Về tài chính ngân hàng Nhật Bản đứng thứ máy

Hệ thống tài chính Nhật Bản và sự phát triển vai trò của ngân hàng chínhCác trường hợp phát triển hệ thống tài chính Nhật Bản quan trọng trong việc so sánh lý thuyết và thựctiễn, and có quan hệ mật thiết trong việc phát triển nền kinh tế thị trường và cải cách nền kinh tế kếhoạch tập trung như các nền kinh tế thị trường công nghiệp tiên tiến. Hệ thống ngân hàng chính củaNhật Bản có các mối quan hệ ngân hàng vay dài hạn là cốt lõi. Đồng thời, sự gia tăng tầm quan trọng củathị trường chứng khoán trong nửa sau của những năm 80 đã được hết sức quan tâm.Một phân tích của hệ thống ngân hàng chính của Nhật Bản có 5 yếu tố liên quan đến nhau:-các lý thuyết của các ngân hàng chính trong bối cảnh không hoàn hảo, thông tin bất đối xứng; kinhnghiệm- phân tích vai trò, hành vi và hiệu suất của các ngân hàng chính của Nhật;-bối cảnh lịch sử theo đó hệ thống ngân hàng của Nhật Bản nổi lên, phát triển mạnh, và gần đây đã chịusự cạnh tranh tài chính trực tiếp [các thị trường chứng khoán];-các khuôn khổ của hệ thống tài chính của Nhật Bản;-đặc biệt quan trọng đó là bản chất và vai trò của chính phủ [Bộ tài chính và Ngân hàng Nhật Bản] cácchính sách quản lý và phân phối trong việc hình thành hệ thống ngân hàng chính, trong việc phân bổ tíndụng và thành tựu kinh tếSau một cuộc thảo luận về sự phát triển của hệ thống tài chính của Nhật Bản và những vấn đề liên quanđến nó, bài viết này thảo luận 3 vấn đề.Đầu tiên, đâu là một hệ thống tài chính tốt hơn: dựa trên ngân hàng [ và các ngân hàng chính ] hay dựatrên cạnh tranh - thị trường hiệu quả cho việc phát hành chứng khoán, đặc biệt là trái phiếu, cổ phiếu, vàthương phiếu ?Thứ hai, cơ sở hạ tầng cần thiết là gì và thể chế nào sắp xếp phù hợp , hiệu quả việc cấp tiền cho cáchoạt động ưu tiên và ngành theo quy định của chiến lược phát triển của một quốc gia ?Thứ ba, từ góc nhìn của nền kinh tế chính trị, những công trái được tạo ra thế nào trong các hệ thốngđiều tiết dưới tỷ lệ lãi suất trần thị trường [ví dụ: áp chế tài chính và sự tín nhiệm các khoản tiền cho vaycủa ngân hàng] giữa các bên tranh chấp tiềm năng được phân bổ khác nhau?Hệ thống tài chính Nhật BảnSự phát triển của hệ thống tài chính của Nhật Bản là một nhân tố quan trọng góp phần phát triển kinh tếhiện đại của Nhật Bản và tăng trưởng kể từ Meiji Phục hồi trong năm 1868. Các trường hợp của NhậtBản cung cấp một cơ sở phân tích và thực nghiệm hữu ích cho việc đánh giá các vấn đề thể chế quantrọng trong việc phát triển tài chính. Kinh nghiệm của Nhật Bản cung cấp cái nhìn sâu sắc quan trọng đốivới nước đang phát triển: tiết kiệm đã được huy động và sau đó được phân bổ để tài trợ cho đầu tư sảnxuất; hệ thống tài chính và bộ đầy đủ các thể chế đã được tạo ra và phát triển; các vấn đề không hoànhảo và thông tin bất đối xứng đã được xử lý thông qua sự phát triển của hệ thống ngân hàng chính; cáchthức tài trợ cho những hoạt động chính và những lĩnh vực. Các thể chế có ý nghĩa với cấu trúc tài chínhvà sẽ ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế.Ngân hàng hiện nay của Nhật Bản và hệ thống tài chính là một hậu quả trực tiếp của sự phát triển lâu dàicủa nó, có thể được chia thành năm giai đoạn trong các điều khoản của các tổ chức, chính sách, môhình, và hiệu suất.Giai đoạn đầu tiên -- từ thập niên 1870 đến thập niên đầu của thế kỷ XX –đã được dành cho việc tạo ra đầu tiên của hệ thống tài chính hiện đại thông qua nhập khẩu, đồng hóa,và sự lan tỏa của các tổ chức của các ngân hàng và các trung gian tài chính hiện đại khác. Nhật Bản giốngnhư lục địa châu Âu, là một nước đi đầu trong phát triển thể chế của hệ thống tài chính của mình.Giai đoạn thứ hai, kết thúc vào năm 1936, phát triển từ những thời gian đầu tiên, nó đã cống hiến cho sựtăng trưởng, phát triển và ngày càng đa dạng trong hệ thống tài chính khá tự do, cạnh tranh và môitrường thị trường không được kiểm soát, trong đó đã diễn ra việc hợp nhất các ngân hàng [từ 1.697ngân hàng thương mại trong 1905 còn 424 năm 1936] là một hệ quả của sự đổ xô đi rút tiền ở ngân hàngvà khủng hoảng tài chính.Giai đoạn thứ 3 rất ngắn, từ 1937 nhưng 1952, nhưng đã gây đau buồn. Trong thời kỳ chiến tranh và môitrường chiếm đóng, các tác nhân thị trường đã bị đã được thay thế bởi chính phủ kiểm soát trực tiếp, sốlượng các ngân hàng đã giảm mạnh, và tài chính được hạn chế tín dụng được phân bổ bởi quyết địnhcủa quan liêu chứ không phải là lãi suất thị trường.Giai đoạn thứ tư - từ phục hồi của nền độc lập vào năm 1952 đến sự bắt đầu tự do hóa tài chính vàogiữa những năm 1970 – đã được định rõ đặc điểm bởi một hệ thống ngân hàng ổn định và tổ chức tàichính khác huy động và phân bổ các khoản tiết kiệm trong một nền kinh tế tăng trưởng cao vẫn đượcquy định bằng sự điều chỉnh trên các khoản vay, gửi, và lãi suất phát hành trái phiếu. Tài chính đã bị suyyếu nhẹ trong đó nhu cầu về vốn là vượt quá nguồn cung cấp bởi các thị trường không rõ ràng; nhưng lãisuất thực dương; và các đường giao thương mới bị cấm, việc tạo ra các công cụ tài chính mới bị hạn chế,và các thị trường và các hoạt động tổ chức tài chính phân đoạn. Các khoản vốn là từ các nghiệp vụ quenthuộc chứ không phải cạnh tranh phân bổ giữa người vay kinh doanh lớn, nhưng là từ sự mở rộng củakinh doanh nhỏ, nhà ở, người tiêu dùng, và đặc biệt là người gửi tiết kiệm.Giai đoạn thứ năm, từ giữa năm 1970 đến nay, là một trong những sự chuyển đổi lên hệ thống thịtrường tự do về tài chính bằng quá trình bãi bỏ và tự do hóa tài chính từng bước một. Tiết kiệm tư nhân[tiên nghiệm và hậu suy] lần đầu tiên trong giai đoạn sau chiến tranh vượt quá đầu tư tư nhân trongnước và vấn đề chứng khoán - vốn chủ sở hữu cũng như trái phiếu - đã trở thành một nguồn quan trọngtrong nguồn tài chính ngoài của các tập đoàn lớn, thay thế các khoản vay ngân hàng mặc dù không chokhu vực doanh nghiệp phi tài chính như một toàn thể, nhưng không dành cho các khu vực phi tài chính.Các hệ thống Nhật Bản của các ngân hàng chính bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn trước chiến tranh,mặc dù ban đầu hầu hết các ngân hàng đã được sở hữu và kiểm soát bởi các nhà doanh nghiệp côngnghiệp sử dụng chúng để tài trợ cho các hoạt động kinh doanh của mình. Trong Thế chiến II, hệ thốngngân hàng chính đã được tăng cường cũng như các doanh nghiệp và các ngân hàng được sang tên,chuyển nhượng theo quy định của chính phủ. Cải cách sau chiến tranh đã tạo ra việc tách quyền sở hữuvà kiểm soát, và hệ thống ngân hàng chính Nhật Bản lớn lên trong thời kỳ phát triển kéo dài tới giữanhững năm 1970. Trong mười lăm năm qua, hệ thống ngân hàng chính trưởng thành và biến đổi bởi sựnổi lên trong thị trường chứng khoán tài chính [và tăng giá cổ phiếu], cơ hội mở rộng sang các thị trườngquốc tế, và bây giờ vấn đề