Xâm hại trẻ em tiếng anh là gì năm 2024

Xâm hại tình dục là vấn nạn xảy ra ở mọi nơi. Nó xuất hiện nhiều ở phương Tây, ở phương Đông cũng không ít. Ở phương Tây, các định kiến xã hội và sự hạn chế về quyền lực, công cụ khiến phụ nữ gặp khó khăn trong việc bảo vệ bản thân và tố cáo kẻ hãm hại mình; ở phương Đông, câu chuyện cũng xảy ra tương tự.

Đây là một lĩnh vực xã hội hiếm hoi mà thật ra phương Tây không khác gì so với phương Đông. Nếu chúng ta có bất kỳ bước tiến nào đột biến về mặt nhân quyền, thì nữ quyền là một trong những nhóm quyền mà Việt Nam có cơ hội vượt mặt phương Tây.

Tuy vậy, rất nhiều người Việt Nam vẫn còn những định kiến về vấn đề quấy rối tình dục. Điều đó thể hiện qua phản hồi của một bộ phận không nhỏ người Việt trong sự việc thu hút nhiều dư luận gần đây. Khi biết nhiều bé gái 15 tuổi liên tục bị gạ gẫm tình dục bằng tin nhắn trong một thời gian dài, họ lập tức đưa ra những bình luận như: “chắc phải thích mới nhắn tiếp”, “sao không block, nhắn tin thì có gì mà quấy rối”, “sao giờ thấy người ta nổi tiếng mới bóc phốt”, v.v.

Mặt khác, nhiều phụ nữ, đặc biệt là các trẻ em gái, vẫn còn hiểu biết thấp về khả năng chống trả và hạn chế trong lựa chọn chống trả đối với các tình huống quấy rối tình dục.

Bài viết này dành cho những độc giả muốn tìm hiểu lại từ đầu hai chủ đề quấy rối tình dục và tiếng Anh pháp lý về quấy rối tình dục, và tập trung vào vấn nạn trong môi trường giáo dục.

Quấy rối tình dục là gì? Nhắn tin “gạ tình”, “khiếm nhã” có phải là quấy rối?

Quấy rối tình dục [sexual harassment] được các nhà nghiên cứu gọi chung là “bạo lực giới”, hay “gender-based violence”. Việc dùng từ “violence” không đồng nghĩa với việc phải có vũ lực trong các hành vi thì mới cấu thành quấy rối tình dục. Khái niệm bạo lực ở đây là chỉ sự bất bình đẳng về vị thế quyền lực giữa nam và nữ trong cấu trúc xã hội của con người [từ gia đình, cơ quan nhà nước, trường học đến công sở].

Đăng ký để đọc tiếp

Đăng ký ngay để đọc toàn văn bài viết này và truy cập tất cả các bài dành cho thành viên miễn phí [gói Free].

Ái nhi [tiếng Anh: pedophilia hoặc paedophilia] là bản năng hay ham muốn tình dục lâu dài và liên tục, phần nhiều hay toàn phần, đối với trẻ em chưa đến tuổi thành niên, thông thường ở dưới tuổi 12. Trong chẩn đoán y học, độ tuổi chính xác để tính là ái nhi ở độ tuổi từ trước dậy thì cho tới 13. Một người được coi là ái nhi phải ở độ tuổi ít nhất là 16, nhưng trẻ trong tuổi vị thành niên phải lớn hơn đối tượng bị hại ít nhất 5 tuổi thì mới coi là ái nhi.

Trong phân loại DSM, ái nhi thuộc nhóm lệch lạc tình dục, người có biểu hiện ái nhi được gọi là người ái nhi [tiếng Anh: pedophile]. Hành vi lạm dụng tình dục trẻ em hay còn gọi là tình dục huyễn nhi, ấu dâm có liên quan đến hiện tượng này. Ngược lại với hiện tượng này là ái lão, khi người bị lệch lạc tình dục hướng đến người già.

Thuật ngữ pedophilia có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: παιδοφιλια, phiên âm: paidofilia, trong đó pais [παις] nghĩa là trẻ em hay bé trai, filia [φιλια] là tình yêu, tình bạn. Thuật ngữ nguyên thủy của Hy Lạp cổ đại này được nhà tâm thần học người Áo Richard von Krafft-Ebing bắt đầu sử dụng trong thuật ngữ tâm thần học "paedophilia erotica" năm 1886.

Trong các lĩnh vực không chuyên môn, nhất là trong truyền thông đại chúng, ái nhi được dùng để chỉ quan hệ tình dục với trẻ em chưa đến tuổi thành niên hoặc các hoạt động liên quan đến phim ảnh kích dục với trẻ em [sản xuất, lưu trữ, phân phối, sử dụng]. Do các định nghĩa về ái nhi chưa chính xác và chưa ổn định, mức độ tồn tại của hiện tượng ái nhi trong xã hội không thể xác định bằng phương pháp có thể vượt quá phạm vi của từng phương cách điều tra cụ thể.

Định nghĩa[sửa | sửa mã nguồn]

Tuổi trẻ em[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một vài định nghĩa, ái nhi chỉ bó hẹp trong phạm vi ham muốn tình dục đối với cá nhân chưa có những biểu hiện phát triển tình dục thứ cấp. Nhưng theo những định nghĩa khác [ví dụ Krafft-Ebing], ngoài khoảng tuổi kề cận dậy thì, hiện tượng ái nhi còn hướng vào các cháu ở thời kì chớm dậy thì, trong một ít trường hợp cả các cháu gần hết tuổi dậy thì hay người mới trưởng thành nhưng vẫn còn những nét dáng hoặc cung cách trẻ con. Trẻ mới lớn thường hấp dẫn không chỉ đối với những người ái nhi, mà còn cả đối với những người trong nhóm lệch lạc tình dục với người mới lớn [tiếng Anh: teleiophilia].

Hoàn toàn hay phần lớn[sửa | sửa mã nguồn]

Thông thường, khi bản năng ham muốn tình dục của một người, hoàn toàn hay phần lớn, chỉ có đối với trẻ em thì mới coi là hiện tượng ái nhi. Khả năng con người yêu thương trẻ em, được trẻ em lôi cuốn, khả năng cơ quan sinh dục có thể bị trẻ em kích thích ở một giới hạn nhỏ là khả năng của phần đáng kể của con người. Trong quá trình nghiên cứu sự thay đổi thể tích dương vật [tiếng Anh: phallography], số người cảm thấy bị kích thích đối với các tác động "trẻ em" mạnh hơn phản ứng đối với các tác động "người lớn" khoảng vài chục phần trăm, trong khi tỉ lệ này ở nhóm người được coi là ái nhi chỉ vài phần trăm.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lệch lạc tình dục
  • Ái lão [Gerontophilia]
  • Ái vật
  • Bạo dâm
  • Khổ dâm
  • Miên dâm
  • Đồng tính luyến ái
  • Giao cấu với loài vật
  • Thị dâm
  • Ái tử thi

Nhầm lẫn tại Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Việt Nam, chúng ta thường dùng chung từ "ấu dâm" để chỉ cả những người "ái nhi" và những kẻ phạm tội lạm dụng tình dục trẻ em [tiếng Anh gọi là child molestation]. Nhưng theo nhiều ý kiến chuyên gia, cần phân biệt giữa 2 khái niệm này, vì không phải người "ái nhi" nào cũng có những hành vi xâm hại trẻ em. Tức là tội phạm xâm hại tình dục trẻ em được coi ái nhi, nhưng thứ đưa những kẻ này vào tù là hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Nếu không có những hành vi như vậy, những kẻ đó vẫn sẽ là một công dân bình thường, dù tư tưởng có nghĩ gì đi chăng nữa. Giống như việc đàn ông có thể... nghĩ bậy thoải mái về nữ giới, nhưng nếu anh ta không có hành vi cưỡng ép, quấy rối hay làm điều gì đó vi phạm pháp luật, anh ta vẫn sẽ tự do.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  • ^ “Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition”. American Psychiatric Publishing. 2013. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2013.
  • ^ See section F65.4 Paedophilia. “The ICD-10 Classification of Mental and Behavioural Disorders Diagnostic criteria for research World” [PDF]. World Health Organization/ICD-10. 1993. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012. B. A persistent or a predominant preference for sexual activity with a prepubescent child or children. C. The person is at least 16 years old and at least five years older than the child or children in B.
  • Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders.
  • Psychopathia Sexualis, xuất bản 1886, tác giả Richard von Krafft-Ebing. Biểu hiện phát triển tình dục thứ cấp trong giai đoạn dậy thì bao gồm: đổi giọng, phát triến ngực, lông, cơ v.v... do tác động của hóc-môn sinh dục.

Chủ Đề