Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 55, Số chuyên đề: Kinh tế (2019): 78-84 83 Kết quả ước lượng ở Bảng 5 cho thấy mô hình có ý nghĩa ở mức 1%, và 60,9% biến động của CAR được giải thích bởi các biến độc lập đưa vào mô hình. Mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc được giải thích cụ thể như sau: Quy mô ngân hàng (LnSIZE) Thống nhất với hầu hết các kết quả nghiên cứu trước đây, tác động của nhân tố quy mô tài sản đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là có ý nghĩa thống kê, mối quan hệ này có ý nghĩa thống kê ở mức 5%. Thống nhất với kết quả nghiên cứu (Shingjergji and Hyseni, 2015; Mekonnen, 2015), kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy của nghiên cứu này cho thấy quy mô ngân hàng có tương quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, nghĩa là quy mô tài sản của các ngân hàng càng lớn thì tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng càng tăng. Điều này có thể giải thích rằng, trong giai đoạn vừa qua, các ngân hàng tích cực gia tăng vốn của mình bằng cách bán cổ phần cho các đối tác trong và ngoài nước, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý rủi ro. Ngoài ra, các ngân hàng đã tập trung vào quản lý rủi ro tài sản bằng cách chuyển đổi danh mục tài sản và các biện pháp quản trị hiện đại từ các đối tác nước ngoài. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) Kết quả phân tích hồi quy chỉ ra rằng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản của ngân hàng có tương quan tỷ lệ nghịch với tỷ lệ an toàn vốn ở mức ý nghĩa thống kê 5%. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu của (Buyukslvarcil and Abdioglu, 2011; Bateni et al., 2014). Mối quan hệ này có nghĩa khi lợi nhuận của ngân hàng tăng thì sẽ làm giảm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của ngân hàng, do khi ngân hàng muốn đạt được nhiều lợi nhuận hơn thì ngân hàng phải chấp nhận mở rộng danh mục đầu tư hoặc lựa chọn danh mục đầu tư có nhiều rủi ro hơn. Trong thời gian nghiên cứu, do phải cơ cấu lại danh mục đầu tư ít rủi ro hơn, ngân hàng phải tập trung vào việc bảo toàn vốn và ưu tiên về an toàn vốn nên dẫn đến tình hình kinh doanh không tốt, nhưng tình hình về an toàn vốn đã được cải thiện. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu (EQR) Tương tự như biến LnSIZE, kết quả hồi quy cho thấy tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có tương quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ an toàn vốn ở mức ý nghĩa thống kê 1%. Thống nhất với kết quả nghiên cứu trước đây của (Bateni et al., 2014). Theo nhóm tác giả, kết quả này hoàn toàn hợp lý trong tình hình hiện tại do theo Thông tư 36/2014/TT-NHNN hướng dẫn về cách tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, thành phần quan trọng của vốn tự có là vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại; đồng thời, trong tổng tài sản có rủi ro quy đổi ngoài các loại tài sản có mức quy đổi là 0% và tài sản ngoại bảng, chủ yếu là các loại tài sản sinh lời nội bảng của ngân hàng chiếm phần lớn trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Vì thế, khi các ngân hàng gia tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản sẽ làm tăng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cho chính ngân hàng. Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (LLR) Kết quả ước lượng chỉ ra rằng, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng có tương quan nghịch với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu ở mức ý nghĩa thống kê 5%, trong khi đó nghiên cứu của (Võ Hồng Đức và ctv., 2014) cho rằng tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng có mối tương quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Theo nhóm tác giả cho rằng, tồn tại sự khác biệt này là do dữ liệu thu thập cho nghiên cứu trong 2 giai đoạn khác nhau. Võ Hồng Đức và ctv. (2014) nghiên cứu trong giai đoạn xảy ra khủng hoảng kinh tế, trong khi nghiên cứu này được tiến hành trong giai đoạn 2013-2017, đây là giai đoạn các ngân hàng đang tái thiết mạnh mẽ sau thời kỳ khó khăn. Theo nhóm tác giả, kết quả nghiên cứu này có nghĩa nếu dự phòng rủi ro tín dụng gia tăng, nghĩa là chất lượng các khoản cho vay của các ngân hàng đang suy giảm, đồng nghĩa với việc gia tăng rủi ro cho tài sản của ngân hàng. Thực tế trong thời gian nghiên cứu, các ngân hàng đã trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhiều hơn do chất lượng các khoản vay suy giảm, điều này tác động tiêu cực đến tỷ lệ an toàn vốn của chính ngân hàng. Kết quả phân tích hồi quy cũng cho thấy mối quan hệ của biên lãi suất (NIM), tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản (LOA) và tỷ lệ nợ xấu (NPL) đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là không có ý nghĩa thống kê. 5 KẾT LUẬN Mục tiêu của nghiên cứu này là nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của 29 NHTM trong giai đoạn 2013 – 2017, qua đó giúp đánh giá hiệu quả tác động của các nhân tố đến tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM trong bối cảnh hoạt động của ngành ngân hàng như hiện nay. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhân tố quy mô ngân hàng và tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có tương quan tỷ lệ thuận với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Ngược lại, tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản và tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng có tương quan tỷ lệ nghịch với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây. Các nhà quản trị ngân hàng và cơ quan có thẩm quyền có thể căn cứ vào kết quả nghiên cứu để đưa ra các quyết định điều hành trong tương lai, góp phần làm cho NHTM và hệ thống ngân hàng phát triển ổn định và đảm bảo an toàn hoạt động, góp phần điều tiết vốn cho nền kinh tế. Do hạn chế về mặt số liệu nghiên cứu nên |