chẳng những không thực hiện được ý định chiếm Đông Khê mà còn bị ta tiêu diệt một bộ phận, cuối cùng phải chạy dồn vào khu núi đá Cốc Xá, nơi có địa hình hiểm trở, dựa vào đó cố thủ và lấy đó làm địa điểm đón quân Sác-tông.

Từ ngày 5/10 đến 7/10/1950, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, 4 tiểu đoàn của ta đã liên tục công kích địch ở Cốc Xá. Lơ Pa-giơ cùng ban tham mưu và một bộ phận tàn quân chạy thoát, nhưng đến chiều 8/10/1950 toàn bộ bị bắt gọn.

Ngày 7/10/1950, binh đoàn Sác-tông bị quân ta bao vây công kích tại khu điểm cao 477 [cách Cốc Xá 3km].

Ngày 8/10/1950, một tiểu đoàn do Đờ-la Bôm chỉ huy từ Thất Khê tiến lên định ứng cứu cho Lơ Pa giơ và Sác-tông cũng bị ta đánh tan. Địch liên tiếp rút chạy khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lạng Giang, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu.

Ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên Giới kết thúc.

Trải qua 29 ngày chiến đấu quyết liệt, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Biên giới, bộ đội ta tiến vào giải phóng Thất Kê năm 1950. Nguồn: TTXVN

Phối hợp với Chiến dịch Biên Giới, quân và dân ta đồng loạt tiến công địch trên khắp các chiến trường: ở Thái Nguyên, ta đánh bại cuộc hành quân Phô-cơ của Pháp; hướng Tây Bắc Bắc Bộ, ta bao vây tiến công, buộc địch rút khỏi Lào Cai, Hà Giang, thị xã Hòa Bình; ở Đồng bằng Bắc Bộ, ta tiêu diệt và bức rút hàng chục vị trí, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm; ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, ta mở nhiều chiến dịch tiến công địch.

Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950 đã khẳng định tầm nhìn chiến lược, những quyết sách sáng tạo, hiệu quả của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thể hiện trên một số nội dung cơ bản: nhận định chính xác tình hình, kịp thời hạ quyết tâm mở chiến dịch, tạo bước ngoặt cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc phát triển; kịp thời, chính xác chuyển hướng chiến lược tiến công; tập trung lực lượng lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Quân đội, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, đoàn kết thống nhất cao.

Thắng lợi của quân và dân ta trong Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 là sự kết tinh sức mạnh tổng hợp của cả nước, thành quả của cuộc chiến đấu kiên cường suốt 5 năm [1945-1950] trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.

Quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới, từ thị xã Cao Bằng đến thị trấn Đình Lập [Lạng Sơn] - một địa bàn chiến lược trọng yếu, tạo nên thế trận mới vững chắc; làm phá sản âm mưu “khóa chặt biên giới Việt-Trung” và chọc thủng “hành lang Đông-Tây” của thực dân Pháp.

Thủ đô kháng chiến Việt Bắc không những được giữ vững, mà còn được củng cố, mở rộng, trở thành vùng tự do, an toàn; niềm tin vào thắng lợi của quân và dân cả nước ngày càng thêm vững chắc; nối liền đường giao thông quốc tế giữa căn cứ địa Việt Bắc [Việt Nam] với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.

Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tiếp nhận các nguồn viện trợ về vật chất, vũ khí, trang bị quân sự và học hỏi kinh nghiệm tổ chức chiến đấu của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Cùng với ý nghĩa to lớn đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950 góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia từng bước phát triển vững chắc, phối hợp nhịp nhàng với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam; đồng thời cổ vũ tinh thần chiến đấu và tăng thêm niềm tin cho các dân tộc đang đấu tranh vì độc lập, tự do, nhất là trong giai đoạn này đế quốc Mỹ đang mở cuộc chiến tranh xâm lược Bắc Triều Tiên.

Sau Chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950, quân và dân ta tiếp tục giữ vững quyền chủ động, phát huy thế tiến công chiến lược trong những năm 1951 - 1953; tiến tới giành thắng lợi liên tiếp trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

[Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM]

-------
[1]
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006, tr.626

Tin liên quan

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề