Lê Hữu Trác có tên hiệu là gì theo em tại sao tác gia lại chọn cho mình tên hiệu do

Danh y Lê Hữu Trác còn được biết tới với đại danh Hải Thượng Lãn Ông

Danh y Lê Hữu Trác [1720 – 1791] là người con sinh ra và lớn lên tại mảnh đất Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Tỉnh Hải Dương [nay thuộc tỉnh Hưng Yên, huyện Yên Mỹ]. Ông sinh nhằm ngày 12 tháng 11 năm 1720 [tức năm Canh Ngọ]. Theo nhiều tài liệu cổ ghi chép lại, ông có tên gọi khác là Lê Hữu Huân [theo “Hải Dương phong vật chí”] nhưng đến nay, người đời vẫn quen thuộc gọi ông với cái tên Hải Thượng Lãn Ông.

Nhiều người cho rằng, đại danh Hải Thượng Lãn Ông [có nghĩa là ông già lười ở Hải Thượng] là do sự kết hợp giữa hai chữ cái đầu tiên của tên tỉnh và tên phủ [Tỉnh Hải Dương, Phủ Thượng Hồng]. Cũng có tài liệu cho rằng, chữ “lười” ám chỉ sự chán ghét công danh, không màng mưu lợi, quyền chức của vị danh y này.

Tượng đài của Danh y tại Hoa viên Nghĩa trang Chánh Phú Hoà

Danh y Lê Hữu Trác là người con út trong gia đình có 7 anh em. Chính vì vậy, người trong gia đình thường gọi ông là Cậu Chiêu Bảy. Gia đình ông vốn nổi tiếng bởi truyền thống đỗ đạt khoa bảng, rất nhiều người làm quan to trong triều đình. Trong đó cả 6 người anh của ông đều thi đỗ khoa cử, tiến sĩ. Cha của ông là Lê Hữu Mưu, thuở trẻ đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, được nhà vua phong chức Ngự sử, tước Bá. Chú là Lê Hữu Kiều cũng là Đại triều thần của nhà Lê.

Ngay từ nhỏ, Lê Hữu Trác đã bộc lộ tài năng thiên bẩm trong việc học hành, tinh thông sách sử nên được cha cho lên Kinh kỳ theo học. Tại đây ông nổi tiếng với trí tuệ hơn người thi đậu liền Tam trường. Ông còn cùng các bạn học lập hội “Thi xã” bên Hồ Tây để hằng ngày đối thơ, xướng họa. Tính cách ông hào sảng, thích giao du nên không chỉ được bạn đồng niên mà cả chúa Trịnh cũng hết lòng yêu quý. Tuy nhiên, không lâu sau đó vào năm ông 19 tuổi, cha ông mất [năm 1739] nên phải về nhà chịu tang, vừa lo kế nghiệp gia đình vừa lo hậu sự cho cha. 

Một năm sau đó [tức 1740], giữa thời buổi loạn lạc, Trịnh – Nguyễn – Tây Sơn tranh giành quyền lực, muôn dân lầm than, bạo loạn xảy ra khắp nơi ông đã quyết định gác lại sách vở, luyện tập võ thuật và binh thư, xung phong vào quân ngũ. Chỉ ít lâu sau, ông nhanh chóng nhận ra đây không phải là lẽ sống mà mình theo đuổi nên dù đã được đề bạt nhiều lần, ông kiên quyết từ chối. Cho tới năm 1746, sau khi người anh cả mất tại quê mẹ là huyện Hương Sơn, Nghệ An [nay là Hà Tĩnh] ông đã viện cớ xin rời khỏi quân ngũ về chăm mẹ già và các cháu nhỏ mồ côi.

Bước ngoặt của cuộc đời danh y Lê Hữu Trác xảy đến khi ông mắc trận ốm nặng. Dù đã được người nhà săn sóc và đưa đi chữa trị khắp nơi nhưng đến 2, 3 năm vẫn không có tiến triển. Sau đó có người mách, ông nhờ người đưa tới nơi của thầy thuốc tên Trần Độc ở xã Trung Cần, huyện Thanh Chương [nay là xã Nam Trung, Nam Đàn, Nghệ An]. Trần Độc vốn thi đỗ cử nhân, xong từ chối vinh hoa chốn quan trường để về quê chữa bệnh. Tiếng lành đồn xa nên ông được rất nhiều người trong vùng tín nhiệm.

Trong suốt 1 năm chữa bệnh tại đây, Lê Hữu Trác thường hay nghiên cứu sách y học “Phùng thị cẩm nang” của Trung Hoa. Với trí thông minh và khả năng hiểu sâu sắc vấn đề, ông nhanh chóng nắm bắt được chân lý trong sách và nhen nhóm đam mê học về y thuật. Trần Độc nhận thấy sự tinh thông và quyết tâm của ông, nên bày tỏ mong muốn truyền nghề.

