Vẻ đẹp con người Việt Nam qua một số tác phẩm văn học trung đại

Vẻ đẹp hình ảnh thiên nhiên trong văn học trung đại

1. Thiên nhiên có địa vị danh dự trong văn học trung đại.

Đi vào vũ trụ văn chương của cha ông xưa, người đọc như được sống giữa thế giới tạo vật thiên nhiên non nước hữu tình vừa tịch lặng vừa hoành tráng. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trung đại hình như không thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh hồn của tác phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và tư tưởng triết học phương Đông của các nghệ sĩ Nho học này.

Riêng thi ca, thơ tức cảnh cũng như tranh sơn thủy chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống văn nghệ thời phong kiến. Hiện tượng này có thể bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của thời trung đại. Thời ấy con người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp khai thác thiên nhiên bằng bàn tay lao động của mình. Thiên nhiên là nguồn nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho con người. Thiên nhiên có mặt trong cuộc sống gia đình, xã hội của cư dân của nền văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa nước.

Hiện tượng nghệ thuật này cũng có thể nảy sinh từ hệ triết học phương Đông: con người hòa đồng với vạn vật, tạo vật và con người tương sinh trong thế giới này. Và cũng có thể xuất phát từ đời sống văn hóa tín ngưỡng Tô-tem hay tín ngưỡng phồn thực phương Đông.

Hiện tượng này cũng có thể lý giải bằng hệ tư duy tổng hợp Đông phương, bằng tính cách duy cảm của dân tộc ta. Con người không nhìn nhận mình là chủ thể mà cảm nhận mình là một yếu tố cùng với thiên nhiên tạo nên sự sống của thế giới thực tại này. Con người duy cảm nên luôn đắm mình vào những biến thái mong manh, tinh vi của tạo vật để giao cảm, giao hòa. Vì vậy, ta hiểu văn chương trung đại thơ ca chiếm một vị trí quan trọng và trong văn xuôi lại thắm đượm chất thơ, cảm xúc trữ tình.

2. Cảm thụ thiên nhiên trong văn chương trung đại.

Vì những căn cứ trên, thiên nhiên không tách khỏi con người như một khách thể trong văn chương. con người cảm thụ thiên nhiên như là một chủ thể. Con người đã gán cho thiên nhiên những phẩm chất, thuộc tính của chính mình. Thiên nhiên chưa được khám phá với những giá trị tự thân, chưa thực sự là đối tượng hiện thực của văn học. Người ta tìm đến với thiên nhiên và xem thiên nhiên như là một tư liệu để để ngụ tình hay giáo huấn đạo đức một cách không tự giác.

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

[Nguyễn Bỉnh Khiêm]

Điều này khác với văn chương hiện đại. Văn chương hiện đại tôn trọng sự sống riêng của tạo vật thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả như là một khách thể.

Từ tư tưởng và quan niệm trên, văn chương trung đại đã miêu tả thiên nhiên theo một bút pháp đặc biệt: không tả hình xác của tạo vật mà gợi tả linh hồn của thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng, chứa đựng những cảm giác, cái không thấy của con người. Thiên nhiên là nơi gởi gắm những tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người.

Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai

[Mãn Giác Thiền sư]

Thiên nhiên có linh hồn nên cũng sang hèn, quân tử tiểu nhân như con người. Các nhà thơ xưa không chấp nhận cái thấp hèn, những sự vật tầm thường nên thiên nhiên trong thơ họ luôn là những tạo vật cao sang. Các nhà thơ bầu bạn hay tri âm tri kỷ với thiên tao nhã, sang trọng như: “Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong” [Hồ Chí Minh]. Họ tự ví mình như cốt cách phong độ của “Mai, lan, cúc, trúc” hay “Tùng, cúc, trúc, mai”.

Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng

[Nguyễn Trãi]

Hay:

Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ hạc là người thân

[Nguyễn Du]

Họ đối lập thiên nhiên tao nhã với thiên nhiên phàm tục, tầm thường cũng là để đối lập họ với những kẻ tiểu nhân, phàm phu đắc thế:

Phượng những tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi

Hoặc:

Đến trường đào mận ngạt chăn thông
Quê cũ ưa làm chủ trúc thông

[Nguyễn Trãi]

Do cảm thụ thiên nhiên như vậy, nên văn thơ có hai đặc tính:

Thiên nhiên được cảm nhận và tái hiện một cách tinh vi như muốn khám phá linh hồn ẩn kín, bí mật của tạo vật.

