Chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế là ở đâu?

1. Tìm hiểu về đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại:

Thuật ngữ quan hệ đa phương hiện đang được sử dụng rộng rãi trong pháp luật Việt Nam và các văn kiện quốc tế. Mặc dù pháp luật nước ta vẫn chưa có quy định cụ thể, nhưng chúng ta có thể hiểu quan hệ đa phương là hình thức ngoại giao giữa nhiều quốc gia, nhằm mục đích giải quyết những vấn đề chung như chiến tranh, hoà bình, hợp tác và đấu tranh để cùng tồn tại và phát triển. Các quốc gia có thể thiết lập quan hệ đa phương thông qua việc ký kết, thừa nhận các điều ước, công ước, hiệp định quốc tế.

Tại Việt Nam, định hướng chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại trên thực tế, đã được thực hiện từ giai đoạn đầu thời kỳ đổi mới, có xuất phát điểm từ chính sách kinh tế đối ngoại. Cho đến giai đoạn hiện nay thì quan hệ đối ngoại của Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Về lĩnh vực, hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị – kinh tế. Về đối tác, bên cạnh các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam hiện nay cũng mở ra quan hệ với các nước Đông Nam Á, các nước phương Tây. Định hướng đa dạng hóa, đa phương hóa chính thức được đưa vào văn kiện trong Đại hội VIII và từ đó được tiếp tục khẳng định trong các văn kiện của Đảng.

Tính đến nay có rất nhiềuđiều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên, trên nhiều lĩnh vực [chính trị, thương mại, nhân quyền…] có thể kể đến như mốt số các điều ước quốc tế đa phương sau đây:

– Công ước quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1966.

– Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966.

– Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1989.

– Công ước Berne năm 1971 về việc bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật.

– Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 [CISG].

– Và nhiều các điều ước quốc tế đa phương khác.

Trong những năm qua, Việt Nam trên thực tế cũng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại, đặc biệt là thiết lập các cơ chế hợp tác song phương và đa phương để kết nối với thế giới. Điều này xảy đến cúng có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần tạo dựng môi trường hòa bình, thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam.

Các chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, cũng như vai trò và sự đóng góp của Việt Nam trong những năm gần đây đối với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN] và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và thực chất vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong khu vực và trên thế giới.

Cũng theo đó, hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới xuất hiện nhiều diễn biến phức tạp, đặc biệt sự bùng phát của đại dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 đã tác động sâu sắc tới các mối quan hệ quốc tế, nhưng Việt Nam vẫn được tôn vinh khi đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung trong quan hệ với các đối tác, cũng như góp phần vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhằm mục đích để có thể thúc đẩy giải pháp đa phương cho các vấn đề liên quan tới hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực Đông Nam Á nói riêng và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nói chung. Và thực chất, chúng ta nhận thấy rằng, điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với riêng Việt Nam, mà nó cũng còn đối với các quốc gia ở châu Á.

Việt Nam hiện nay đã không ngừng nỗ lực, tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại đa phương quan trọng cụ thể có thể kể đến như các Hiệp định sau: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu, Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực, Hiệp định Thương mại tự do [FTA] giữa Việt Nam và Anh. Điều này xảy đến cũng đã góp phần quan trọng tạo động lực để từ đó Việt Nam phát triển kinh tế.

Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác đa phương, Việt Nam hiện nay cũng chú trọng củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác song phương với các nước láng giềng và các đối tác quan trọng như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Pháp, Italy, Anh… nhằm mục đích để có thể từ đó tạo môi trường hòa bình, thuận lợi để nhằm mục đích có thể từ đó bảo vệ lợi ích quốc gia và phát huy tiềm lực đất nước.

Nhằm mục đích để góp phần đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực Đông Nam Á nói riêng và khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương nói chung, Việt Nam cần chú trọng tăng cường mối quan hệ đối tác với các cường quốc khu vực có lợi ích chung trong việc thúc đẩy khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và mở.

Về xu hướng hợp tác quốc tế, thế giới đang hướng đến cục diện đa cực với xu thế dân chủ hóa phát triển mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế, các quốc gia trên thế giới đa số đều rất coi trọng các thể chế, các phương thức giải quyết đa phương nhằm phục hồi kinh tế, mở rộng không gian phát triển, tạo thêm thế và lực trong cục diện mới. Thực tiễn thời gian qua đã cho thấy, Châu Á – Thái Bình Dương đã tận dụng xu hướng phát triển này, tạo nên sự năng động trong các hoạt động đối ngoại trên mọi lĩnh vực và được đánh giá là dẫn đầu về xu hướng liên kết đa tầng, nhờ đó đã trở thành trung tâm kinh tế, chính trị và động lực tăng trưởng toàn cầu.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác ngoại giao đa phương, cùng với xu thế phát triển chung của khu vực, Việt Nam hiện nay cũng đã có những thay đổi mang tính quyết lược để nắm bắt thời cơ, tận dụng cơ hội, mang lại thế và lực mới cho đất nước trên các diễn đàn hợp tác đa phương.

Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [140.5 KB, 11 trang ]

MỤC LỤC
Trang


MỞ BÀI
Nếu muốn tồn tại thì cách duy nhất đối với mọi cá thể là hòa nhập với cộng
đồng, cùng nhau vận động, giao lưu và phát triển, với một đất nước cũng vậy. Từ
khi đất nước chưa thống nhất, Đảng và Nhà nước đã đều xác định nước ta là một bộ
phận không thể tách rời của thế giới, gắn liền với tiến trình phát triển của thế giới.
Cô lập mình với thế giới chính là cánh cửa dẫn tới sự diệt vong của quốc gia. Việt
Nam chúng ta đã từng có một thời kỳ như vậy, chỉ bó hẹp quan hệ với các nước xã
hội chủ nghĩa mà không quan tâm đến tình hình của các nước khác cũng như thế
giới nói chung, bị bao vây, cô lập bởi chính các nước trong khu vực. Nhưng rất
may, Đảng ta đã có những điều chỉnh kịp thời trong chính sách ngoại giao, giúp
đưa đất nước thoát khỏi tình thế đó. Trong đó phải kể đến Chủ trương về đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại của Đảng ta lúc bấy giờ.
A.
I.
1.

NỘI DUNG

Hoàn cảnh lịch sử
Tình hình thế giới
Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX tình hình thế giới có nhiều biến động.
cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đã tác động sâu sắc
đến nền kinh tế thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện hòa
hoãn giữa các nước lớn. Các nước đang phát triển cũng dần đổi mới chính sách đối
ngoại, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế để
tranh thủ sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Hai xu hướng toàn cầu hóa và
khu vực hóa cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách ngoại giao của


các nước, trong đó có các nước Đông Nam Á.
Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu
sắc. Đến đầu những năm 90, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ
hoàn toàn. Trật tự thế giới hai cực theo đó cũng tan rã, mở ra thời kỳ mới với việc
hình thành trật tự thế giới đa cực.
Tư duy về sức mạnh trên thế giới cũng có sự thay đổi. Sức mạnh của một quốc
gia không chỉ bó hẹp ở mặt quốc phòng, chính trị, quân sự mà phải là tổng thể của


sự phát triển tất cả các mặt: kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ,… trong
đó, kinh tế phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
Những thành tựu của cuộc cách mạng kỹ thuật và công nghệ thông tin trong
những năm cuối thế kỷ 20 đã làm tăng tốc sự phát triển của lực lượng sản xuất,đưa
loài người từ xã hội công nghiệp sang xã hội hậu công nghiệp và đang bướcvào
ngưỡng cửa của xã hội thông tin, nền kinh tế tri thức. chính sự phát triểnmạnh mẽ
này, về khách quan đã dặt ra yêu cầu mở rộng thị trường lên một tầmmức mới,
bằng những phương cách mới. Quan hệ kinh tế vượt qua rào cản về địa lí lan ra
toàn cầu. Hàng hóa, tiền tệ, thông tin,… lưu thông khắp các nước. Hình thành
mạng lưới kinh tế đa chiều.
2.

Tình hình trong nước và những tác động của tình hình thế giới đến việc hình thành
chính sách đổi mới
Trước đổi mới do không nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hội nhập
quốc tế và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, chưa bắt kịp
vowisxu hướng quốc tế mà Việt Nam vẫn trong thế bị bao vây, cô lập. Lấy cớ “Sự
kiện Campuchia”1 các nước ASEAN và một số nước khác thực hiện cấm vận chúng
ta; Mỹ ba lần phủ quyết chúng ta gia nhập Liên hợp quốc… bị cô lập lại bị các thế
lực thù địch chống phá, cộng với các chính sách phát triển sai lầm, không phù hợp
với hoàn cảnh khiến nước ta lâm vảo cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm

trọng.
Những biến động của tình hình thế giới cũng tác động sâu sắc đến nhận thức và
tư duy của Đảng, là cơ sở cho sự đổi mới các chính sách. Đặc biệt sự sụp đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô là bài học quý giá cho chúng ta. Đảng
nhận định rằng sự sụp đổ đó không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói
chung mà là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa đã bị biến dạng, mang
nhiều khuyết tật. Từ đó Đảng đã rút ra nhiều kinh nghiệm cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đối với xu hướng toàn cầu hóa, Đảng khảng định: toàn cầu hóa là một xu thế
khách quan, có cả mặt tích cực và tiêu cực. Chúng ta cần phải tham gia quá trình


toàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhưng vẫn đảm bảo
độc lập, tự chủ.
Xuất phát từ tình hình cụ thể trong và ngoài nước và nhu cầu phát triển của
nước ta, những đánh giá về cục diện thế giới và khu vực nói trên, tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra vào tháng 12/1986, Đảng ta bắt đầu đã
có những đổi mới sâu sắc và mang tính chiến lược về đường lối và chính sách đối
ngoại, đó là đường lối đổi mới xã hội về mọi mặt. Đại hội VIII của đảngchủ trương
“đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”. Cụ thể như sau:
Nội dung đường lối đối ngoại thời kì đổi mới
1. Những nội dung chính
Có thể nêu ra một số chủ trương, chính sách lớn được đề cập trong các văn kiện

II.

-

của Đảng liên quan đến đối ngoại như:
Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững;

Mở rộng thêm các quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa;
Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp;
Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các

-

nguyên tắc, quy định của WTO;
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước;
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập

-

kinh tế quốc tế;
Giải quyết các tốt các vấn đề văn hóa, xã hội và môi trường trong quá trình hội

-

nhập;
Tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực an sinh xã hội như giáo dục, bảo

-

hiểm, y tế, từ đó đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo;
Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập;
Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại

-

nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại;
Đối mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà nước đối với các

hoạt động đối ngoại.
2. Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại
Trong đường lối ngoại giao thời kì đổi mới của Đảng không thể không nhắc đến
chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại. Đây là một trong
những chủ trương quan trọng, thể hiện rõ nét sự đổi mới của Đảng trong quan điểm
và tư duy về công tác đối ngoại. Có thể nói việc đa phương hóa, đa dạng hóa các


quan hệ đối ngoại là cơ sở tiền đề để chúng ta thực hiện được các chủ trương khác
như hội nhập kinh tế quốc tế hay nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
a. Nội dung
Trước thời kì đổi mới, chúng ta đánh giá các quốc gia, các dân tộc khác chỉ đơn
thuần theo tiêu chí chính trị; cách mạng và phản cách mạng, xã hội chủ nghĩa và
phi xã hội chủ nghĩa, tốt và xấu, bạn và thù; có khuynh hướng đánh giá một cách
chủ quan về sức mạnh tuyệt đối của chủ nghĩa xã hội mà không nhận thấy chủ
nghĩa tư bản với khoa học công nghệ đã và đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là
nền kinh tế. Do đó, Đảng chủ trương tập trung phát triển quan hệ ngoại giao với các
nước trong khu vực Đông Nam Á và các xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô – coi
quan hệ với Liên Xô là hòn đá tảng trong chính sách ngoại giao. Điều này khiến
cho quan hệ đối ngoại của Việt Nam bị bó hẹp trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và
trong khu vực.
Tại Đại hội VI, lần đầu tiên Đảng đặt cơ sở cho việc mở rộng quan hệ kinh tế ra
ngoài các nước xã hội chủ nghĩa bằng chủ trương: “Chúng ta cần tranh thủ những
điều kiên thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật, tham gia ngày càng
rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời
tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác”. Triển khai chính sách này, tháng
12/1987, ta đã ban hành Luật đầu tư nhằm thu hút vốn từ các nước trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Đại hội VI cũng đưa ra nhiều điều chỉnh
quan trọng khác trong đó có chủ trương bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.
Đây là những chủ trương mở đầu cho quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các

quan hệ đối ngoại.
Nối tiếp tinh thần của Đại hội VI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa VII
tháng 6/1992 về chính sách đối ngoại là một Nghị quyết hết sức quan trọng, đã cơ
bản hoàn chỉnh đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới của nước ta. Mục tiêu đối
ngoại của ta là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác tạo điều
kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc,
đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa


bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện được mục tiêu đó
một trong những việc chúng ta cần làm đó là đẩy mạnh đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế song song với giữ vững nền độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ,
phát huy cao độ nội lực là nền tảng để phát triển các quan hệ quốc tế và hội nhập
quốc tế. độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, trái lại, phải mở rộng, đa dạng
hóa và đa phương hóa các quan hệ quốc tế, xây dựng được thế đứng vững chắc trên
trường quốc tế.
Chúng ta mở rộng quan hệ đối ngoại theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực;
giải quyết các mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.Chúng ta mở rộng quan hệ với mọi quốc
gia và mọi vùng lãnh thổ trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị - xã hội và ý
thức hệ; trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, văn hóa, giáo
dục, y tế, quốc phòng, an ninh,…; cả quan hệ song phương và đa phương; cả quan
hệ ngoại giao của Quốc hội, Chính phủ, quan hệ đối ngoại của Đảng và đối ngoại
nhân dân. Chúng ta coi trọng phát triển quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các
nước lánh giềng, khu vực, mở rộng quan hệ ngày càng sâu, ổn định, bền vững với
các nước lớn, các trung tâm kinh tế - tài chính quốc tế lớn là những lực lượng ảnh
hưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của nước ta. Đồng thời ta không xem nhẹ
phát triển quan hệ với các nước khác, các nước bè bạn truyền thống, các lực lượng
cách mạng và tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình và công lí trên thế giới.

Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng tháng 6/1996 quyết định đẩy nhanh tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại sang phục vụ phát triển kinh tế
là chủ yếu và Nghị quyết Đại hội IX tháng 4/2001 nâng lên một mức cao hơn, chủ
trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng
quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.
Từ chính sách đối ngoại chủ yếu dựa vào Liên Xô và các nước Xã hội chủ
nghĩa, ta đã chuyển sang chính sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa, đa dạng
hóa các quan hệ quốc tế, với phương thức tập hợp lực lượng rất linh hoạt, theo từng


vấn đề và từng thời điểm cụ thể. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta không đơn giản
phân định địch – ta, thù – bạn mà nhận định một cách biện chứng hơn: những ai
chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ bình đẳng,
cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm
mưu và hoạt động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần
tranh thủ hợp tác; trong một số đối tác quan trọng nhưng vẫn có thể có sự khác biệt,
mâu thuẫn với lợi ích của ta thì vẫn phải đấu tranh; xác định đối tương, đối tác tùy
theo tình huống, hoàn cảnh, tránh mơ hồ, cứng nhắc.
Với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong các quan hệ ngoại giao của
Đảng, chúng ta đã đạt được một số thành tựu nhất định cũng như gặp phải một số
hạn chế.
b. Kết quả
- Thành tựu
Ta đã phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, cô lập; thiết lập quan hệ ngoại
giao với hầu hết các nước trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, trên mọi
phương diện từ chính trị, kinh tế đến an ninh, quốc phòng.
Đến nay, VIệt Nam đã có quan hệ ngoại giao khoảng 180 quốc gia3[tính đến hết
năm 2013], có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành
viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Chúng ta đã có 98 cơ quan đại

diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới.. Thế và lực của
đất nước ngày càng vững mạnh, vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao hơn bao giờ hết. Tất cả đều là minh chứng cho chủ trươngđa dạng
hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế.
Ta đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu
dài với các nước lớn như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu. Nhìn chung, quan
hệ giữa ta với các nước lớn đã có những tiến bộ rõ rệt. Việt Nam hiện nay dưới
chính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn
180 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ bình thường với tất cả các nước
lớn. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc, chúng ta đã đảm nhiệm


thành công cương vị ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010
Trong số các nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao, Việt Nam đã tuyên bố thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với 10 quốc gia gồm: Liên bang Nga [2001], Nhật
Bản [2006], Ấn Độ [2007], Trung Quốc [2008], Hàn Quốc, Tây Ban Nha [2009],
Vương quốc Anh [2010], Đức [2011], Ý [2013]. Trong đó mối quan hệ như với
Trung Quốc và Nga đã được nâng lên tầm đối tác chiến lược toàn diện….2 Từ năm
2009, Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Úc. Cả Pháp và Việt
Nam cũng thống nhất sẽ sớm nâng quan hệ song phương lên tầm đối tác chiến lược
thậm chí là Việt Nam cũng có ý định tương tự với Mỹ và một vài quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á. Các nước lớn, trong đó có cả Mỹ, đều đã cử nguyên thủ
sang thăm chính thức nước ta và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà
nước ta ngược lại cũng đã đi thăm chính thức các nước đó. Với Trung Quốc, ta đã
ký Tuyên bố chung, Thông cáo chung Việt Nam – Trung Quốc với phương châm
“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Với
Mỹ, ta đã ký Hiệp định Thương mại Việt Nam – hoa kỳ và nhiều văn bản hợp tác
khác. Ta cũng đã ký Hiệp định về hợp tác với Liên minh châu Âu, Tuyên bố về
quan hệ đối tác chiến lược với Nga và Khuôn khổ quan hệ đối tác tin cậy và ổn

định lâu dài với Nhật Bản.
Trong khu vực, việc rút quân tình nguyện khỏi Campuchia và chủ động tham
gia giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia là bước đi lớn, tạo tiền đề thuận lợi
để gia nhập ASEAN. Các vấn đề về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước trong
khu vực như Philippine, Thái Lan, Malaysia…phần lớn cũng được chúng ta giải
quyết trong hòa bình bằng các biện pháp ngoại giao, góp phần xây dựng một khu
vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và thịn vượng lâu dài. Đồng thời cùng với
ASEAN, chúng ta cũng tích cực giải quyết các tranh chấp trên biển Đông với
Trung Quốc.