bất ngờ mới trong việc giảm các khoản lợi nhuận của vốn và các vấn đề tiềmnăng trong vay bất động sản.Tại sao người ta nên nghiên cứu các trường hợp ngân hàng và tài chính Nhật Bản nói riêng? Câu trả lờirất đơn giản, Nhật Bản có hệ thống tài chínhlớn thứ hai trên thế giới. Nhưng điều đó không quan trọngbằng thực tế là hệ thống đó đã phát triển từ con số 0 từ 125 năm trước. và tiếp tục phát triển trong mộtmô hình năng động. Và nó ít quan trọng hơn so với thực tế là trường hợp ưu việt trong thể chế của hệthống ngân hàng chính và mối quan hệ giữa các ngân hàng. Còn nhiều lí do khác nữa. Trong 15 năm qua,chính phủ bị áp lực bởi các lực lượng thị trường không thể lay chuyển đã tham gia từ từ, nhưng cải cáchtự do hoá toàn diện để giải phóng thị trường tài chính và làm cho nó mang tính cạnh tranh hơn. Hơn nữa, hệ thống tài chính năm 1991 phải đối mặt với thử thác lớn nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính NhậtBản năm 1927. Dữ liệu thực nghiệm và nghiên cứu có sẵn trên kinh nghiệm của Nhật Bản đủ để làm chocác phân tích khả thi và đáng giá. Quan trọng hơn, trong khi mỗi nước – như mỗi con người đều có tínhnăng độc đáo riêng và lịch sử riêng, hệ thống tài chính Nhật Bản không phải là ngoại lệ. Về cơ bản, nókhông dựa trên những giá trị riêng của Nhật bản, mô hình hành vi, hay là sự sắp xếp thể chế. Sự sángsuốt có thể thu lượm từ kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc phát triển tài chính và áp dụng cho việcphân tích, các chính sách cho các nước khác. Có nhiều bài học, trực tiếp và gián tiếp, cho các nước đangphát triển - cả hai nền kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch trực thuộc Trung ương trong quá trình cảicách cơ bản và chuyển đổi hướng tới hệ thống thị trường.Ngân hàng so với thị trường chứng khoánCó lẽ vấn đề quan trọng nhất hiện nay trong các lý thuyết tài chính có liên quan đến nền kinh tế thịtrường công nghiệp tiên tiến là thể chế nào hiệu quả hơn: ngân hàng hay thị trường chứng khoán. Trongmột số khía cạnh thì đây một vấn đề tương đối mới của thập kỉ qua trong các tài liệu. Cái nhìn thườngthấy đó là tài chính không quan trọng: cấu trúc và môi trường tài chính không có ảnh hưởng tới đầu tưhay là các hoạt động tài chính khác. Quan điểm này được bắt nguồn từ giả định hạn chế của mô hìnhcạnh tranh hoàn hảo tân cổ điển. Nó đã được gia cố bằng các định lý Modigliani-Miller năm 1958 rằng,việc xem xét thuế và cấu trúc tài chính của công ty là không xác định và không liên quan – dù tài chínhnội bộ hay tài chính ngoài, và dù công nợ hay vốn chủ sở hữu. Nếu tài chính không quan trọng, thì sự sắpxếp các thể chế tài chính cũng vậy.Sử gia kinh tế và các chuyên gia tài chính và những người đề ra chính sách đã biết rằng trong thế giớithực thì tài chính có tầm quan trọng, và những thế chế cũng vậy. Trong các tài liệu, định lý ModiglianiMiller đã được công nhận là một trường hợp đặc biệt, không phù hợp với các bằng chứng thực nghiệm.Thuế mang tầm quan trọng. Chi phí giao dịch có ý nghĩa và phản ánh nền kinh tế về quy mô. Quan trọnghơn, về mặt lý thuyết, nó chấp nhận rằng thị trường chưa đầy đủ và không hoàn hảo, đặc biệt đối với cácthông tin; và thông tin bất đối xứng giữa người đi vay và người cho vay làm cho nó khó khăn hơn và tốnkém huy động vốn để đầu tư tài chính. Một chỉ trích định lý Modigliani-Miller là quyền sở hữu và kiểmsoát được tách biệt trong các công ty lớn và sự quản lý trong việc điều khiển không làm việc chỉ để tối đahóa chủ lợi ích của chủ sở hữu [cổ đông]. Trong khi nhiều người coi đây là một vấn đề chính, Aoki đã mởrộng phân tích của ông trong mô hình về các công ty Nhật Bản, trong đó việc quản lý là trọng tài của tỷgiá cạnh tranh của [ phân phối rộng rãi] cổ đông, nhân viên với [hàm ẩn] hợp đồng lao động suốt đời, và[ngân hàng chính] chủ nợ.Động lực chính gần đây của sự phát triển trong lý thuyết tài chính đã được thành lập trên sự công nhậnrằng thông tin về mức độ tín nhiệm của khách hàng vay và các dự án đầu tư của họ là hoàn hảo; tốn kémđể sản xuất; và không đồng đều phân phối giữa người trong cuộc [thường là người đi vay] và bên ngoài[thường là chủ nợ], cả người cho vay và các nguồn cuối cùng của họ vốn. Từ điều này đã phát sinh ra việcphân tích các vấn đề về thúc đẩy cơ cấu, quản trị rủi ro, rủi ro đạo đức, lựa chọn bất lợi, cơ chế bảo hiểmđối với tổn thất bình thường, chi phí sản xuất thông tin, thiết kế hợp đồng tài chính, uỷ nhiệm giám sát,sự thành lập tổ chức hiệp đoàn cho vay và bảo lãnh phát hành, và cơ chế kiểm soát của công ty. Mộtngân hàng chính, tham giá vào quá trình lặp đi lặp lại, thương lượng các khoản cho vay với người đi vay,đầu tư vào và phát triển mối quan hệ giúp cung cấp tốt các thông tin về khách hàng. Các chức năngchính của ngân hàng để đối mặt với các người đi vay gồm 3 điểm: để thu thập và phân tích thông tin;giám sát các hành vi và hiệu suất của người đi vay; và thực hiện kiểm soát khi phát sinh rủi ro. Chỉ điềukhiển khi và chỉ khi trong trường hợp nghiêm trọng; nó thường tinh tế hơn chức năng thu thập thông tinvà chức năng giám sát.Phân tích các giá trị tương đối của ngân hàng thị trường tài chính phải được đặt trong bối cảnh thựcnghiệm. Ở cấp độ tổng thể, cả về lịch sử và thời kỳ sau chiến tranh tổng vốn đầu tư thực sự của khu vựcdoanh nghiệp phi tài chính trong mỗi nền kinh tế thị trường công nghiệp tiên tiến đã được tài trợ chủyếu từ nguồn nội bộ [lợi nhuận để lại và các khoản phụ cấp khấu hao] chứ không phải thông qua hệthống tài chính, dù là các khoản vay ngân hàng hay phát hành chứng khoán mới.Nói cách khác, hệ thống tài chính chắc chắn đóng một vai trò quan trọng như các nhà cung cấp của cácquỹ đầu tư nhưng hầu hết được tài trợ trong khu vực doanh nghiệp. Hơn nữa, các khoản vay ngân hànglà hình thức nổi bật của tài chính ngoài - khoảng hai phần ba tại Hoa Kỳ [giữa 1970-1985], nhiều hơn ởAnh, và 85-90 phần trăm ở Nhật Bản và Đức. Tại mức độ tổng hợp này, vốn chủ sở hữu là một nguồn bênngoài đáng kể [một phần sáu] chỉ ở Anh, và phát hành trái phiếu [28 phần trăm] chỉ ở Mỹ.Chuyện gì đang diễn ra? Các dữ liệu tổng hợp che giấu hai bộ phận quan trọng của kiểu dáng tài chínhngoài. Thứ nhất, ở cấp vi mô một số doanh nghiệp trả hết nợ và mua lại cổ phần, trong khi những ngườikhác đang nhận được quỹ; và một số doanh nghiệp mua các công ty khác. Tất cả điều này có lẽ là cảithiện hiệu quả phân phối trong khu vực công ty, nhưng các dữ liệu vĩ mô đã che phủ những điều đó. Thứhai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không giống như lớn, thường không thể phát hành chứng khoán tạicác thị trường; họ phải dựa vào vốn vay ngân hàng và tín dụng thương mại cho tài chính bên ngoài. Cáccuộc tranh luận về ngân hàng với thị trường tài chính chỉ liên quan cho các tập đoàn lớn.

Video liên quan

Chủ Đề