Thụy khởi khải song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách sấn hoa phi

dịch thơ:

Ngủ dậy ngó song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bướm trắng
Phấp phới sấn hoa bay.

[Xuân hiểu-Trần Nhân Tông]

Thiên nhiên trong thơ thường được phối màu thanh đạm, đường nét thanh tao; nhưng thấm chất sống ngồn ngộn tươi rói như thiên nhiên trong cuộc sống đời thường.

Đồng bằng nhô núi biếc
Hình thế tựa diều bay
Cầu vắt qua khe nước
Chùa nằm tít đỉnh mây

[Đề núi cánh diều-Lê Quý Đôn]

Trăng giục chèo khua sóng
Thanh vắng hứng càng say
Sương dầm hoa tươi tốt
Thu nhuộm núi hao gầy…

[Dạ nguyệt hành chu-Lê Hữu Trác]

Thiên nhiên luôn được tái hiện bằng cảm xúc dạt dào, tình cảm lắng sâu của người làm thơ. Những vần thơ đã trích là một thí dụ. Đọc những vầng thơ của Trần Nhân Tông, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, ta như nghe thấy hơi thở nhịp điệu tâm hồn của các thi nhân ấy. Thơ của các thi nhân ấy là tâm hồn sáng láng, nhân cách cao cả, phong thái tự tại của chính họ giữa chốn đời bụi bặm này.

  • Cảnh ngày hè [Nguyễn Trãi]
  • Cảnh ngày xuân [Truyện Kiều]
  • Văn học trung đại

Quan niệm về con người trong tác phẩm văn học trung đại

1. Con người văn chương trung đại là con người mang chiều kích vũ trụ.

Thời trung đại, con người và thiên nhiên tạo vật được nhìn nhận là một khối thống nhất. Con người là một tiểu vũ trụ luôn tìm về hội nhập cùng đại vũ trụ. Con người vì thế luôn quan hệ với vũ trụ. Chính quan niệm này đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong văn chương: con người vũ trụ.

Con người vũ trụ thể hiện qua một thi đề phổ biến của thơ trữ tình: con người giao cảm, đối diện đàm tâm với tạo vật vũ trụ, có kích thước vũ trụ.

VD : Con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu.

Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này

[Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn]

Khi thề nguyền keo sơn gắn bó thì núi sông chứng giám lòng thành thủy chung. Khi xử thế lánh đục tìm trong, vong bần lạc đạo, con người tìm về chốn lâm tuyền, cùng bầu bạn với gió trăng. Khi nhập thế thì rồng mây gặp hội.

Tầm vóc con người được đo theo chiều kích sông núi:

Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu

[Thuật Hoài – Phạm Ngũ Lão]

Hay:

Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể

[Nguyễn Cổng Trứ]

Người đẹp là người sánh ngang với sự hoàn mỹ của vũ trụ và khiến trời đất cũng ghét ghen:

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

[Truyện Kiều – Nguyễn Du]

Hoặc:

Chìm đáy nước cá lờ đờ lặng
Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa

[Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều]

Con người vũ trụ luôn ứng xử theo quy luật tuần hoàn của vũ trụ, âm dương tiêu trưởng. Tư tưởng đó là thiên mệnh. Thấm nhuần tư tưởng trên, nên người quân tử “xuất xử”, “hành tàng” một cách ung dung thanh thản: gặp tai biến không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui mừng đắc chí. Họ luôn sống theo khái niệm “Thời”, theo quy luật: bĩ tắc thái, cùng tắc thông. Trong văn chương xưa, ta thường thấy hình ảnh con người sống theo đạo trời, bước đi cùng tạo hóa. Họ khoan thai, ung dung, hòa mình vào thiên nhiên; thậm chí muốn nhập hẳn vào vũ trụ:

Trên đồi có thông
Muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong

[Nguyễn Trãi]

2. Con người văn chương trung đại là con người mang chiều kích của đạo đức.

Thời cổ – trung đại, Người ta chưa phân biệt được tâm và vật. người ta gán tâm cho vật. Vạn vật khách quan đều có tính chủ thể. Thời gian, không gian đều có xấu tốt, độc lành. Toàn bộ xã hội được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo – đạo đức nhất định tùy theo từng khu vực văn hóa.

Văn chương theo đấy mà phản ánh xã hội không phải ở bình diện khách quan mà chủ yếu theo quan niệm đạo đức, luân lý. Nhân loại phân hóa thành hai cực đạo đức và phi đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng phân hóa thành hai tuyến: thiện và ác, chính và tà, trung và nịnh, quân tử và tiểu nhân. Chủ đề đạo đức, khuynh hướng giáo huấn có tính phổ biến đối với các loại tiêu thuyết, cổ tích thời trung đại:

Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

[Nguyễn Đình Chiểu]

Văn chương không nhằm mục đích nhận thức hiện thực mà chỉ để chuyên chở đạo lý, đấu tranh cho đạo lý. Chức năng giáo dục của văn học được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, Các truyện Nôm đều kết thúc có hậu. Văn chương gần như minh họa cho đạo đức, khẳng định triết lý: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ; khuyên con người tích thiện, hành thiện.

Ai ơi lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau

[Nguyễn Đình Chiểu]

Hay:

Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

[Nguyễn Du]

Nhìn chung, con người trung đại quan niệm thế giới có tính chất lưỡng nguyên. Họ cho rằng, cõi trần gian tội lỗi và cõi trời cao cả thánh thiện. Hướng về cao cả, thánh thiện; nên văn chương thường thiên về cái đẹp phi vật chất, phi tính dục, phi thân xác. Hình tượng
văn học chủ yếu được xây dựng bằng thị giác, thính giác. Hình tượng vị giác, nhất là xúc giác bị xem là thô tục, phi mỹ học.

3. Con người văn chương trung đại là con người phi cá nhân.

Trong văn học thời trung đại, con người cá nhân chưa được quan niệm rạch ròi và xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật. Đây là một vấn đề có cơ sở xã hội của nó. Xã hội phong kiến, về phương diện kinh tế, không dựa trên nền tảng cá nhân. Do vậy, con người chưa được nhìn nhận như một cá nhân cá thể ý thức. Giá trị cá nhân không được xem xét từ bản thân phẩm chất cá nhân mà ở vai trò của cá nhân trong mối quan hệ giai tầng.

Chính vì thế, trong văn chương, từ ứng xử đến tâm tư; từ tình yêu đôi lứa đến tình yêu nước,… tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng cấp

Nhân vật trong các truyện Nôm đều là những nhân vật sắm vai, nghĩa là họ diễn các vai trò mà xã hội giao cho với những nghi thức áp đặt bên ngoài. Tình yêu cũng đầy nghi thức. Tình yêu kị sĩ, tình yêu của giai nhân tài tử đều có những nghi thức riêng.

Như vậy, thời phong kiến trung đại, con người cá nhân chưa được giải phóng về nhiều phương diện. Con người sống đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình cảm. Con người xuất hiện trong văn chương với mối quan hệ tình và nghĩa; nhưng không có màu sắc cá nhân.

Từ đó, những thủ pháp nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm cũng giống nhau. Các nhà văn thường sử dụng hành vi bên ngoài và những dấu hiệu thân xác để diễn tả tâm tư nhân vật. Trần Hưng Đạo giận quân xâm lược thì “nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Kiều Nguyệt Nga thủy chung với Lục Vân Tiên thì họa hình người mình yêu mà mang theo trên đường công Phiên. Thúy Kiều lo nghĩ, nhớ thương đến héo hon, sầu não thì “khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.

Thủ pháp thể hiện tâm lý nhân vật là thủ pháp ngoại hiện. Nhân vật vì vậy lúc nào cũng động đậy, không bao giờ chịu ngồi yên trầm tư. Tiểu thuyết, vì thế nặng về sự kiện và cốt truyện hơn là khai thác tâm lý trực tiếp. Trong truyện không có ngôn ngữ nhân vật mà chỉ có lời phụ đề trữ tình của tác giả hay lời của tác giả đặt vào miệng các nhân vật, bắt nhân vật nói hộ mình. Do vậy, nhân vật thiếu cá tính, tính cách. Nhân vật nếu có tính cách thì tính cách cũng rõ ràng, đơn giản và bất biến.

4. Con người văn chương trung đại là con người của ý thức.

Những vấn đề quan niệm về con người trình bày ở trên là xét về đại thể, xét trong một giai đoạn văn học từ thế kỉ X-đầu thế kỉ XVIII. Trong thực tiễn đời sống văn học, ở tác giả này, ở tác phẩm kia không phải là không có con người cá nhân ý thức về cái tôi của mình. Nhất là ở giai đoạn cuối thế kỷ XVIII.

Xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII rơi vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc. Mọi chân giá trị của xã hội bị đảo lộn hay băng hoại. Đây cũng là thời đại khởi nghĩa của nông dân. Chính từ điều kiện xã hội ấy, ý thức cá nhân bắt đầu trỗi dậy. Con người cá thể cảm thấy bị trói buộc nặng nề phi lý của đạo lý, của lễ giáo phong kiến, của hệ thống ước lệ thẩm mỹ phong kiến.

Trong đời sống văn học, nhiều tác phẩm có tính chất phản phong xuất hiện như Cung oán ngâm khúc, Truyện Kiều; nhiều tác giả dõng dạc khẳng định cái tôi của mình như Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,…

Có thể đơn cử thơ Hồ Xuân Hương để minh chứng cho điều đã nói ở trên. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đã đưa cái tôi của mình vào thơ, đã trưng ra cá tính nổi loạn trên những trang viết của mình. Hồ Xuân Hương đã làm vỡ tung hệ thống ước lệ nghiêm ngặt của văn học trung đại.
Trong thơ Hồ Xuân Hương, những gì gọi là hiền nhân quân tử đều bị phàm tục hóa, đời thường hóa. Họ cũng chẳng sang quý gì mà cũng mỏi gối chồn chân, đã mỏi gối chồn chân nhưng vẫn cố trèo “Đèo Ba dội”, cũng mụ mị ngắm nhìn “Cá giếc le te lội giữa dòng”, cũng:

Trai đu gối hạc lom khom cật
Gái uốn lưng ong ngữa ngữa lòng.

[Đánh đu]

Hồ Xuân Hương đã lên tiếng đòi hỏi hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho người phụ nữ “Làm lẽ”. Nữ sĩ đã đem hạnh phúc ấy mà xô lệch cái thế giới nghệ thuật trang nghiêm, đạo mạo của các đấng, bậc Hán học; để khẳng định một chất nhân văn mới, một hình thức nghệ thuật mới cho thơ:

Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.

[Mời trầu]

Hồ Xuân Hương đã lấy trực cảm nghệ thuật mà khám phá và tái hiện tạo vật thế giới, xây dựng nên một vũ trụ thơ ca ngồn ngộn sắc màu, thanh âm, đường nét sống động, tươi rói sự sống. Đấy là một thế giới bộc lộ trọn vẹn tình cảm của nữ sĩ:

Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mỏm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom !

[Tự tình I]

Cũng có thể thấy ở thơ Nguyễn Công trứ con người cá nhân ý thức. Nguyễn Công Trứ chủ trương hưởng lạc để khẳng định bản thể của cá nhân. Hưởng lạc là sự tự khẳng định cá nhân mình trong thời gian hữu hạn. Do vậy, ta hiểu vì sao nhà thơ không dùng khái niệm “Trăm năm” mà dùng “Ba vạn sáu nghìn ngày”. Nhưng cần phải thấy rõ, hưởng lạc của Nguyễn Công Trứ nằm trong phạm vi thể hiện cái tài tình của cá nhân: “Bài ca ngất ngưỡng” hay:

Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao

hoặc:

Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong

Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn người, cái riêng tư tự hào, tự cho là đủ.

Tất cả tạo nên một con ngươi cá nhân trong thơ hài hòa, tự tin, phong lưu, tự do, đứng trên mọi sự tính toán được mất khen chê. Đấy là bước phát triển cao nhất của ý thức cá nhân mang nội dung phong phú, hài hòa trong văn học Việt Nam thời trung đại. Phải chăng con người ý thức cá nhân cá thể của văn học giai đoạn này sẽ là tiền đề cho sự tiếp nối và phát triển con người cá nhân trong văn chương giai đoạn sau này, khi có sự hội nhập với nền văn hóa phương Tây hiện đại ?

Video liên quan

Chủ Đề