Ở tuổi 30, danh y Lê Hữu Trác trở lại quê mẹ ở Hương Sơn, khước từ lời mời của chúa Trịnh quyết ở lại đây chuyên tâm chữa bệnh cứu người, lấy tên Hải Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên tại đây neo người bầu bạn, lại không có nhiều thầy giỏi để ông học hỏi, Lê Hữu Trác quyết định lên kinh đô học tập, mong tìm kiếm thêm kiến thức y học mênh mông. 

Sau khoảng thời gian học tập, ông trở lại quê mẹ để chữa bệnh cứu người. Với tài năng học rộng, chẩn bệnh giỏi, bốc thuốc hay, lại không màng tới tiền tài danh lợi, ông đã chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người dân. Có người bệnh nhiều năm không khỏi ông cũng chữa được. Chỉ qua một thập kỷ miệt mài cống hiến, tên tuổi của ông nhanh chóng vang danh khắp vùng Hương Sơn và đến tận kinh thành. 

Không dừng lại ở đó, Hải Thượng Lãn Ông còn mở thêm Hội y nhằm quy tụ các danh y từ khắp nơi đến để bầu bạn, tâm sự và chia sẻ kiến thức, học hỏi lẫn nhau. Ông cũng mở các lớp dạy y, đào tạo thế hệ thầy thuốc trẻ. Các lớp học của ông thu hút rất đông học viên tới theo học. Là một người thầy thuốc đồng thời cũng là một người thầy giáo, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác luôn căn dặn với học trò như với chính mình về nhân cách của người thầy thuốc chân chính. Trước hết, ông đề cao tính y đức, sau là tuân thủ 8 chữ “Nhân – Minh – Đức – Trí – Lượng – Thành – Khiêm – Cần” [nhân ái – sáng suốt – đức độ – tốt bụng – chân thành – khiêm tốn – cần cù]. Bên cạnh đó, đặc biệt tránh lười nhác, keo kiệt, vụ lợi, dối trá, ngu si, bất nhân, sân si, thất đức.

Năm 1782, khi đã 62 tuổi, ông nhận lệnh Chúa Trịnh hồi kinh chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Vốn được lòng Trịnh Sâm, ông bị không ít ngự y trong thành ghen ghét. Hải Thượng Lãn Ông vốn không hề nảy sinh thù ghét, chỉ cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và mau chóng thoát khỏi chốn kinh thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, Trịnh Sâm lâm bệnh, Trịnh Cán ốm yếu dai dẳng. Ông đành miễn cưỡng lên chữa bệnh. Dù đã được chữa khỏi nhưng do tuổi cao sức yếu, chỉ ít lâu sau Trịnh Sâm băng hà, con trai là Trịnh Cán lên kế vị. Nhân lúc triều đình đang có người tiến cử thái y mới, Hải Thượng Lãn Ông viện cớ tuổi già thoái lui về quê.

Trong suốt những năm làm thầy thuốc và đào tạo học trò, Danh y Lê Hữu Trác vẫn luôn mong muốn truyền lại y lý cho thế hệ sau thông qua những cuốn sách. Bộ “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh” được ông dày công biên soạn, ghi chép và chắt lọc lại những chân lý ông đã lĩnh hội được từ các đại danh y đời trước và mất gần 10 năm [1760 – 1770] để hoàn thành. Đây là cuốn sách chứa đựng những gì tinh túy nhất trong sự nghiệp của người thầy thuốc vĩ đại này và là tài sản vô giá của nền y học Việt Nam. 

Toàn bộ cuốn sách bao gồm 28 tập, 66 quyển về các chuyên ngành nội khoa, sản khoa, phụ khoa, da liễu, nhãn khoa. Đồng thời ông còn phê phán và chỉ ra những điểm không phù hợp khi áp dụng trong điều trị cho người Việt Nam. Trong gần 20 năm sau đó, ông vẫn tiếp tục biên soạn và cho ra đời nhiều tập sách quý giá nữa như “Y hải cầu nguyên” [1782], “Thượng kinh ký sự” [1783] trong đó phê phán nhiều thói quen xa hoa, những điều “mắt thấy tai nghe” khi ông lên kinh khám bệnh cho Thái tử, “Vận khí bí điển” [1786].

Hải Thượng Lãn Ông qua đời hưởng thọ 71 tuổi vào ngày 15 tháng 1 âm năm 1791. Để tưởng nhớ và tri ân công lao của ông, cứ vào ngày này hằng năm, người dân và người làm nghề y lại cùng nhau tề tựu tại Nhà tưởng niệm Đại danh y ở Liêu Xá dâng hương.

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác chính là người thầy vĩ đại truyền cảm hứng không nhỏ tới các thế hệ trong tương lai. Đồng thời để lại kho tàng y học vô giá, đặt nền móng quan trọng cho sự phát triển của y học nước nhà. 

Lê Hữu Trác là thầy thuốc, bốc thuốc chữa bệnh cho người, Ông rất rõ hệ thống y lý liên quan đến thế giới chung của con người. Bởi trong lịch sử văn minh loài người, y học là một trong những khoa học truyền thống quan hệ mật thiết nhất với sự sinh tồn và phát triển.

    Trong thực tiễn đấu tranh với bệnh tật, các nhà Đông y học đều nhận thấy hệ thống Đông y gắn bó mật thiết với Nho học, đặc biệt là Kinh dịch. Đúng như Trương Cảnh Nhạc, nhà y học nổi tiếng đời Minh, đã nói: "Không biết dịch, không đủ để nói thái y". Cho nên từ xưa đến nay, mọi người đều cho rằng "y và dịch tương thông".

    Lê Hữu Trác nói: "Phàm những người học thuốc tất phải hiểu thấu
lý luận đạo Nho thì học thuốc mới dễ” [Y huấn cách ngôn]. Ông cho rằng nghề y thực hiện chức năng của nghiệp Nho: "Sách thuốc làm ra tuy để dạy chữa bệnh, song nó bao quát cả công trình phò vua, giúp nước" [Tựa Y tông tâm tĩnh]. Đồng thời, Ông thấy lý luận Kinh dịch có tác dụng chỉ đạo lý luận Đông y. Học thuyết Đông y vận khí tương thông với khí quẻ [quái khí], nhất là, tác dụng chỉ đạo của học thuyết âm dương, ảnh hưỏng tư duy lý luận của Chu dịch đối với Đông y rất lớn. Trương Cảnh Nhạc đã từng chỉ rõ rằng: "Dục cai y dịch, lý chỉ âm dương" [Muốn nên y dịch, lý lẽ chỉ có âm dương].

       Âm dương không chỉ là linh hồn của Chu dịch mà còn là lý luận của Đông y và trung tâm tư tưởng của thực tiễn, vận dụng rất rộng ở trong các
lĩnh vực của Đông y. Từ nhận thức đó và từ sự quan sát người bệnh, Lê Hữu Trác cho rằng cơ thể con người và sự vật phải giữ âm dương ở thế cân bằng thì mới có thể phát triển được bình thường. Nghĩa là, thầy thuốc phải điểu hòa được âm dương cho người bệnh; Ông nói: "Dương làm hại âm thì tinh huyết khô cháy, âm làm hại dương thì thẩn khí lặng tắt. Phàm mọi bệnh sinh ra không một bệnh nào không phải vì âm dương hại nhau mà mất điều hòa, "Phàm trăm bệnh của người ta không gì là không do âm dương chệch nhau, điều đó quan hệ đến sống chết", "Âm dương cốt thăng bằng, không nên thiên lệch về một bên. Thủy hỏa trong thân thể con người ta cũng như là cái cân, nếu bên này nặng thì bên kia nhẹ, nếu bên này nhẹ thi bên kia nặng. Phương pháp chữa bệnh là, nếu bên kia nặng thì bổ cho bên này, nếu bên này nặng thì bổ cho bên kia, quyết không thể sai nhau một ly thì mới thăng bằng" [Y hải cẩu nguyên].

      Lê Hữu Trác còn quan tâm đến vấn đề thể xác và tinh thần. Theo Ông, thể xác quyết định tinh thần, tinh thần phụ thuộc vào thể xác, tư tưởng tình cảm có nguồn gốc cơ thể sống. Lập trường đó của Ông là lập trường duy vật, Ông nói: "Thất tình [buồn, vui, mừng, giận, yêu, ghét, dục vọng] là thuộc loại vô hình, nhưng cũng do hữu hình mà ra. Mặt khác, tinh thần cũng tác động lại thể xác, tinh thần thái quá cũng gây bệnh cho cơ thể. Thất tình bị tác động thái quá làm cho nguyên khí ở trong bị thương hóa thành bệnh, bệnh phát ra là do ngũ tạng bị hư, khí bị trệ lại không lưu thông thành ra thực" [Y gia quan miện], "Quá mừng thì hại tâm mà sinh ra tinh thần bồng bột, mạch tán loạn, giận quá thì tổn thương can" [Y gia quan miện], từ đó Ông chủ trương bổ thần, tức là giữ cho tư tưởng được ổn định, yên tĩnh...

Do chức năng nghề nghiệp của ông phải đối diện với các vấn đề: sống, chết, mệnh hệ, sinh con trai hay con gái, Ông dứt khoát loại bỏ quan niệm mệnh trời và khẳng định là do sức người. Ông nói: "Sức người ta có thể thay được số trời, tương lai chưa đoán trước được thế nào" [Thượng kinh ký sự]. Ông giải thích một cách duy vật: "Đàn ông nếu sáu mạch hồng dạt, mạch xích có lực, thì sinh nhiều trai ít gái, nếu sáu mạch trầm tế, mạch xích trầm, yếu thì sinh trai ít gái nhiều, hoặc sinh trai thì con đó chết non, đó là kinh nghiệm đã nhiều, huống chi hai thần [âm và dương] cùng giao kết, hợp lại thành hình" [Phụ đạo xán nhiên], "Người ta đã bẩm thụ ở thiên nhiên thì không ngoài được lý lẽ âm dương, cho nên dương nặng thì sinh nhiều trai, âm thịnh thì sinh nhiều gái" [Phụ đạo xán nhiên].

       Qua đó, ta thấy Ông có tư duy thực tế và sáng tạo, hạn chế được tư tưởng mệnh trời, phát huy năng lực của sức người chữa trị cho bệnh nhân.

      Hơn nữa, Ông xuất phát từ thực tế để tìm căn nguyên của bệnh. Ông cho rằng, thời tiết khác thì cách chữa cũng phải khác: "Không nên quá câu nệ vào thuyết vận khí vì bệnh phát sinh do cả nguyên nhân bên ngoài, cảm nhiễm tùy theo thời tiết", "Nói đến vận khí thì phải tùy cơ ứng biến, tức là trước phải theo khí hậu từng năm, nếu năm ấy mưa nhiều thì bệnh phần nhiều do thấp, phải dùng loại thuốc cay, đắng, ấm" [Vận khí bí điển]. Thể trạng khác thì bài thuốc cũng phải khác. Xem thể trạng của Trịnh Căn, Ông nói: "Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, xác. Thế là âm dương đều tổn hại, nay phải dùng phương thuốc thật bổ để bồi dưỡng tỳ và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên" [Thượng kinh ký sự].

      Tóm lại, quan điểm chữa bệnh của ông là: thời tiết khác, phong thổ khác, thời đại khác, thể trạng khác thì cách chữa bệnh cũng khác.

     Đạt được những thành quả trên là do cái tâm của ông luôn luôn vì con người, vì sự sống còn của con người. Đấy là điều Ông khác với các nhà nho đương thời, Ông không màng danh lợi, học Nho thi đỗ, làm quan, hưởng bổng lộc. Vốn xuất thân trong gia đình nhà nho, có cha đỗ Tiến sĩ, Ông thấu hiểu lẽ sống ở đời, càng hiểu rõ đạo làm người, sống không lụy vào danh, Ông nói: "Cây kia có hoa nên người ta hái; người ta có cái hư danh nên phải lụy chữ danh. Ví bằng trốn cái danh đi có thú hơn không?" [Thượng kinh ký sự]. Ông mong tiêu dao vui thú trong cái vườn đạo lý của Hoàng đế, Kỳ Bá" [Thượng kinh ký sự], "May sao, lời thề núi cũ không quên, tuy thân mắc vào vòng danh lợi, nhưng vẫn không bị danh lợi mê hoặc. Ra đi thung dung, trở về ngất ngưởng. Lại về núi cũ. Lại nằm yên trên đá, lại ngủ dưới hoa!" [Thượng kinh ký sự].

     Lê Hữu Trác đã trở về ở với gia đình, quê hương, làng xóm, sống ở quê mẹ. Người đương thời cho đó là ở ẩn, Ông không hề dao động, vui với cuộc sống ẩn dật suốt đời. Đối với Ông, ở ẩn là để từ quan, là để chữa bệnh cứu người, cứu đời theo tư tưởng duy vật và biện chứng tương đối đơn giản của thuyết âm dương ngũ hành. Đấy là thể hiện đạo làm người của ông, cho nên khi Quận Huy gọi Ông lên Kinh để chữa bệnh cho Thế tử, là dịp được bổ dụng vào chức vụ quan trọng trong triều, nhưng Ông ân hận: "Tôi chỉ ân hận, sao mình đã đi ở ẩn mà còn chưa ẩn cho kín" [Thượng kinh ký sự]. Đây thật là một tư tưởng hiếm có ở các nhà nho đương thời./.

Tài liệu tham khảo

1. Đinh Xuân Lâm [chủ biên], Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập II, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007.

2. Nguyễn Quang Ngọc [cb], Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.

3. Lê Văn Quán, Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam thời kỳ Lê – Nguyễn, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2013.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề