Cách mạng xã hội chủ nghĩa được tiến hành trên cả nước Việt Nam vào Nam

Ðại hội lần thứ IV của Ðảng diễn ra tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 14 đến 20-12-1976. Thay mặt cho 1,5 triệu đảng viên trong cả nước, 1.008 đại biểu về dự Ðại hội. Ðến dự, có 29 đoàn đại biểu các Ðảng Cộng sản, Ðảng Công nhân, phong trào giải phóng dân tộc và các tổ chức quốc tế.

Báo cáo chính trị trình bày tại Ðại hội nêu rõ, thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc trang sử chói lọi nhất; là một chiến công vĩ đại mang tầm vóc lịch sử thế giới của thế kỷ 20. Ðó là thắng lợi của đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, bền bỉ, thông minh của Ðảng và dân tộc Việt Nam Anh hùng với sự giúp đỡ chí tình của các nước xã hội chủ nghĩa, của giai cấp công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.

Ðại hội xác định, đường lối chung của cách mạng nước ta là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng  khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu. Ðồng thời không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Trên cơ sở đường lối chung, Ðại hội chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ xuyên suốt giai đoạn này là thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh; từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội,… Về kế hoạch 5 năm 1976-1980, Ðại hội xác định hai mục tiêu là vừa bảo đảm nhu cầu đời sống nhân dân vừa tích lũy để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy, phải ra sức phát triển vượt bậc về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, giải quyết vững chắc nhu cầu về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thông dụng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, nhất là cơ khí, mở mang giao thông vận tải, xây dựng cơ bản, đẩy mạnh khoa học - kỹ thuật,…

Về công tác xây dựng Ðảng, Ðại hội nêu lên những thay đổi và nhiệm vụ chủ yếu trong thời kỳ mới; vận dụng những kinh nghiệm tích lũy được trong mấy chục năm qua, xác định phương châm, biện pháp trong giai đoạn mới, bảo đảm để Ðảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Ðại hội quyết định đổi tên Ðảng Lao động Việt Nam thành Ðảng Cộng sản Việt Nam như tên gọi khi thành lập; thông qua Ðiều lệ mới của Ðảng, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm. Ðại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức và ba ủy viên dự khuyết. Ðồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.

[Biên soạn từ: Văn kiện Ðảng toàn tập; Lịch sử biên niên Ðảng Cộng sản Việt Nam]. 

1. Từ năm 1975 đến năm 1986

- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 [khóa IV] về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/QĐ-CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V [tháng 6/1985] thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị [tháng 8/1986] về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...

2. Từ năm 1986 đến nay

- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng [tháng 12/1986] đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng [tháng 6/1991] khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

- Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

- Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I [1935] Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII [2016] Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.

- Những thành tựu qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.

Trích: Đề cương tuyên truyền 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Vững tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

[ĐCSVN] - Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã thực sự là thông điệp truyền cảm hứng và lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp Nhân dân, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bằng lý luận khoa học và thực tiễn sâu sắc, với ngôn từ giản dị, dễ hiểu, bài viết của Tổng Bí thư đã có sức truyền cảm, lan tỏa mạnh mẽ và củng cố niềm tin vững chắc đến mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ lực lượng vũ trang và các tầng lớp Nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đồng thời cũng đặt ra việc phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Đây là một bài viết rất hoàn chỉnh, toàn diện, sâu sắc về quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với những nội dung căn bản và quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam kể từ khi đất nước hòa bình, độc lập và thống nhất đến nay. Đó là vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam.

Ảnh: tuyengiao.vn

Ngay sau khi bài viết được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, được cán bộ, chiến sĩ quân đội đón nhận, thêm vững tin về sự lựa chọn sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn kiểm nghiệm trong cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua là đúng đắn. Ngay cả khi phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới bị lung lay, khủng hoảng, sụp đổ vào những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng ta, Nhân dân ta vẫn luôn vững vàng niềm tin về tương lai lịch sử loài người là chủ nghĩa xã hội. Bài viết đã chuyển tải một thông điệp mạnh mẽ, khẳng định ý chí quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng, nhận thức đó được biểu hiện trên các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, bất luận trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là điểm cốt lõi trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ thực tiễn qua nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa yêu nước chân chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa đến kết luận quan trọng: Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”; chỉ có Cách mạng Tháng Mười Nga là đã thành công và “thành công đến nơi”, là triệt để nhất; cách mạng Việt Nam muốn thành công phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin, theo con đường cách mạng Tháng Mười đánh đổ ách thống trị của đế quốc, phong kiến, giành độc lập tự do, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, về đường lối chiến lược, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, kiên trì xây dựng, không ngừng hoàn thiện nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Do đó, bất luận trong hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ quân đội cũng trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Hơn 76 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phấn đấu liên tục, không ngừng phát huy bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, truyền thống vẻ vang của Quân đội, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, được Nhân dân tin tưởng, khen tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.

Thứ hai, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư đã làm rõ chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Đây là quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ, hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của Nhân dân với tinh thần "Không có gì quý hơn Độc lập Tự do". Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ Cương lĩnh Chính trị đầu tiên năm 1930 đến các kỳ Đại hội Đảng, đặc biệt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [1991], Đảng ta luôn khẳng định: "Đảng và Nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng [tháng 01/2011] trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011], Đảng ta một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của Nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử"...

Thứ ba, khi nghiên cứu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư, ta thấy được Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do Nhân dân làm chủ”… Thực tiễn công cuộc đổi mới của nước ta và từ những thành công và cả những thất bại của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, Đảng ta đã khái quát và tìm ra con đường đi riêng, mô hình riêng cho Việt Nam. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một xã hội do dân và vì dân; Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích phục vụ Nhân dân. Đảng ta mong muốn Nhân dân vào cuộc với Đảng, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân thụ hưởng.

Khi dịch COVID-19 xuất hiện, kéo dài, phức tạp, cả hệ thống chính trị vào cuộc quyết liệt, với tinh thần "chống dịch như chống giặc", "mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi gia đình là một pháo đài chống dịch", các lực lượng của Quân đội luôn xung kích, đi đầu, sát cánh cùng chính quyền, Nhân dân các địa phương trong phòng, chống dịch COVID-19. Bất cứ ở đâu có điểm nóng về dịch COVID-19 là bộ đội có mặt, xông pha trên tuyến đầu chống dịch, không quản ngại khó khăn, gian khổ với tinh thần "vì Nhân dân quên mình", "vì Nhân dân phục vụ", từ truy vết, lấy mẫu, xét nghiệm, điều trị, tổ chức cách ly tập trung, tiêm vắc-xin đến chăm sóc bữa ăn, bảo đảm sinh hoạt cho người dân, bệnh nhân, các lực lượng phòng chống dịch, chủ động nhường doanh trại, cơ sở vật chất, huy động lực lượng, phương tiện, trang thiết bị y tế và làm tốt công tác thông tin tuyên truyền, công tác khử khuẩn, khoanh vùng dập dịch, không ngừng lan tỏa hình ảnh cao đẹp "Bộ đội Cụ Hồ" trong lòng Nhân dân.

Các vấn đề trên đã khẳng định, hiếm có một quân đội quốc gia nào trên thế giới thể hiện lòng trung thành tuyệt đối, vô hạn với Đảng, Tổ quốc, Nhân dân như Quân đội Nhân dân Việt Nam; hiếm có Quân đội quốc gia nào trên thế giới mang danh lãnh tụ dân tộc "Bộ đội Cụ Hồ" và hiếm có Quân đội quốc gia nào trên thế giới được giao 3 chức năng: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất. Vừa chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa gắn bó máu thịt với Nhân dân, tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, giúp dân xóa đói, giảm nghèo... Đây là nét riêng có, là tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ tư, khẳng định sự lựa chọn đúng đắn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là trong 35 năm đổi mới, từ một nước nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội lạc hậu, trình độ thấp, nay Việt Nam đã vươn lên đạt được nhiều thành tựu to lớn, tăng trưởng GDP những năm gần đây, bình quân đạt 6,5 - 7% hàng năm; quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập chủ quyền được giữ vững... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định sự kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

Thứ năm, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Nhất là trước sự hoài nghi, không có lập trường vững vàng, hoang mang dao động về tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội và tư tưởng chống phá, đòi xét lại, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất hiện nay. Vì vậy, bên cạnh việc bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy và có sự tham gia tích cực của Nhân dân, trong đó có sự trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân của cán bộ, chiến sĩ toàn quân.

Quán triệt sâu sắc, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng về mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã và đang thực hiện tốt chức năng tham mưu chiến lược về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; xử lý có hiệu quả các tình huống, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh Nhân dân vững chắc trên địa bàn cả nước; chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của toàn quân đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; công tác đối ngoại quốc phòng, tăng cường hội nhập, tạo sự tin cậy trong quan hệ hữu nghị với các nước được đẩy mạnh; năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới... Trước những diễn biến nhanh chóng khó dự báo của tình hình an ninh chính trị - xã hội trên thế giới, khu vực và những thuận lợi, khó khăn trong nước, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, đoàn kết, thống nhất cao, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao; tin tưởng vào chế độ xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

Với tình cảm và trách nhiệm chính trị đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân, vững tin vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, toàn quân tiếp tục thực hiện điều chỉnh tổ chức lực lượng theo hướng tinh, gọn, mạnh; đẩy mạnh hoạt động xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội Nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, trong đó, cần thực hiện có hiệu quả một số nội dung sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm cho Quân đội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định đến tổ chức, xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam; bảo đảm cho quân đội luôn là lực lượng trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Trọng tâm là nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu, xây dựng tinh thần đoàn kết, thống nhất của các tổ chức đảng; gắn xây dựng cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, lòng trung thành đối với nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, chính trị, tư tưởng, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII về xây dựng Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; nâng cao trách nhiệm nêu gương; kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", "xây" là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, "chống" là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.

Hai là, quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, quan điểm của Đảng, nhất là tinh thần bài viết của đồng chí Tổng Bí thư về tổ chức quân đội tinh, gọn, mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Quá trình rà soát, điều chỉnh bảo đảm khách quan, toàn diện, trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Theo đó, cùng với tinh giản cần tiếp tục đầu tư xây dựng các lực lượng đã được xác định tiến thẳng lên hiện đại; nghiên cứu điều chỉnh, điều chuyển, thành lập một số đơn vị dự bị chiến lược; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có tổ chức hợp lý, chất lượng cao; sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sửa chữa quốc phòng theo nhóm sản phẩm, công nghệ; điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.

Ba là, xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Đây là vấn đề quan trọng liên quan trực tiếp đến xây dựng quân đội hiện đại. Đại hội XIII của Đảng xác định: Phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội. Ưu tiên phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, làm nòng cốt xây dựng các tổng công ty tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự, tập trung vào hệ thống tên lửa, hệ thống tự động hóa chỉ huy, tác chiến không gian mạng, phòng, chống chiến tranh hạt nhân, hướng tới tác chiến vũ trụ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Bốn là, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng với yêu cầu xây dựng quân đội hiện đại. Đây là khâu đột phá chiến lược và có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho quân đội hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong tình hình mới. Số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao phải được phát triển mạnh tương ứng với các bước hiện đại hóa về vũ khí trang bị kỹ thuật, yêu cầu hiện đại hóa các quân chủng, binh chủng, lực lượng của quân đội. Phát triển số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao, phải bảo đảm tính vững chắc và có nguồn dự trữ phù hợp. Tập trung phát triển đội ngũ cán bộ khoa học quân sự, những chuyên gia đầu ngành, lực lượng giảng viên trong hệ thống nhà trường, cán bộ các viện nghiên cứu của quân đội. Phát triển đội ngũ cán bộ chỉ huy, chính trị, tham mưu các cấp có chất lượng cao; xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật, kinh tế đủ sức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; chú trọng gia tăng lực lượng chuyên gia, đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật cao ở các đơn vị kỹ thuật. Bảo đảm nguồn nhân lực chất lượng cao đủ theo yêu cầu biên chế xây dựng quân đội hiện đại, trước hết ưu tiên cho những đơn vị trọng điểm.

Năm là, chủ động, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho quân nhân và các tầng lớp Nhân dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn và phương thức tiến hành chống phá của các thế lực thù địch; nhận rõ tính chất phản động về chính trị và phản khoa học của các quan điểm sai trái, thù địch. Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thông tin, tuyên truyền làm cho quân nhân và các tầng lớp Nhân dân nhận thức sâu sắc rằng: Con đường cách mạng mà Nhân dân ta đã lựa chọn “độc lập dân tộc gắn liền với xây dựng chủ nghĩa xã hội” là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta và yêu cầu bức xúc của xã hội Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Đồng thời tuyên truyền làm cho quân nhân và các tầng lớp Nhân dân nhận rõ xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay không sẵn có mô hình, là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật, hợp lòng dân.

Phát huy vai trò nòng cốt của Ban Chỉ đạo 35 và Lực lượng 47 các cấp, cơ quan thông tấn, báo chí trong quân đội với việc tổ chức động viên đông đảo quân nhân tham gia đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, Ban Chỉ đạo 35 và Lực lượng 47 các cấp cần chủ động nghiên cứu các định hướng về căn cứ lý luận và thực tiễn do Ban Tuyên giáo Trung ương phát hành để biên soạn tài liệu lưu hành trong nội bộ định hướng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái trong quân đội. Xây dựng, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong nghiên cứu lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; tiếp tục tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ cho lực lượng tác chiến mạng, chuyên sâu đấu tranh trực diện với các thông tin, quan điểm sai trái trên Internet, mạng xã hội. Hình thành các trang web cá nhân của lực lượng nòng cốt, mở rộng, phát triển các Bloger trong quân đội để phối hợp đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phản động, tuyên truyền, giáo dục rộng rãi tinh thần cảnh giác cách mạng trong Nhân dân.

Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay, cần kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo được sức mạnh tổng hợp lớn nhất bảo vệ Tổ quốc. Đây là định hướng chính trị rất quan trọng, đồng thời đặt ra yêu cầu cao, đòi hỏi Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương phải tích cực, chủ động hơn nữa trong triển khai đường lối, chính sách, chiến lược đối ngoại nhằm khai thác cao nhất sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, cần tuyên truyền sâu rộng, thường xuyên để Nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu rõ, hiểu đúng và đủ về đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh của Việt Nam, từ đó nhận được sự đồng tình, ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” đã thực sự là thông điệp truyền cảm hứng và lan tỏa mạnh mẽ trong mọi tầng lớp Nhân dân, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Từ Thông điệp ấy của Tổng Bí thư, chắc chắn chúng ta sẽ phát huy tối đa mọi nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực, khơi dậy nhận thức, trách nhiệm của các tầng lớp Nhân dân, trong đó có cán bộ, chiến sĩ Quân đội, tạo nên nội lực mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nắm bắt, tận dụng tốt mọi thuận lợi, thời cơ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng phồn vinh, hạnh phúc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Đức, Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề