Vì sao nói giáo dục là quốc sách hàng đầu trong sự phát triển đất nước

Vì sao giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu? Nêu nhiệm vụ của giáo dục và đào tạo? Trình bày rõ phương hướng cơ bản để phát triển giáo dục và đào tạo?

Vì sao nói giáo dục là quốc sách hàng đầu

25/08/2021 02:22 729
Nội dung bài viết

Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy vì sao nói giáo dục là quốc sách hàng đầu?

Các bài viết liên quan:

Bạn đang xem: vì sao gd-đt và kh-cn là vấn đề quốc sách hàng đầu của

+ Mục tiêu giáo dục tiểu học theo Luật Giáo dục 2020

+ Cơ sở lý luận quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh

Vì sao nói giáo dục là quốc sách hàng đầu

1. Quốc sách là gì?

Quốc sách là chính sách lớn, quan trọng của Nhà nước.

2. Quốc sách tiếng Anh là gì?

Quốc sách tiếng Anh là “National policy”.

3. Quốc sách hàng đầu là gì?

Quốc sách hàng đầu:lànhững chínhsáchtrọng tâm có vai trò chính yếu của nhà nước, luôn dành được sự ưu tiênhàng đầu, quan tâm đặc biệt của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chínhsách, các biện pháp và phạm vi thực hiện và nguồn ngânsáchchi cho chínhsách đó.

1. Vì sao nói giáo dục là quốc sách mặt hàng đầu?

trước hết, bọn họ yêu cầu xác minh cầm như thế nào là quốc sách số 1. Quốc sách hàng đầu: là gần như chế độ giữa trung tâm bao gồm sứ mệnh chính yếu ớt trong phòng nước, luôn luôn dành được sự ưu tiên bậc nhất, quan tâm đặc trưng của phòng nước, được bộc lộ qua một loạt những cơ chế, các giải pháp với phạm vi thực hiện với nguồn vốn chi cho chính sách kia. giáo dục và đào tạo huấn luyện nhập vai trò đặc trưng, là yếu tố chìa khóa, là đụng lực liên hệ nền tài chính trở nên tân tiến. Không chỉ ở toàn quốc cơ mà ngơi nghỉ đa số những nước nhà khác trên nhân loại, những chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy bởi sao nói giáo dục là quốc sách mặt hàng đầu? Vi sao giáo dục lại có khoảng đặc biệt mang lại kế hoạch phát triển non sông như vây?

- Thứ nhất: giáo dục và đào tạo đào tạo là ĐK tiên quyết đóng góp phần cải cách và phát triển kinh tế.

Bạn đang xem: Tại sao nói giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu

- Thứ hai: Giáo dục đào tạo giảng dạy đóng góp phần bất biến chính trị xóm hội.

- Thứ ba: trên hết dạy dỗ huấn luyện đóng góp thêm phần nâng cao chỉ số trở nên tân tiến bé người


Nếu chúng ta không có khá nhiều kinh nghiệm tay nghề trong bài toán viết luận văn, luận án tốt khóa luận giỏi nghiệp. quý khách bắt buộc đếnviết thuê luận văn sẽ giúp đỡ bản thân kết thúc số đông bài luận đúng deadline?

khi gặp gỡ khó khăn về vấn đề viết luận văn uống, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ mang đến Tổng đài hỗ trợ tư vấn luận văn uống 1080, địa điểm giúp cho bạn xử lý mọi khó khăn nhưng Shop chúng tôi đã từng có lần trải qua.


Vậy vì chưng sao nói dạy dỗ là quốc sách sản phẩm đầu

Do kia giáo dục- huấn luyện tất cả chức năng to lớn lớn mang lại toàn cục đời sống thiết bị hóa học cùng cuộc sống ý thức của làng hội. Phát triển giáo dục - huấn luyện và giảng dạy là các đại lý nhằm thực hiện chiến lược cải tiến và phát triển gớm tế-làng hội, kế hoạch con người của Đảng cùng Nhà nước ta. Chính sách giáo dục là quốc sách số 1 được bộc lộ ngay lập tức vào Điều 35 của Hiến pháp 1992: “dạy dỗ cùng đào tạo và giảng dạy là quốc sách sản phẩm đầu”, đến Hiến pháp 1992 sửa thay đổi năm 2001 thì sửa thành: “Phát triển giáo dục là quốc sách sản phẩm đầu”.

Như vậy, ngay lập tức trong quy định của Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta đang xác định tầm đặc trưng của dạy dỗ. Theo cách nhìn ở trong phòng VN, không tồn tại sự chi tiêu nào đem đến các lợi ích nlỗi chi tiêu cho dạy dỗ, do giáo dục là vận động mà qua đó xuất hiện đề nghị nhân giải pháp của công dân, đào tạo nên những người lao đụng gồm nghề, năng hễ cùng sáng tạo, là tiền đề cho việc cách tân và phát triển kinh tế tài chính, làng hội của đất nước.

1. Quốc sách là gì?

Quốc sách là chính sách lớn, quan trọng của Nhà nước.

2. Quốc sách tiếng Anh là gì?

Quốc sách tiếng Anh là “National policy”.

3. Quốc sách hàng đầu là gì?

Quốc sách hàng đầu:lànhững chínhsáchtrọng tâm có vai trò chính yếu của nhà nước, luôn dành được sự ưu tiênhàng đầu, quan tâm đặc biệt của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chínhsách, các biện pháp và phạm vi thực hiện và nguồn ngânsáchchi cho chínhsách đó.

4. Quốc sách hàng đầu tiếng Anh là gì?

Quốc sách hàng đầu tiếng Anh là: “Top national policy”.

5. Vì sao nói giáo dục đào tạo là Quốc sách hàng đầu?

5.1. Vị trí, tầm quan trọng của giáo dục

Giáo dục theo nghĩa chung là hình thức học tập theo đó kiến thức, kỹ năng, và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục đại học.

Chính sách giáo dục: Là các chính sách do Đảng đặt ra nhằm điều chỉnh lĩnh vực giáo dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.

Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, bởi:

Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế.

Để tăng trưởng kinh tế, chúng ta cần 5 yếu tố cơ bản đó là: Vốn, khoa học và công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước. Trong đó yếu tố con người là quan trọng nhất. Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của quá trình tăng trưởng kinh tế, ta phải phát triển giáo dục và đào tạo.

Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.

Thứ ba: trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người.

Xem thêm: Vivo V19 Giá Bao Nhiêu - Mua Vivo V19 Chính Hãng ✅ Giảm Ngay 1

Chỉ số phát triển con người [Human Development Index- HDI] là một trong những chỉ tiêu kinh tế- xã hội tổng hợp, là thước đo trình độ phát triển của một quốc gia, được dùng làm căn cứ để đánh giá, so sánh trình độ phát triển với các quốc gia khác.

HDI được đánh giá qua 3 tiêu chí:

– Sức khỏe [đo bằng tuổi thọ trung bình]

– Giáo dục [đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục]

– Thu nhập [mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người].

Trong ba chỉ số thành phần của HDI, chỉ số giáo dục phản ánh năng lực phát triển con người về mặt trí lực, nền tảng để con người có khả năng tiếp cận được cơ hội việc làm có thu nhập tốt hơn, từ đó có thể thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người. Như vậy rõ ràng, giáo dục là chỉ số cơ bản và tiên quyết giúp con người đạt được các chỉ số còn lại, tiến tới nâng cao chỉ số phát triển con người.

Từ 3 lý do đó, ta thấy rõ ràng tầm ảnh hưởng trực tiếp của giáo dục tới kinh tế và chính trị- 2 lĩnh vực trọng tâm và then chốt của quá trình phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Từ đó càng khẳng định sự đúng đắn trong quan điểm chỉ đạo của Đảng.

5.2. Sự ghi nhận về giáo dục đào tạo qua các bản Hiến pháp

Trong lịch sử phát triển loài người giáo dục luôn được coi là tài sản vô giá của mọi con người cũng như mọi dân tộc, nhân thức rõ điều đó Đảng và Nhà nước đã được ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng lần lượt qua các bản. Trong hai bản hiến pháp đầu tiên thì giáo dục chưa được quy định trong Hiến pháp một chế định riêng biệt nhưng đã được đề cập đến trong phần quyền và nghĩa vụ của người công dân.

Hiến pháp 1946

Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời thì giáo dục đã được nhắc đến như một vấn đề quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Ngay sau CMT8-1945 thành công cùng với nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Chủ thịch Hồ Chí Minh đã chú tâm ngay đến giặc dốt. Trong Hiến pháp 1946, vấn đề GD-ĐT đã được đề cập đến trong Điều 15:

“Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiếu số có quyền học bằng tiến của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình nhà nước”.

Hiến pháp 1959

Trong Hiến pháp 1959 đã có một điều luật cụ thể giành cho giáo dục là Điều 33:

“Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần các trường đại học và cơ quan văn hóa phát triển hình thức giáo dục bổ túc văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó”.

Hiến pháp 1980

Đến Hiến pháp 1980 giáo dục bắt đầu được tách riêng ra và đưa vào trong một chế định cụ thể, những quy định về giáo dục cùng cụ thể và hoàn thiện hơn, thể hiện trong điều 40 và 41.

” Nền giáo dục Việt Nam không ngừng được phát triển và cải tiến theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội, nhằm đào tạo có chất lượng những người lao động xã hội chủ nghĩa và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.”

“Sự nghiệp giáo dục do Nhà nước thống nhất quản lý.

Nhà nước chăm lo phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học; phát triển các trường dạy nghề, trường vừa học vừa làm, hệ thống học tại chức; hoàn thành thanh toán nạn mù chữ, tăng cường công tác bổ túc văn hóa, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa và nghề nghiệp của toàn dân.

Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và xã hội cùng với nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.”

Vì Sao Nói Giáo Dục Là Quốc Sách Hàng Đầu

-

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [227.37 KB, 31 trang ]




Bạn đang xem: Vì sao nói giáo dục là quốc sách hàng đầu

*] VÀI KHÁI NIỆM CẦN LÀM RÕ.Trước khi phân tích bất kỳ một vấn đề nào, một thao tác không thể thiếu là làm rõ các khái niệm liên quan. Dưới đây cách hiểu riêng của nhóm về ba khái niệm “giáo dục”, “chính sách giáo dục”, “quốc sách hàng đầu”.Giáo dục: không có một định nghĩa về giáo dục nhưng ai cũng có thể hiểu một cách đơn giản nhất giáo dục nghĩa là dạy và học. Xét trên góc độ lý luận, giáo dục là một bộ phận thuộc một chế định của Hiến pháp: “Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ”. Giáo dục vừa là một lĩnh vực điều chỉnh gồm nhiều quan hệ xã hội của pháp luật, vừa là một nhóm các mục tiêu, yêu cầu mà nhà nước đặt ra để thực hiện.Chính sách giáo dục: Là các chính sách do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh lĩnh vực giáo dục và thực hiện những mục tiêu yêu cầu của giáo dục.Quốc sách hàng đầu: Là những chính sách trọng tâm có vai trò chính yếu của nhà nước, luôn dành dược sự ưu tiên hàng đầu, quan tâm đặc biệt của nhà nước, được thể hiện qua một loạt các chính sách, , các biện pháp và phạm vi thực hiện và nguồn ngân sách chi cho chính sách đó.1. GIÁO DỤC LÀ QUỐC SÁCH HÀNG ĐẦU.1.1. Vai trò vị trí của giáo dục. Giáo dục đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, các chính phủ đều coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Vậy tại sao giáo dục đào tạo lại có tầm quan trọng đến chiến lược phát triển đất nước như vây?- Thứ nhất: Giáo dục đào tạo là điều kiện tiên quyết góp phần phát triển kinh tế.- Thứ hai: Giáo dục đào tạo góp phần ổn định chính trị xã hội.- Thứ ba: Và trên hết giáo dục đào tạo góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người. Không chỉ trong giai đoạn hiện nay vị trí tầm quan trọng của giáo dục mới được khẳng định mà tư tưởng này trải qua từng thời kỳ lịch sử đã được một dân tộc có truyền thống hiếu học đã dày công vun trồng và củng cố. Ở
mọi thời đại giáo dục luôn luôn dành được sự quan tâm đặc biệt.- Năm 1075 Lý Nhân Tông mở khoa thi đầu tiên tuyển nhân tài, “Năm 1086 thi lấy người có văn học trong nước sung làm quan Hàn lâm viện”. Từ đó đến các triều đại tiếp theo Nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, nhà Nguyễn...các khoa thi lần lượt được mở ra để tuyển dụng người tài, người có trí tuệ phục vụ cho nhân dân cho đất nước. Và Quốc Tử Giám trường đại học đầu tiên của nước Việt Nam nơi vinh danh của những người thi cử đỗ đạt có đức có tài, đó là một minh chứng sống cho việc luôn luôn coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu của dân tộc ta.Sự nghiệp giáo dục – đào tạo có vị trí quan trọng trong chiến lược con người, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. “Nguồn tài nguyên và sự giàu có của một quốc gia không phải nằm trong lòng đất mà chính là nằm trong bản thân con người, trí tuệ con người”. Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải đẩy mạnh phát triển giáo dục- đào tạo vì giáo dục đào tạo có vai trò quan trọng trong lĩnh vực sản xuất vật chất xã hội cũng như xây dựng nền văn hoá .Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, hàm lượng trí tuệ khoa học kết tinh trong sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng; tài năng trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người, không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải trải qua quá trình đào luyện công phu có hệ thống. Vì vậy giáo dục hiện nay được nhìn nhận không phải là yếu tố phi sản xuất mà là yếu tố bên trong cấu thành của nền sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy rằng không có quốc gia nào muốn phát triển mà ít đầu tư cho giáo dục. Công cuộc chạy đua phát triển kinh tế của thế giới hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua về phát triển giáo dục- đào tạo. Nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã nhấn mạnh: Thực sự coi giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển.
Giáo dục- đào tạo không chỉ có vai trò quan trọng trên lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn là cơ sở để hình thành nền văn hoá tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Giáo dục có tác động vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị xã hội chủ nghĩa, xây dựng ý thức pháp quyền và ý thức đạo đức, xây dựng nền văn hoá, văn học nghệ thuật, góp phần cơ bản vào việc hình thành lối sống mới, nhân cách mới của toàn bộ xã hội. Đảng ta đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng con người và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc; thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc…là những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội…”Như vậy giáo dục- đào tạo có tác dụng to lớn đến toàn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội. Phát triển giáo dục - đào tạo là cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược con người của Đảng và Nhà nước ta.1.2 Sự ghi nhận về giáo dục đào tạo qua các bản Hiến pháp.Trong lịch sử phát triển loài người giáo dục luôn được coi là tài sản vô giá của mọi con người cũng như mọi dân tộc, nhân thức rõ điều đó Đảng và Nhà nước đã được ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng lần lượt qua các bản Hiến pháp.Trong hai bản hiến pháp đầu tiên thì giáo dục chưa được quy định trong một chế định riêng biệt nhưng đã được đề cập đến trong phần quyền và nghĩa vụ của người công dân. + Hiến pháp 1946: Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời thì giáo dục đã được nhắc đến như một vấn đề quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Ngay sau CMT8-1945 thành công cùng với nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, giặc đói. Chủ thịch Hồ Chí Minh đã chú tâm ngay đến giặc dốt. Trong HP 1946, vấn đề GD-ĐT đã được đề
quy mô, đáp ứng yêu cầu học tập ngày càng cao của nhân dân; cả nước đã hoàn thành phổ cập tiểu học vào năm 2000 và đến năm học 2004-2005 đã có 20 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương được công nhận hoàn thành phổ cập trung học cơ sở.b] Vấn đề đổi mới chương trình giáo dục, mở rộng quy mô giáo dục.Nghị quyết số 40/2000/QH10 chỉ ra rằng: Mục tiêu của việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển ngồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn truyền thống Việt Nam; tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.Mở rộng quy mô giáo dục cũng là một nhiệm vụ cấp bách gắn với nó là một loạt mục tiêu cụ thể:-Mở rộng quy mô đào tạo, đạt tỷ lệ 200 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2010 và 450 sinh viên/1 vạn dân vào năm 2020, trong đó khoảng 70-80% tổng số sinh viên theo học các chương trình nghề nghiệp- ứng dụng vào khoảng 40% tổng số sinh viên thuộc các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập.- Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đại học đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức là lương tâm nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến; bảo đảm tỷ lệ sinh viên /giảng viên của hệ thống giáo dục không quá 20. Đến năm 2020 có ít nhất 40% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 20% đạt trình độ tiến sỹ; đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên đạt trình độ thạc sỹ và 35% đạt trình độ tiến sỹ.Đổi mới sách giáo khoa cũng là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng : Việc xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa, triển khai thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm phải chu đáo, khẩn trương để đạt được các mục tiêu nêu trên; lầm lượt triển khai địa trà việc áp dụng chương trình,
sách giáo khoa mới bắt đầu ở lớp 1 và lớp 6 từ năm 2002-2003, bắt đầu lớp 10 từ năm 2004-2005; đến năm học 2006-2007 tất cả các lớp cuối cấp đều thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới.1. Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý giáo dục.Chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề này như sau:- Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính.- Quản lý nhà nước tập trung vào việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược phát triển; chỉ đạo triển khai hệ thống bảo đảm chất lượng và kiểm định giáo dục đại học; hoàn thiện môi trường pháp lý; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, điều tiết vĩ mô cơ cấu và quy mô giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu nhân lực của đất nước trong từng thời kỳ.- Xây dựng Luật Giáo dục đại học [Nghị quyết 14/2005/NQ-CP]- Đổi mới toàn diện công tác quản lý nhà nước về giáo dục theo hướng phân công, phân cấp rõ trách nhiệm, quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo của các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ sở giáo dục,lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm; củng cố, tổ chức thanh tra và đẩy mạnh công tác thanh tra giáo dục, thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục hàng năm, đổi mới thi đua trong giáo dục, khắc phục bệnh thành tích chủ nghĩa.[ Nghị quyết 37/2004/QH11]d] Vấn đề ngân sách cho giáo dục :Được quy định cụ thể trong mục 2 chương VII Luật giáo dục 2005.Nghị quyết số 37/2004/QH11 về giáo dục cũng đã định ra mức đầu tư ngân sách cho giáo dục như sau:“Đầu tư ngân sách cho giáo dục – đào tạo đảm bảo đạt tỉ lệ 20% tổng chi ngân sách nhà nước trước năm 2010 từ 2 đến 3 năm. Đảm bảo tỷ lệ hợp lý giữa chi lương và chi cho các hoạt động giáo dục của cơ sở giáo dục để thực hiện tốt nhiệm vụ nâng cao chất lượng giáo dục...”
phát triển sự nghiệp giáo dục.c] Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn.Để giáo dục trở thành sự nghiệp toàn dân, phải xã hội hóa giáo dục tức là tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội trong sự nghiệp giáo dục; phải xây dựng một cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế xã hội lành mạnh và thuận lợi cho cá hoạt động giáo dục; phải đa dạng hoá giáo dục để khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội để phát triển giáo dục...nhà nước một mặt phải ưu tiên đầu tư giáo dục mặt khác phải khuyến khích các nguồn đầu tư khác. Nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật tổ chức chỉ đạo thực hiện và phối hợp với các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình để chống các tệ nạn xã hội tạo ra môi trường thuận lợi cho việc giáo dục.2.5] Các chính sách ưu tiên của Nhà nước để đảm bảo phát triển giáo dục ở miền núi, các cùng dân tộc thiểu số, cùng đặc biệt khó khăn.Nhà nước có chính sách trợ cấp và miễn, giả học phí cho người học là đối tượng được hưởng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người mồ côi không nơi nương tựa. Người tàm tật, khuyết tật có khó khăn về kinh tế, người có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn vượt khó học tập.Nhà nước thực hiện tuyển sinh vào đại học, cao đẳng, trung cấp theo chế độ cử tuyển đối với học sinh các dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đaò tạo cán bộ, công chức, viên chức cho vùng này.Nhà nước dành riêng chỉ tiêu tuyển cử đối với những dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp; có chính sách tạo nguồn tuyển sinh trên cơ sở tọa điều kiện thuận lợi để học sinh các dân tộc này vào học trường phổ thông dân tộc nội trú và tăng
thời gian học dự bị đại học.Nghị quyết số 37/2004/QH11 cũng nhấn mạnh:Thực hiện tốt hơn công bằng xã hội trong giáo dục, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào đân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và giáo dục cho trẻ em khuyết tật.3.THỰC TRẠNG NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.3.1 Thực trạng : a] Những kết quả đạt được của nền giáo dục Việt Nam.Việt Nam được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đánh giá là nước có những thành tựu đáng kể về giáo dục, đào tạo so với nhiều nước có thu nhập tính theo đầu người tương đương. Việt Nam hoàn toàn có khả năng hoàn thành Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ [MDG] về phổ cập giáo dục tiểu học trước năm 2015. Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến trường ở các cấp ngày một tăng. Năm học 2004-2005, đã có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo.Giáo dục đại học, cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về quy mô đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần dần được đổi mới. Nền giáo dục đại học Việt Nam một mặt đã đáp ứng xu hướng thế giới là tiến tới phổ cập giáo dục đại học, mặt khác vẫn giữ nền tảng giáo dục tinh hoa. Việc đầu tư cho đội ngũ giáo viên đã được chú trọng đặc biệt.Năm 2000, Việt Nam đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học. Từ năm học 2002-2003, tỷ lệ biết chữ của người lớn trong độ tuổi 15-24 đã đạt gần 95%, số năm đi học trung bình của người dân đạt mức 7,3 năm. Việc dạy chữ dân tộc đã được đẩy mạnh ở các địa phương, nhờ đó tỷ lệ người dân tộc thiểu số mù chữ giảm mạnh.
Ngành giáo dục và đào tạo đã đạt và vượt các chỉ tiêu cơ bản mà Chiến lược phát triển giáo dục đề ra cho năm 2005 trong năm học 2003-2004. Phổ cập giáo dục tiểu học đã đạt được thành tích đáng kể ở tất cả các vùng miền trong cả nước. Việt Nam được đánh giá là có tiến bộ nhanh hơn so với phần lớn các nước có thu nhập thấp khác trên thế giới trong việc khắc phục những sự chênh lệch về giới và về tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi. Tỷ lệ học sinh tiểu học nhập học đúng độ tuổi đã tăng từ 90% trong thập niên 1990 lên gần 98% trong năm học 2004-2005 [mục tiêu quốc gia đề ra là đạt 97% vào năm 2005. Trong năm học 2003-2004, hầu hết các địa phương trong cả


Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề