Vì sao người bắc ghét trung quốc

Chẳng khó để nghe một vài người miền Trung hoặc người miền Nam nói về những ấn tượng của mình khi tiếp xúc với người miền Bắc, và trong đó có thể là những ấn tượng xấu, chẳng hạn như: thô tục, lỗ mãng, thiếu sự thân thiện, quỵt tiền, làm ăn gian dối, hà tiện, chuộng hình thức, ăn thịt chó... Đáng buồn hơn, một phần không ít trong số đó gọi người miền Bắc là "Bắc Kỳ". Vậy nguyên nhân do đâu và có phải đó là những nhược điểm cố hữu của người miền Bắc? Chúng ta sẽ cùng đi tìm câu trả lời.


Thứ nhất, xin thưa rằng trong xã hội luôn hội tụ đủ loại người và ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam đều vậy, sẽ luôn tồn tại những người tốt và không ít những người sống chưa tốt, từ xưa đến nay trong bất kỳ thời đại nào. Chúng ta chấp nhận chung sống với nhau, vì không cá thể nào có thể sống được nếu thiếu tập thể. Vậy tại sao búa rìu luôn hướng về người Bắc? Đơn giản vì tích cách, phong cách sống và văn hóa của người Bắc có phần khác biệt so với những vùng miền còn lại.

Trước hết là điều kiện tự nhiên, miền Bắc đồng bằng chiếm tỉ lệ rất ít, trong khi miền núi và trung du chiếm tuyệt đại đa số, dân cư [nói về người Kinh] tập trung với mật độ cao [số 1 cả nước], bình quân mỗi người chỉ có 1 sào đất [360 m2]. Như vậy, từ "đất chật người đông" sẽ khiến cho việc canh tác nông nghiệp không được quy mô như miền Tây Nam Bộ, sản lượng lương thực trên đầu người vốn không cao [đặc biệt là trước khi áp dụng các tiến bộ KH-KT], người miền Bắc đã xoay đủ nghề để kiếm sống. Và công việc buôn bán trở thành nguồn thu nhập lớn nhất cho người dân, đúng như câu nói "phi thương bất phú", ông Ngô Đình Diệm từng nói: "Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân miền Nam chỉ làm tướng võ biền". Theo tôi điều đó đúng một phần, vì chúng ta đều chịu ảnh hưởng với người Trung Quốc, mà Hoa Kiều khắp nơi trên thế giới đều được đánh giá rất cao trong lĩnh vực thương nghiệp. Quay trở lại vấn đề đang bàn, ngoài canh tác nông nghiệp với nền "văn minh lúa nước rực rỡ" và công việc buôn bán "giỏi giang" thì người miền Bắc còn rất giỏi làm đồ thủ công mỹ nghệ, như dệt vải, làm gốm, làm tranh,... Nhưng phải thiên tai khắc nghiệt hàng năm, lũ lụt, giá rét, nắng nóng thì đời sống người dân còn nhiều khổ cực, phải ly hương tìm con đường nuôi bản thân và gia đình. Xuất phát từ đó, người Bắc rất tiết kiệm, họ làm 10 chỉ dám tiêu 1,2, còn lại để giành cho những lúc rủi ro, cho con cái ăn học, lấy vợ, làm nhà,... Và hoàn cảnh kinh tế khó khăn, lại chịu ảnh hưởng nặng nề lễ giáo phong kiến,  đa phần người Bắc ít khi mở lòng, khá dè dặt khi tiếp xúc người ngoài. 

Xét về khía cạnh lịch sử, nước Việt Nam chúng ta ngày đầu mới lập nước, so với bây giờ khác rất nhiều. Hơn bốn nghìn năm lịch sử, trải qua hàng nghìn cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc, những thăng trầm lịch sử của ta và các nước láng giềng và những cuộc mở mang bờ cõi của cha ông, đất nước ta mới có hình dạng chữ S như ngày hôm nay. Người Kinh trên toàn đất nước Việt Nam đều có nguồn gốc từ miền Bắc, sau những lần khai phá, lập ấp, mở xóm làng xuống phía Nam, thì chúng ta đã hình thành nên những cộng đồng người Kinh hùng mạnh, lấn chiếm dần phần đất của những dân tộc ít người như người Chăm, Khmer,... Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi thời vua Minh Mạng đã có công hoàn thiện tấm bản đồ đến mũi Cà Mau. Rồi năm 1974, khoảng triệu người Công giáo miền Bắc di cư vào miền Nam sau Hiệp định Geneve, hay sau khi hoàn thành thống nhất đất nước, nhiều chiến sĩ giải phóng quân đã ở lại xây dựng chính quyền, lập gia đình và sinh sống tại đó, cả chính sách đưa người Bắc lên Tây Nguyên làm kinh tế mới nữa. Vậy, nếu ai đó chửi Bắc Kỳ, há chẳng phải đang chửi tổ tiên, cha ông mình sao?

Theo tạp chí The Diplomat, Trung Quốc đang coi trọng lợi ích quốc gia bao gồm việc tranh giành chủ quyền lãnh thổ của các nước láng giềng mà không hề lo sợ hình ảnh của mình xấu đi trong con mắt cộng đồng quốc tế. Kết quả cuộc khảo sát gần đây của BBC World Service cho thấy hình ảnh Trung Quốc trong mắt bạn bè quốc tế không hề hoàn hảo như mong đợi. 

Mặc dù trong năm nay, mức đánh giá của cộng đồng quốc tế về tầm ảnh hưởng của Trung Quốc giữa tiêu cực và tích cực đã đạt tỷ lệ cân bằng [42%] song hình ảnh của Trung Quốc tại Nhật Bản và Hàn Quốc – hai quốc gia láng giềng châu Á quan trọng nhất của Bắc Kinh, lại xuống dốc thảm hại. 

Hành động Trung Quốc hung hăng tranh giành chủ quyền trên Biển Đông cho thấy quốc gia này không quan tâm tới hình ảnh của mình trong mắt các nước láng giềng châu Á.

Tại Hàn Quốc, chỉ có 32% người dân có cái nhìn tích cực đối với Trung Quốc trong khi 56% lại có tư tưởng ngược lại. Tại Nhật Bản, tỷ lệ ủng hộ Trung Quốc đã xuống mức thấp kỷ lục chỉ có 3%. Số người coi Bắc Kinh là nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực tại châu Á lên tới 73%.

Tuy nhiên, hình ảnh của Trung Quốc tại những vùng đất xa xôi như châu Phi và Mỹ Latinh lại khá tích cực. Trong số 3 quốc gia châu Phi tham gia khảo sát, tỷ lệ số người có cái nhìn tích cực với Trung Quốc đạt con số khá cao với Nigeria [85%], Ghana [67%], và Kenya [65%]. Ngoài ra, tại 4 nước Mỹ Latinh, chỉ có Mexico có cái nhìn tiêu cực hơn về Trung Quốc [40%], trong khi tỷ lệ ủng hộ tại 3 nước còn lại khá cao Peru [54%], Brazil [52%], Argentina [45%]. 

Đáng ngạc nhiên là diện mạo quốc tế của Trung Quốc lại cực kỳ tiêu cực tại những nước phát triển như Anh [49%], Australia [47]. Đặc biệt, chỉ 10% người dân Đức nhìn Trung Quốc với con mắt tích cực, trong khi có tới 76% ghét cay ghét đắng Trung Quốc.

Câu hỏi đặt ra là “Liệu Trung Quốc có quan tâm tới hình ảnh của mình trong mắt bạn bè quốc tế?” Lối hành xử ngày càng hung hăng của Trung Quốc trên biển Hoa Đông và Biển Đông đã cho thấy Bắc Kinh dường như không quan tâm tới hình ảnh của mình trong mắt các nước láng giềng châu Á nói riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. 

Tuy nhiên, điều này lại hoàn toàn mâu thuẫn với những nỗ lực nhằm cải thiện sức mạnh mềm và xây dựng hình ảnh quốc gia trên thế giới trong những năm qua của Trung Quốc. Do đó, điều khó hiểu là: Nếu Trung Quốc quan tâm tới hình ảnh quốc tế của mình, tại sao họ lại hành xử theo lối gây tổn hại tới hình ảnh như vậy? Thậm chí, một số quốc gia châu Á còn coi Trung Quốc là "kẻ to đầu chuyên đi bắt nạt". 

Có 3 khả năng giải thích cho sự mâu thuẫn giữa chiến dịch đánh bóng hình ảnh quốc gia và lối cư xử hung hăng gần đây của Trung Quốc. Nguyên nhân thứ nhất là có thể, Trung Quốc đã không phân định rõ ràng về khái niệm hình ảnh quốc gia hay sức mạnh mềm. Theo thuyết duy thực tại Trung Quốc, điều quan trọng nhất trên chính trường quốc tế là sức mạnh vật chất nên sức mạnh mềm chỉ là phần phụ. 

Do đó, giới lãnh đạo Trung Quốc chấp nhận quan điểm của Tào Tháo khi xưa là “Ta thà phụ người chứ không để người phụ ta”. Lối suy nghĩ này đã chi phối các chính sách ngoại giao trong những năm gần đây của Trung Quốc, và không hề bất ngờ khi Bắc Kinh cảm thấy không cần phải cải thiện hình ảnh quốc gia.

Nguyên nhân thứ hai là Trung Quốc có thể cũng quan tâm về hình ảnh quốc gia nhưng lại thiếu kinh nghiệm hoặc thậm chí còn quá vụng về trong khâu quảng bá hình ảnh đất nước. Điển hình, trong những năm gần đây, Trung Quốc đã huy động khá nhiều nguồn lực vào “ngoại giao công chúng" như nguồn tài chính đổ vào tổ chức Olympics Bắc Kinh 2008 để quảng bá hình ảnh tích cực quốc gia. Đây cũng là cách mà Trung Quốc mong muốn xây dựng hình ảnh hòa bình và tích cực trước mắt bạn bè quốc tế. 

Tuy nhiên, khả năng trình độ của những quan chức chịu trách nhiệm xây dựng hình ảnh của Trung Quốc còn khá kém cỏi hoặc do sự phối hợp chưa nhịp nhàng giữa các bộ, ban, ngành như Bộ Ngoại giao và quân đội nước này đã mang lại kết quả không như mong đợi. 

Nguyên nhân cuối cùng dẫn tới việc Trung Quốc thờ ơ xây dựng hình ảnh quốc gia là do giới lãnh đạo đã đặt lợi ích quốc gia lên trên hết mà trọng tâm là chủ quyền quốc gia và hợp nhất lãnh thổ. Như tuyên bố của Chủ tịch Tập Cận Bình hồi đầu năm nay, Trung Quốc sẽ không bao giờ hy sinh lợi ích quốc gia cốt lõi trong bất cứ hoàn cảnh nào. Do đó, hình ảnh quốc gia được Trung Quốc xếp hàng thứ hai sau chiến lược toàn vẹn lãnh thổ. 

Nội dung được thực hiện qua tham khảo nguồn tin từ The Diplomat, một tạp chí có trụ sở ở Tokyo, chuyên về chính trị, văn hóa và xã hội tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.

MINH THU [lược dịch]

Phát biểu trong một hội nghị quốc gia vào đầu năm 2015, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, tuyên bố: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già [đều] có xu thế ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng, cái đó là nguy hiểm cho dân tộc.

Chuyện tại sao ông “lo lắng” và cho đó là một sự “nguy hiểm cho dân tộc” chúng ta sẽ bàn sau. Ở đây tôi chỉ chú ý đến một hiện tượng được chính Phùng Quang Thanh ghi nhận và thừa nhận: sự căm ghét Trung Quốc là một “xu thế” rất phổ biến, “từ trẻ con đến người già” tại Việt Nam.

Thật ra, “xu thế” ấy không phải chỉ có ở Việt Nam. Chỉ cần đọc qua các bản tin trên báo chí khắp nơi, chúng ta thấy ngay một hiện tượng: dân chúng ở Tây phương cũng khá khinh ghét người Trung Quốc. Nhóm từ “người Trung Quốc xấu xí”, trước, chỉ do những người Trung Quốc tự nói về chính họ qua những cái nhìn mang tính chất tự phê phán [tiêu biểu và nổi tiếng nhất là Bá Dương, 1920-2008, người Đài Loan, với cuốn sách mang nhan đề “Người Trung Quốc xấu xí” được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt]. Gần đây, cách gọi “người Trung Quốc xấu xí” ấy tràn lan trên báo chí. Ở đây không phải là chuyện kỳ thị. Đó chỉ là cảm tưởng chung khi người ta nhìn thấy cách hành xử của người Trung Quốc du lịch ở nước họ. Trên báo chí đầy dẫy những hiện tượng trái tai gai mắt của người Trung Quốc, từ trên máy bay đến trên đường phố. Trên máy bay, có người tạt cả ly nước nóng lên mặt tiếp viên chỉ vì một sự bất bình nho nhỏ nào đó; có người đòi mở cửa cấp cứu trên chiếc máy bay đang bay trên không để cho “có không khí”; có người cho con ỉa ngay trên lối đi; có người doạ cho nổ máy bay vì không đổi được chỗ ngồi, v.v… Trên đường phố cũng vậy. Ở đâu có người Trung Quốc, ở đó có cảnh chen lấn, xô đẩy; cảnh khạc nhổ và vất rác bừa bãi; cảnh gây gổ, tranh giành, ầm ĩ; cảnh trố mắt nhìn vào sự riêng tư của người khác. Nhiều người cho người Trung Quốc là những du khách tệ hại nhất thế giới [the world’s worst travellers].

Ở Việt Nam, “xu thế” ghét người Trung Quốc cũng không mới mẻ gì. Ngày xưa, cha ông chúng ta cũng rất ghét người Trung Quốc. Trong Bình Ngô đại cáo viết thay cho Lê Lợi, Nguyễn Trãi xem Trung Quốc như một “thế thù”, tức kẻ thù truyền kiếp, từ đời này sang đời khác. Gần đây, sau cuộc xâm lược của Trung Quốc qua biên giới phía Bắc Việt Nam vào năm 1979, giới lãnh đạo Việt Nam cũng tuyên bố Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp và lâu dài của Việt Nam. Hiện nay, sự căm ghét người Trung Quốc còn phổ biến và sâu rộng hơn hẳn các thế hệ hay các thế kỷ trước. Người Việt trong nước ghét; người Việt ở hải ngoại cũng ghét. Ngày xưa, cha ông chúng ta có thể vừa ghét người Trung Quốc nhưng lại vừa ngưỡng mộ văn hóa Trung Quốc; bây giờ, phần lớn vừa ghét âm mưu xâm lấn của Trung Quốc vừa coi thường cả văn hóa Trung Quốc. Nhìn vào Trung Quốc, ở bất cứ khía cạnh nào, người ta cũng đều thấy những sự xấu xa và đầy đe dọa.

Những sự ghét bỏ ấy khiến tham vọng trở thành siêu cường quốc của Trung Quốc gặp khó khăn và thử thách. Nói chung, để trở thành một siêu cường quốc, người ta cần hai điều kiện chính: quyền lực cứng và quyền lực mềm. Quyền lực cứng thể hiện chủ yếu trên hai lãnh vực: kinh tế và quân sự. Quyền lực mềm thể hiện chủ yếu ở lãnh vực văn hóa và xã hội. Trung Quốc, với tham vọng trở thành một siêu cường quốc ít nhất ở châu Á, tập trung phát triển trên tất cả các lãnh vực ấy. Riêng về văn hóa và xã hội, họ muốn tạo sự thông cảm và ngưỡng mộ của thế giới với nền văn hóa lâu đời và đẹp đẽ của họ qua việc phát triển các Viện Khổng Tử ở khắp nơi trên thế giới. Không biết các hoạt động của các Viện Khổng Tử ấy có hiệu quả gì hay không nhưng chỉ thấy ở đâu người ta cũng căm ghét Trung Quốc.

Riêng ở Việt Nam, cho đến nay, có vô số bằng chứng cho thấy các chiến dịch vận động cho quyền lực mềm của Trung Quốc đã thất bại thảm hại. Ở đâu dân chúng cũng ghét Trung Quốc. Làm ăn với Trung Quốc, ừ, vẫn làm; mua hàng Trung Quốc, ừ, thì vẫn mua, nhưng ghét Trung Quốc thì vẫn cứ ghét. Sự căm ghét ấy lớn đến nổi bao nhiêu chiến dịch tuyên truyền cho cái gọi là “4 tốt” và “16 chữ vàng” của chính quyền Việt Nam đều thất bại, theo lời thừa nhận của Phùng Quang Thanh dẫn ở trên.

Tuy nhiên, sự căm ghét ấy có đủ để bảo vệ độc lập và chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông hay không?

Tôi sợ là không.

Lý do thứ nhất là chính phủ hoàn toàn không biết tận dụng sự căm ghét ấy để biến nó thành một vũ khí trong trận tuyến chống lại Trung Quốc. Ở đây, chúng ta lại thấy một nghịch lý: chính phủ và đảng Cộng sản Việt Nam lúc nào cũng cho họ là đại diện của nhân dân, tôn trọng ý nguyện của nhân dân, nhưng trong trường hợp này, mặc dù họ biết nhân dân rất căm ghét Trung Quốc, họ lại xem đó là điều đáng lo lắng và tìm mọi cách để ngăn chận và trấn áp những biểu hiện của những sự căm ghét ấy.

Thứ hai, bản thân người dân vừa căm ghét nhưng vừa bất lực và bế tắc. Ai cũng ghét Trung Quốc và ai cũng biết Trung Quốc đang mưu toan xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam. Nhưng rồi, tất cả đều thở dài, than: “Nhưng biết làm sao bây giờ?” Người ta cho Trung Quốc quá mạnh và Việt Nam quá yếu: tương quan lực lượng nghiêng hẳn về phía Trung Quốc. Biết thế, nhưng thay vì tiếp tục tranh đấu, người ta lại chọn biện pháp buông xuôi, để mặc chính phủ và đảng Cộng sản lo liệu.

Sự kết hợp giữa căm ghét và bất lực ấy khiến người ta hài lòng với những lời than thở hay chửi bới vu vơ.

Không có một tên lính Trung Quốc nào chết vì những lời than thở hay chửi bới vu vơ như thế cả.

* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Video liên quan

Chủ Đề