Trong lĩnh vực kinh tế, việc mở rộng quan hệ với nhiều nước, đặc biệt là các
nước lớn đã giúp chúng ta tranh thủ được nhiều nguồn vốn ODA và FDI, mở rộng
thị trường ngoài nước, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2011, giải ngân
ODA của Việt Nam đạt 3,65 tỷ USD. Con số này chỉ chiếm chưa đầy một nửa số
vốn 7,9 tỷ USD cam kết tại Hội nghị CG năm 2010, nhưng đã tăng 10% so với mức
giải ngân hơn 2,9 tỷ USD của năm 2010. Tại Hội nghị CG tháng 12/2011, các nhà
tài trợ tiếp tục cam kết cho Việt Nam trong năm tài khoá 2012 là 7,4 tỷ USD.
Không chỉ vậy, chúng ta còn tiếp thu các kĩ thuật khoa học, công nghệ tiên tiến của
nước ngoài để áp dụng vào trong nước, tăng sức sản xuất và cạnh tranh cho các
doanh nghiệp trong nước. Tất cả là động lực to lớn thúc nền kinh tế của chúng ta
không ngừng phát triển với tốc độ nhanh chóng trong suốt thời gian qua, kể từ khi
Đảng thực hiện chính sách đổi mới. Theo thống kê của viện chiến lược và chính
sách tài chính, tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta tăng tương đối đồng đều quá
các năm, nhất là về cuối năm. GDP cả nước năm 2011 tăng 5,89% ; quy mô nền
kinh tế ước đạt 119 tỷ USD, với mức GDP bình quân đầu người đạt 1.300
USD/năm.
- Khó khăn
Những thực tế trên đã chứng tỏ đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng là đúng
đắn, thể hiện sự trưởng thành về nhận thức, quan điểm. Tuy nhiên không phải là

không có những khó khăn, thử thách mà chúng ta phải đối mặt.
+ Thứ nhất, cùng với quá trình mở rộng quan hệ ngoại giao những lo ngại về an
ninh trong nước cũng gia tăng với nhiều mầm mống nguy hại như sự can thiệp từ
bên ngoài, các lực lượng khủng bố, cực đoan…
+ Thứ hai, trong quan hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn, chúng ta còn
lúng túng, bị động, dễ bị chi phối, áp đặt. Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế cũng
đem lại nhiều thách thức cho nền kinh tế trong nước như sự cạnh tranh của hàng
ngoại, hàng giả, hàng nhái…
+ Thứ ba, việc mở rộng giao lưu văn hóa khiến du nhập vào Việt Nam nhiều
yếu tố văn hóa không lành mạnh, không phù hợp với văn hóa truyền thống người
Việt, thậm chí còn mang tính chất phản động.


Và còn rất nhiều khó khăn, thách thức nữa chờ chúng ta khi tiến hành mở rộng
quan hệ ngoại giao, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, đòi hỏi Đảng
phải thật tỉnh táo, đúng đắn khi đề ra các chính sách, đường lối tiếp theo.
B.

KẾT BÀI

Chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại là một trong số
các chủ trương được đề ra và thực hiện trong suốt thời gian qua. Tuy còn bộc lộ
những hạn chế, nhưng nó vẫn đóng góp một phần to lớn vào quá trình thực hiện
đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 1986 đến nay. Có ý nghĩa rất
quan trọng: góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nền kinh
tế Việt Nam có bước phát triển mới; thế và lực của Việt Nam được nâng cao trên
thương trường cũng như chính trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại trong suốt
quá trình qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế nói
chúng, chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại nói riêng của
Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng tạo.

CHÚ THÍCH
1. Sự kiện campuchia
Nội chiến Campuchia là cuộc chiến giữa lực lượng của Đảng Cộng sản Campuchia [được biết đến
với tên gọi Khmer Đỏ] và đồng minh của họ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam đối chọi với lực lượng chính phủ Campuchia [và sau tháng 10 năm 1970 là
Cộng hòa Khmer], được Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa hỗ trợ.
Cuộc nội chiến này cũng dẫn đến cuộc diệt chủng Campuchia, một trong số các cuộc diệt chủng
đẫm máu nhất trong lịch sử.
Tìm hiểu thêm tại //vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%99i_chi%E1%BA%BFn_Campuchia
2. Cập nhật số liệu từ //vi.wikipedia.org/wiki/Quan_h%E1%BB%87_ngo%E1%BA
%A1i_giao_c%E1%BB%A7a_Vi%E1%BB%87t_Nam
3. Cổng thông tin điện tử sở ngoại vụ //haiphong.gov.vn/Portal/Detail.aspx?
Organization=SNV&MenuID=441&ContentID=18928
4.
5.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản

2.

Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb.

3.


CTQG, Hà Nội, 2004.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

4.

[hệ trung cấp], Nxb. CAND, Hà Nội, 2001.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi

5.

mới [Đại hội VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương [khoá VII], Văn kiện Đại hội Đảng

6.

thời kì đổi mới [Đại hội VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương khoá VII tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng, Văn kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới [Đại hội

7.

VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Văn kiện Đại hội Đảng thời

8.
9.

kì đổi mới [Đại hội VI, VII, VIII, IX], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005.

Trang web: //www.cpv.org.vn
Trang web:

//tapchicongsan.org.vn/Home/The-gioi-van-de-su-kien/2008/3089/Xu-theda-dang-hoa-da-phuong-hoa-hoi-nhap-khu-vuc.aspx
10.

Trang web:
//luanvan.net.vn/luan-van/tieu-luan-van-de-da-phuong-hoa-da-danghoa-trong-chinh-sach-doi-ngoai-cua-nuoc-ta-58407/



Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới [*]

[ĐCSVN] - "Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới" là tựa đề bài viết của Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu tới bạn đọc nội dung bài viết này.
Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và phát huy truyền thống, bản sắc ngoại giao hòa hiếu, giàu tính nhân văn của dân tộc, đường lối đối ngoại của Đảng ta luôn được phát triển và hoàn thiện trong các giai đoạn cách mạng. Trên cơ sở kế thừa đường lối đối ngoại qua các kỳ đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Nhìn lại đường lối đối ngoại của Đảng trong 35 năm Đổi mới

Phát huy mạnh mẽ tư duy đổi mới được khởi xướng từ Đại hội VI [năm 1986], đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia- dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đối ngoại thời kỳ đổi mới và được nhận thức ngày càng sâu sắc.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói "ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác"[1], Đảng ta luôn nhận thức sâu sắc lợi ích quốc gia- dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại. Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX [năm 2003] lần đầu tiên nêu rõ các thành tố cơ bản của lợi ích quốc gia- dân tộc. Từ Đại hội XI [năm 2011], Đảng khẳng định lợi ích quốc gia- dân tộc là mục tiêu cao nhất của đối ngoại, trong đó lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc thống nhất với nhau trong lợi ích quốc gia- dân tộc.

Trong thời kỳ đổi mới, đối ngoại luôn thực hiện nhiệm vụ bao trùm và thường xuyên là giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ các yếu tố quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế đất nước. Nhiệm vụ này được nhận thức ngày càng sâu sắc qua các nhiệm kỳ đại hội Đảng. Nghị quyết 13 Bộ Chính trị khóa VI [năm 1988] khởi đầu quá trình đổi mới tư duy và đường lối đối ngoại, đề ra nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tế và xu thế quốc tế hóa để phát triển đất nước. Đến Đại hội XII [năm 2016], Đảng khẳng định rõ nhiệm vụ của đối ngoại gồm ba thành tố an ninh, phát triển và vị thế đất nước.

Từ chủ trương "thêm bạn, bớt thù", Đảng đã phát triển thành hệ thống quan điểm, phương châm chỉ đạo xuyên suốt đối ngoại Việt Nam thời kỳ đổi mới là nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa; "là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế"; nắm vững hai mặt đối tác- đối tượng, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; kiên định nguyên tắc, mục tiêu chiến lược, nhưng linh hoạt, khôn khéo về sách lược, "dĩ bất biến, ứng vạn biến"... Cơ chế thực hiện đối ngoại là phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản lý tập trung của Nhà nước.

Với nhận thức Việt Nam là một bộ phận của thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế [Đại hội IX] được triển khai mạnh mẽ, sau đó mở rộng sang các lĩnh vực khác và hình thành chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế [Đại hội XI]. Chủ trương này là định hướng chiến lược lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị. Nhận thức về quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ngày càng sâu sắc, trong đó nhất quán kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nội lực là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng.

Đối ngoại song phương và đa phương từng bước điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện. Từ "tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa"[2] [Đại hội VI] đến hợp tác với tất cả các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, bình đẳng, cùng có lợi. Từ tham gia các diễn đàn quốc tế đến "nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược”[3].

Việc thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng đã góp phần rất quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước. Đến nay, nước ta có quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu [G7] và 17 trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới [G20]… Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung và khép kín, đến nay Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có liên kết kinh tế sâu rộng, đã ký và tham gia 17 hiệp định thương mại tự do [FTA], trong đó có các FTA thế hệ mới; kim ngạch xuất nhập khẩu tương đương khoảng 200% GDP, thu hút khoảng 400 tỷ USD vốn FDI đăng ký, v.v…

Việt Nam là thành viên của hầu hết tổ chức quốc tế và diễn đàn đa phương quan trọng, đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn cũng như hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc [2008-2009 và 2020-2021], Hội nghị cấp cao ASEAN [1998, 2010 và 2020], Hội nghị cấp cao ASEM [2004], Hội nghị thượng đỉnh APEC [2006, 2017], Diễn đàn Kinh tế giới về ASEAN [2018], Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ- Triều Tiên [2019], cử hàng trăm lượt cán bộ, chiến sỹ tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, v.v…

Những thành tựu đối ngoại nói trên là kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, là điểm sáng trong thành tựu chung của đất nước như Nghị quyết Đại hội XIII đã khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, trong đó có đóng góp rất quan trọng của đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Sự kế thừa, phát triển và những điểm mới trong đường lối đối ngoại Đại hội XIII.

Trên cơ sở đánh giá toàn diện thành tựu, bài học, thế và lực của đất nước sau 35 năm đổi mới, bối cảnh quốc tế và trong nước, thời cơ chiến lược cũng như thách thức đặt ra đối với đất nước, Đại hội XIII tiếp tục kế thừa những nội dung xuyên suốt đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, đồng thời phát triển và bổ sung nhiều nội dung mới để đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

1. Về đánh giá, dự báo tình hình thế giới, Đại hội XIII kế thừa những nhận định lớn của các kỳ đại hội Đảng trước đây, nhất là Đại hội XII, về các đặc điểm có tính quy luật và xu thế lâu dài của thế giới, song cập nhật, điều chỉnh phù hợp với tình hình mới. Đại hội XIII khẳng định hòa bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, song nhấn mạnh các xu thế này đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn do “thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”; Châu Á- Thái Bình Dương có vai trò ngày càng quan trọng, nhưng chỉ rõ đây là khu vực “tiềm ẩn nhiều bất ổn”, v.v… Trong bối cảnh nhiều thách thức an ninh phi truyền thống diễn biến phức tạp, Đảng nhận định tác động của đại dịch Covid-19 sẽ còn kéo dài, “làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế, phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của thế giới”[4]. Thực tiễn tình hình quốc tế từ Đại hội XIII đến nay đã cho thấy những nhận định nói trên của Đảng là đúng đắn.

Một điểm mới là, trên cơ sở đánh giá Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, Đại hội XIII đã đưa việc tranh thủ thành tựu của cuộc cách mạng này vào nội hàm quan điểm phát triển đất nước, trên cơ sở đó xác định rõ “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo” là một định hướng lớn trong chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030.

Bên cạnh tiếp tục nhận định thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen nhau, Đại hội XIII nêu rõ tình hình thế giới "đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn" đối với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, dự báo đúng tình hình, chủ động trước mọi tình huống. Do đó, vai trò của đối ngoại càng quan trọng, nhiệm vụ càng nặng nề, nhất là vai trò tiên phong trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển đất nước.

2. Về mục tiêu đối ngoại, Đại hội XIII khẳng định "bảo đảmcao nhấtlợi ích quốc gia - dân tộc", tức là đặt lợi ích quốc gia- dân tộc lên trước hết và trên hết; đồng thời, chỉ ra nguyên tắc chung là phải luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia- dân tộc tới mức cao nhất có thể. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia- dân tộc không có nghĩa nước ta theo chủ nghĩa dân tộc vị kỷ. Đại hội XIII nhấn mạnh thúc đẩy lợi ích quốc gia- dân tộc phải "trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi", cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Trong giai đoạn hiện nay, lợi ích quốc gia- dân tộc cao nhẩt là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, Đại hội XIII bổ sung bảo đảm an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xã hội trật tự, kỷ cương cũng là những lợi ích quan trọng của quốc gia- dân tộc. Các thành tố nói trên có quan hệ chặt chẽ, tương hỗ và thống nhất với nhau, không thể coi nhẹ thành tố nào, đồng thời là căn cứ quan trọng nhất để xác định đối tác- đối tượng, hợp tác- đấu tranh trong đối ngoại, là "bất biến" để ứng phó với tình hình diễn biến nhanh, phức tạp.

3. Về vị trí, vai trò và nhiệm vụ của đối ngoại, điểm mới nổi bật trong đường lối đối ngoại Đại hội XIII là lần đầu tiên Đảng xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong của đối ngoại trong "tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huyđộngcác nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước". Các nhiệm vụ này quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó giữ vững hòa bình, ổn định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ trung tâm; nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn lấy ngoại giao hòa hiếu làm thượng sách giữ nước. Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đối ngoại đi đầu tạo thế "vừa đánh, vừa đàm", tranh thủ ủng hộ quốc tế, phá bao vây cấm vận, mở ra cục diện phát triển mới cho đất nước. Trong công cuộc đổi mới, đối ngoại “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước"[5]. Như vậy, việc khẳng định vai trò tiên phong của đối ngoại trong văn kiện Đại hội XIII là bước phát triển mới về tư duy đối ngoại của Đảng trên cơ sở vận dụng sáng tạo tư tưởng giữ nước mang tính chủ động cao của dân tộc, đúc kết thực tiễn phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.

Trước hết, vai trò tiên phong thể hiện ở việc đối ngoại đánh giá, dự báo tình hình, nhận diện thời cơ và thách thức để bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, nhanh nhạy phát hiện các vấn đề mới, tham mưu chiến lược, thúc đẩy đổi mới tư duy, tìm hướng đi thuận lợi cho phát triển đất nước. Vì vậy, Đại hội XIII nhấn mạnh “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”. Nhiệm vụ này rất quan trọng, bởi chỉ có "biết mình", "biết người", "biết thời thế" mới có thể tranh thủ thời cơ, thuận lợi để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong một thế giới vận động không ngừng, phức tạp và khó lường.

Hai là, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó có đối ngoại. Đặc thù của đối ngoại là sử dụng các phương thức, biện pháp hòa bình để ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia.

Phát huy truyền thống giữ nước của ông cha ta là "hòa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo động", Đại hội XIII khẳng định tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy”. Việc thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ giúp củng cố vững chắc cục diện đối ngoại ổn định, thuận lợi cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh đó, đối ngoại cùng quốc phòng, an ninh giữ vững đường biên giới hòa bình, hợp tác và phát triển; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, tìm kiếm và phát huy điểm đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác, linh hoạt và sáng tạo trong xử lý các tranh chấp trên cơ sở lợi ích quốc gia- dân tộc và luật pháp quốc tế; trong đó, tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982.

Ba là, tiên phong huyđộngcác nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Một trong những lợi ích cơ bản của nước ta hiện nay là phấn đấu thực hiện mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Do đó, phát triển đất nước là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động đối ngoại, theo đó tất cả trụ cột, binh chủng đối ngoại đều nỗ lực đóng góp vào thực hiện tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước, trong đó ngoại giao kinh tế là nòng cốt. Như vậy, cùng với tư duy tiên phong, tư duy phát triển là điểm mới trong tư duy đối ngoại của Đảng tại Đại hội XIII.

Quán triệt “phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm”, đối ngoại tiếp tục tranh thủ hiệu quả các yếu tố quốc tế thuận lợi, các FTA đã ký và các cam kết, thỏa thuận quốc tế nhằm mở rộng thị trường, thu hút tri thức, công nghệ và đầu tư phục vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần tăng cường năng lực tự chủ của nền kinh tế và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đối ngoại cũng tranh thủ các mối quan hệ chính trị tốt đẹp để xử lý các vấn đề phức tạp trong hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, vai trò tiên phong của đối ngoại đã được phát huy và thể hiện rõ qua hoạt động “ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, đóng góp quan trọng vào phòng, chống, thích ứng an toàn với Covid-19 và phục hồi, phát triển kinh tế- xã hội.

Bốn là, tiên phong mở đường, đồng hành, phục vụ lợi ích của người dân, địa phương và doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế. Một điểm mới là Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2021-2030 đề ra định hướng “xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm”. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân là gốc” trong đối ngoại, bởi việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại xét đến cùng là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”, bám sát chủ trương, đường lối đối ngoại và phát triển kinh tế- xã hội, đối ngoại kiến tạo môi trường quốc tế thuận lợi, mở đường, đồng hành, hỗ trợ người dân, địa phương và doanh nghiệp tranh thủ tối đa cơ hội, lợi ích và giảm thiểu rủi ro, vượt qua thách thức của hội nhập quốc tế; đồng thời, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.

Năm là, tiên phong nâng cao vị thế và uy tín đất nước thông qua phát huy vai trò nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải, đảm nhận tốt các trọng trách quốc tế, đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào quan tâm chung của thế giới. Đại hội XIII xác định đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng MêCôngvà các khuôn khổ hợp tác cũng như trong những vấn đề quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện của đất nước. Bên cạnh đó, việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân, ngoại giao văn hóa, triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài cũng góp phần quan trọng nâng cao hình ảnh, vị thế và uy tín đất nước.

Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn “mọi việc thành công bởi chữ đồng”, đối ngoại chỉ có thể thực hiện tốt vai trò tiên phong khi được đặt trong tổng thể đối nội- đối ngoại, có được sự phối hợp chặt chẽ, đoàn kết và đồng thuận của các cấp, các ngành và toàn dân, trong đó điểm đồng ở đây là cùng nhau bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Có như vậy, mới phát huy được sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

4. Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng là định hướng bao trùm của đối ngoại trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Thứ nhất, tính đồng bộ thể hiện ở sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các trụ cột đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, giữa các mối quan hệ với các đối tác, các lĩnh vực, nhất là đối ngoại quốc phòng, an ninh, giữa song phương và đa phương… Thứ hai, tính sáng tạo đòi hỏi đối ngoại không ngừng đổi mới, linh hoạt, khôn khéo xử lý các vấn đề phức tạp, tìm hướng đi, cách làm mới với “tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế”[6]. Đương nhiên, sáng tạo phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu chiến lược. Thứ ba, tính hiệu quả thể hiện ở việc đưa các quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất, thiết thực, huy động và kết hợp hiệu quả các nguồn lực bên ngoài với nguồn lực trong nước để phục vụ tốt nhất phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao về tăng cường tính đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong hoạt động đối ngoại.

Về hội nhập quốc tế, Đại hội XIII đặt ra yêu cầu về tính “toàn diện” và “sâu rộng”. Đó là, hội nhập quốc tế qua tất cả các kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, song phương và đa phương, ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực. Không chỉ rộng mở về không gian, hội nhập quốc tế tiếp tục đi vào chiều sâu, triển khai các cam kết quốc tế, trong đó thực hiện hiệu quả các cam kết sâu rộng của các FTA thế hệ mới, “chủ động tham gia, tích cực đóng góp,nâng caovai tròcủa Việt Nam trongxây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” vì lợi ích quốc gia- dân tộc và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

5. Để đối ngoại phát huy vai trò tiên phong và hoàn thành tốt các định hướng, nhiệm vụ nói trên, Đại hội XIII đề ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”[7]. Chủ trương mới này phản ánh sự trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đồng thời cũng là một yêu cầu mới vừa mang tính chiến lược, lâu dài, vừa mang tính cấp thiết đối với đối ngoại và ngành ngoại giao trong bối cảnh mới.

Tính toàn diện của nền ngoại giao Việt Nam thể hiện ở chủ thể thực hiện đối ngoại bao gồm cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhân dân; trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế- xã hội; với tất cả đối tác, địa bàn, khu vực, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đaphương quan trọng có tầm chiến lược.

Tính hiện đại thể hiện ở tính chất nền ngoại giao Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống, bản sắc ngoại giao của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của Đảng qua các thời kỳ và tinh hoa ngoại giao thời đại; ở vận hành nền ngoại giao trong khuôn khổ thể chế ngày càng hoàn thiện, gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; ở tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả với phương thức hoạt động khoa học, chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới, sáng tạo và chủ động thích ứng với chuyển biến mau lẹ của tình hình.

Nền ngoại giao Việt Nam với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân luôn đặt dưới lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước. Dù có vị trí, chức năng, vai trò và lợi thế khác nhau, nhưng ba trụ cột đối ngoại có quan hệ rất chặt chẽ và bổ trợ lẫn nhau bởi cùng thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng với mục tiêu chung vì lợi ích quốc gia- dân tộc. Điều này phản ánh bản chất nền ngoại giao Việt Nam là sự tổng hòa, thống nhất giữa tính đảng, tính quốc gia- dân tộc và tính dân chủ- nhân dân. Việc triển khai đồng bộ, phối hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân sẽ phát huy thế mạnh của từng trụ cột đối ngoại, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền ngoại giao Việt Nam. Đây vừa là truyền thống và bài học quý báu, vừa là nghệ thuật “tập hợp lực lượng” độc đáo của đối ngoại cách mạng Việt Nam cần tiếp tục gìn giữ và phát huy trong giai đoạn mới.

Để xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, bên cạnh tiếp tục củng cố, hoàn thiện cơ chế phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các trụ cột, cơ quan đối ngoại, một trong những điều cốt yếu là cần có đội ngũ cán bộ đối ngoại toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ, hiện đại về phong cách và phương pháp làm việc, đổi mới, sáng tạo, ngang tầm với thời đại. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta có nhiều nhà ngoại giao xuất sắc, là những tấm gương tiêu biểu về lòng yêu nước, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, tài trí và phong cách, nghệ thuật ngoại giao. Trước yêu cầu mới về xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, cần tiếp tục đặc biệt coi trọng công tác cán bộ đối ngoại, nhất là cơ chế, chính sách và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đối ngoại toàn diện về phẩm chất, trình độ và năng lực. Thế hệ cán bộ đối ngoại và ngoại giao hôm nay phát huy truyền thống vẻ vang, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, không ngừng phấn đấu, nâng tầm trí tuệ, vững vàng, tự tin, kiên định và đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới, là kim chỉ nam cho triển khai đối ngoại đồng bộ, sáng tạo và hiệu quả trong thời gian tới. Để các chủ trương, định hướng đối ngoại của Đại hội XIII đi vào cuộc sống, cần sớm có chiến lược tổng thể về đối ngoại gắn kết chặt chẽ với chiến lược bảo vệ Tổ quốc và chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, trên cơ sở đó thống nhất nhận thức và hành động, xây dựng và triển khai các chiến lược, đề án, kế hoạch, biện pháp đối ngoại trong từng lĩnh vực, với từng đối tác. Có như vậy, sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn dân để đối ngoại đóng góp xứng đáng vào thực hiện thắng lợi tầm nhìn, mục tiêu phát triển đất nước mà Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã đề ra./.


[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, 2011, Tập 5, tr. 290.

[2] ĐCS Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ Đổi mới, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, Phần I, tr.97.

[3] Chỉ thị 25 của Ban Bí thư khóa XII.

[4] Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2021-2030.

[5] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28, năm 2013.

[6] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30, tháng 8/2018.

[7] “Nền ngoại giao” ở đây được hiểu tương đương với đối ngoại, gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Thời kỳ ngoại giao Việt Nam đa phương hóa, đa dạng hóa theo tư duy mới

PGS. TS. Hà Minh Hồng 14/10/2021 16:07
Baoquocte.vn. Ngoại giao Việt Nam hiện đại từ khi nền dân chủ cộng hòa được thành lập đến nay, về cơ bản có 3 thời kỳ phát triển; mỗi thời kỳ có ngắn dài về thời gian và khác nhau về cách thức, nhưng đều chung một tiến trình đa phương hóa, đa dạng hóa.

Thực tế lịch sử cho thấy, ngay sau Cách mạng tháng Tám, trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc [1946] Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực […] Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”#_edn1.

trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc [1946] Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Ngày 14/1/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với chính phủ các nước trên thế giới: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới”#_edn2. Đây là cách thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sớm tự xác lập nền ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa phù hợp với tình hình và bản chất mới của thế giới chuyển biến nhanh chóng, toàn diện sau chiến tranh thế giới lần thứ II.

Chính nhờ xác định như thế, cho nên dù lúc còn non trẻ trong thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”, hay khi đủ sức làm nên những thắng lợi “lừng lẫy năm châu”, “chấn động địa cầu”, cũng như suốt 30 năm kháng chiến trường kỳ, Việt Nam không chỉ thiết lập và không ngừng mở rộng quan hệ ngoại giao với hàng chục nước trong và ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa; mà còn nhận được ngày càng nhiều sự đoàn kết, giúp đỡ, ủng hộ của các nước anh em, các nước bầu bạn và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Việt Nam trở thành bộ phận hữu cơ, một ngọn cờ tiên phong của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào hòa bình, dân chủ thế giới thế kỷ XX; đối ngoại vì “hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới” đã làm thành sức mạnh thời đại, hợp với sức mạnh dân tộc “dựa vào sức mình là chính”, làm nên thắng lợi ngày 30/4/1975.

Sau năm 1975, thế giới sau chiến tranh Việt Nam tiếp tục chuyển biến nhanh chóng và toàn diện, nhất là từ khi kết thúc “Chiến tranh Lạnh”, trật tự lưỡng cực bị phá bỏ và một thế giới đa cực hình thành. Việt Nam vượt qua tình thế khó khăn hiểm nghèo 10 năm [1975-1985] để bước vào công cuộc “Đổi mới”, từng bước xây dựng và phát triển trong thế giới đa cực.

Một thời kỳ mới của ngoại giao Việt Nam đa phương hóa, đa dạng hóa đã hiện hữu như một thực thể logic và tất yếu. Không củng cố quan hệ đối ngoại theo mô hình “hòn đá tảng”#_edn3 nữa; không chỉ chăm chút cho quan hệ “anh em”, láng giềng nữa; cùng với thế và lực mới của quốc gia dân tộc ngày càng được tăng cường, Việt Nam từng bước “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”#_edn4.

Bằng việc thiết lập quan hệ đối ngoại với 189/193 quốc gia thành viên LHQ, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện [gồm tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc], ngoại giao Việt Nam từng bước “mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác. Chủ động tham gia xây dựng các nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương khu vực và toàn cầu; xử lý đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác”#_edn5.

Không chỉ giữ vững độc lập, tự chủ, thế mạnh của đất nước được phát huy, Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế, hiểu được cách xử lý các mối quan hệ quốc tế; uy tín, tiếng nói của Việt Nam được bạn bè, đối tác trong khu vực và trên thế giới tôn trọng.

Việt Nam hoàn thành tốt vai trò kép 3 trọng trách: Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ 2020-2021.

Bước vào thập niên 20 của thế kỷ XXI, một thời kỳ mới của quá trình chuyển biến phát triển đã bắt đầu. Đó là khi thế giới đã và đang trải qua những biến động to lớn, tình hình quốc tế và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Mặc dù hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là các xu thế lớn, nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế. Việc ứng phó với đại dịch Covid-19 tác động nhanh và toàn diện đến quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu…

Cũng hiện hữu một thời kỳ mới cho Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước, nhất là khi xác định rõ các mốc lịch sử trăm năm trọng đại 2030, 2045. Trong bàn cờ địa – chiến lược, địa – kinh tế ở khu vực, Việt Nam đã và đang giữ cân bằng trong quan hệ với các nước để trở thành nhân tố ngày càng quan trọng trong chiến lược khu vực và toàn cầu của các nước lớn, cơ hội và thách thức đối với đất nước ngày càng nhiều.

Việt Nam đã giải quyết hàng loạt nhiệm vụ có tính “vạn sự khởi đầu nan”, ảnh hưởng lớn đến thời kỳ phát triển mới. Đáng kể nhất là: Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu, trở thành mắt xích của nhiều liên kết kinh tế lớn, quan trọng ở khu vực và liên khu vực; Việt Nam chuyển từ vị thế tham gia các cơ chế, khuôn khổ do các nước khác dẫn dắt, sang vị thế cùng khởi xướng và kiến tạo cơ chế mới, sân chơi mới. Việt Nam hoàn thành tốt vai trò kép 3 trọng trách: Chủ tịch ASEAN 2020, Chủ tịch Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ 2020-2021.

Trong bối cảnh ấy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra định hướng phát triển của Việt Nam giai đoạn 2021- 2030 nêu rõ: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”#_edn6.

Ngoại giao Việt Nam một lần nữa nhận thức vấn đề đa phương hóa, đa dạng hóa theo tư duy mới. Việc nhận diện trong thách thức luôn có cơ hội, vai trò tiên phong của đối ngoại; việc xác định lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương; việc xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột [đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân]… được coi là những vấn đề mới trong nhận thức thực tiễn.

Trong bài viết ngày 5/4/2021 với nhan đề "Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát vọng phát triển của đất nước", Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh tư duy về đối ngoại song phương và đa phương trong Văn kiện Đại hội XIII có những bước phát triển mới.

Người đứng đầu ngành ngoại giao Việt Nam từng phân tích theo cách xác định yêu cầu nhiệm vụ: “cần tiếp tục đưa các mối quan hệ đối ngoại song phương đi vào chiều sâu”, cần “tạo thế đan xen lợi ích” và “tăng độ tin cậy” trong quan hệ song phương; cần “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế”#_edn7.

Như vậy, đã có cơ sở thực tiễn để đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại song phương và đa phương, đã có tiền lệ chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam trong nhiều cơ chế quốc tế; do đó mục tiêu của đối ngoại đa phương: “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước”#_edn8, như Chỉ thị 25 xác định vừa tầm và khả thi. Nhiệm vụ “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo tiền đề thuận lợi cho việc hiện thức hóa khát vọng phát triển”, cũng đủ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để đạt được mục tiêu “tạo nền tảng” cho Việt Nam “trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045”#_edn9.

*Tác giả PGS. TS. Hà Minh Hồng thuộc Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.

#_ednref1 Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 4. Nxb CTQG H.2011 trang 523

#_ednref2 Hồ Chí Minh Toàn tập Tập 6. Nxb CTQG H.2011 trang 311

#_ednref3 Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V [1982] khẳng định “Đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng của chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”. Văn kiện đảng toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.43, tr.142

#_ednref4 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr 84

#_ednref5 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

#_ednref6 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

#_ednref7 Bùi Thanh Sơn, Đường lối đối ngoại Đại hội XIII với khát vọng phát triển của đất nước

#_ednref8 Chỉ thị số 25-CT/TW [ngày 8-8-2018] của Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030

#_ednref9 Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề