Tại sao ma lại sợ phật

Làm sao để phân biệt đâu là thân bệnh hay là do ma quỷ quấy nhiễu? Chúng con mỗi lần trì chú, tụng kinh hay có vấn đề gì khó chịu tâm bất ổn, lên chùa đều được bảo là do vong hành, do ma quỷ, cần phải cúng tế siêu độ, đeo dây pháp bảo là hết, vậy có đúng không?

HỎI:

Làm sao để phân biệt đâu là thân bệnh hay là do ma quỷ quấy nhiễu? Chúng con mỗi lần trì chú, tụng kinh hay có vấn đề gì khó chịu tâm bất ổn, lên chùa đều được bảo là do vong hành, do ma quỷ, cần phải cúng tế siêu độ, đeo dây pháp bảo là hết, vậy có đúng không?

ĐÁP:

Nếu có bệnh thì tốt nhất bạn hãy đến bác sĩ. Trừ khi các bác sĩ không tìm ra bệnh, thì hãy tìm đến những vị có đạo lực và kinh nghiệm tu để xem có vấn đề tâm linh nào tác động hay không. Nếu có thì hãy nhờ các vị đó hoặc các thầy chuyên môn trợ giúp. Bây giờ, hay có khuynh hướng xảy ra chuyện gì bất thường thì một số thầy hoặc đồng bóng đổi thừa cho có vong thực tế là không phải như vậy. 

Tuy nhiên, theo HT Tịnh Không, trong kinh Phật nói: “Thọ mạng chung tận, chư ác nhiễu quy”, tức là lúc thọ mạng đã hết, vận mạng của quý vị đã đến chổ cuối cùng, thì lúc đó oan thân trái chủ thảy đều hiện đến, thảy đều đến đòi nợ.

Tôi có một người bạn học đã qua đời nhiều năm, lúc ông ta vào tuổi trung niên đã từng làm viện trưởng bệnh viện Vinh Dân ở Thạch Bài Đài Bắc, chúng tôi là bạn học cùng lớp. Ông ta nói với tôi rằng: Thật là có ma, những người trong bệnh viện đều tin có ma. Trong phòng bệnh nếu như có người nhìn thấy quỷ vô thường đứng trước cửa, chỉ cần có người nhìn thấy thì người bệnh trong phòng đó trong ba ngày thì họ sẽ ra đi, các bác sĩ và y tá cũng thường nhìn thấy. Cho nên ông ta nói với tôi, ông rất tin chuyện này là có thật.

Chúng ta là những người học Phật, niệm Phật, đến bệnh viện vì sao không nhìn thấy ma quỷ? Vì thân có ánh sáng, khi ma quỷ nhìn thấy đều phải tránh né, phàm là người nào nhìn thấy ma quỷ đều là vận khí của họ rất yếu, những người nào mà vận khí mạnh thì ma quỷ sợ họ, sẽ tránh né họ, đến khi nào vận khí của quý vị yếu thì thấy ma quỷ hiện ra, lúc đó thì chúng sẽ gây rắc rối với quý vị. “Chư ác” tức là nói tam ác đạo. Cho nên đến lúc sắp mạng chung, thiếu mạng thì họ đến đòi mạng, thiếu nợ thì họ đến đòi nợ.

Có những bệnh nhân lúc bệnh nặng trầm trọng sắp phải ra đi, họ nói với người nhà rằng, “tôi đã thấy người nào đó đang đứng ở trước cửa”, đó là gì? Đó là họ thật nhìn thấy không phải giả, trong kinh Địa Tạng có nói rõ, họ nhìn thấy những người thân nhân quyến thuộc đều đã qua đời, có phải thật là người thân hay không?

Không phải thật, trong kinh Địa Tạng nói không phải thật, đó là oan gia trái chủ của họ biến hiện ra người thân nhân quyến thuộc của họ để dụ dỗ họ, để dẫn dắt họ. Nếu họ nhìn thấy là oan gia trái chủ thì họ không bao giờ theo chúng, khi họ nhìn thấy là thân nhân quyến thuộc thì họ liền đi theo chúng, sau khi đi theo chúng rồi, mặt mũi của chúng vừa biến đổi thì chúng sẽ thanh toán quý vị, đến lúc đó quý vị hối hận cũng không kịp, những chuyện này đều là sự thật không phải giả.

Cho nên người niệm Phật phải đem sự tu học của mình bố thí công đức, hồi hướng cho oan gia trái chủ, tại vì sao? Vì trong vô lượng đời đời kiếp kiếp đến nay chúng ta đã kết oán thù rất nhiều với tất cả chúng sanh, cố ý hay vô ý, những chúng sanh đó bao gồm cả súc sanh như côn trùng muỗi kiến, chúng ta cố ý giết chúng. Lúc chúng ta còn nhỏ không biết, bắt những động vật nhỏ để làm đồ chơi, chơi đùa cho đến chết, đó là cố ý, còn vô ý giết hại thì rất nhiều, bất luận là cố ý hay vô ý, đến lúc quý vị sắp mạng chung thì chúng đều hiện đến trả thù đòi mạng.

Niệm một câu Phật hiệu, chư Phật hộ niệm, thần hộ pháp bảo vệ, hết thảy quỷ thần chẳng dám đến gần bên thân quý vị. Đầu thời Dân Quốc, cư sĩ Đinh Phước Bảo có ghi lại một câu chuyện, đấy là chuyện có thật. Có hai người là bạn bè thân thiết, cùng đi ra ngoài, có một người chết trên đường đi, một người trở về. Sau khi trở về bèn báo tin cho gia quyến của người kia biết, vợ ông ta ngờ vị bằng hữu ấy hại chết chồng mình. Mối nghi ấy từ đầu đến cuối không thể tháo gỡ được!

Công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn!

Sau khi chồng bà ta chết đi, hồn ma rất thiêng, vẫn thường tìm đến người bạn trò chuyện, ông ta nói: “Người nhà tôi nghi ngờ ông, ông hãy dẫn vợ tôi đến đây, tôi sẽ giải thích trước mặt bà ấy hòng có thể tiêu trừ nỗi hoài nghi ấy”.

Ông ta nghe xong câu ấy, bèn niệm một tiếng A Di Đà Phật. Ông niệm A Di Đà Phật một tiếng, hồn ma ấy kêu lên: “Ông đừng có niệm! Khi ông niệm, thân ông phóng quang, tôi bứt rứt chịu không thấu!”

Ông ta nghe xong, niệm mấy tiếng nữa, hồn ma bèn bỏ chạy. Do vậy, ông ta hiểu: Ông ta cũng chẳng cần phải giải thích cho vợ ông kia nữa. Từ đấy về sau, ông ta xuất gia, nhất tâm niệm A Di Đà Phật. Ông ta mới biết một câu A Di Đà Phật có sức mạnh chẳng thể nghĩ bàn như thế. Vị bằng hữu kia chẳng phải là ác quỷ, niệm mấy câu A Di Đà Phật mà ông ta chẳng dám léo hánh, chẳng dám đến gần, phải tránh đi, mới biết công đức niệm Phật chẳng thể nghĩ bàn!

Người ta nghĩ rằng ma chỉ có thể hiện ra trong kẹt cửa hay trong những nơi đầy bóng tối, nhưng thật ra thì chúng đang ẩn nấp trong các ngõ ngách u tối phía sau tấm màn vô minh trong tâm thức của mỗi người trong chúng ta. Bài này không dành cho những ai hay đọc lướt.

Có Ma hay không có Ma ? Ma là gì ? Ma ở đâu ? Ma có làm hại được ta hay không ? Phải trừ Ma như thế nào ?... Đó là những câu hỏi có thể nêu lên cho mỗi người trong chúng ta, vì có thể có người chưa hề « gặp ma » bao giờ, nên tò mò cũng muốn biết xem Ma ra thế nào, hoặc có người đã từng « thấy ma » nên vẫn còn bị Ma ám ảnh và muốn biết xem cái thấy của mình, hay là cái con Ma họ thấy có thật hay không. Vậy ta hãy xem quan điểm của Phật giáo về Ma như thế nào.

Có vài khác biệt trong cách định nghĩa của bốn loại Ma giữa Thừa Kinh điển [Sutrayana] và Kim cương thừa [Vajrayana]. Vì thế nếu đem cộng lại sẽ có đến tám thứ Ma [Bát ma].

Tìm hiểu định nghĩa của Ma trong kinh sách

Phổ diệu Kinh [Latitavistara], là bộ kinh kể lại cuộc đời của Đức Phật, cho biết Ma đã từng dùng mọi xảo thuật ma quái để quấy nhiễu và cản trở không cho Vị Phật tương lai là Đức Thích-Ca Mâu-Ni đạt được Giác ngộ. Trong đêm trước khi Ngài thành Phật, Ma dẫn ba con ma nữ đến quyến rũ Ngài, lại đưa ma quân đến để ném đá như mưa vào Đức Phật. Ma vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra.

Ma vương là Vua các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh trời gọi là Tha-hoá Tự-tại thiên [Paranirmitavasavartin], tức là cảnh trời thứ sáu trong cõi Dục giới, một cảnh giới thấp nhất trong Tam giới. Ma vương có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ-tát. Ma vương còn có tên là Ma vương Ba-tuần, tức là tên của Tha-hoá Tự-tại thiên vương.

Vậy theo Kinh sách, có bao nhiêu thứ Ma tất cả? Thật ra Ma nhiều lắm, nhưng tựu trung được phân loại ra làm bốn thứ. Có vài khác biệt trong cách định nghĩa của bốn loại Ma giữa Thừa Kinh điển [Sutrayana] và Kim cương thừa [Vajrayana]. Vì thế nếu đem cộng lại sẽ có đến tám thứ Ma [Bát ma].

Theo Thừa Kinh điển [Sutrayana] có bốn loại Ma [Tứ ma] là :

 1. Ma cấu hợp [Skandhamara] : đó là thứ ma quái làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là « con ma gánh chịu cái chết ». Kinh sách tiếng Hán gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.

 2. Ma dục vọng [Klesamara] : bao gồm những dục vọng, ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành vi tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, thu ngắn kiếp nhân sinh, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là « con ma đưa đến cái chết », kinh sách gốc Hán gọi là Phiền não ma.

 3. Ma thần chết [Mrtyumara] : đó là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là quy luật Vô thường. Con ma này có tên là « con ma vô thường », kinh sách tiếng Hán gọi là Tử ma.

 4. Ma con trời [Devaputramara] : bao gồm những thứ ma làm cho ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác bên ngoài làm cản trở sự tu học. Đó là « con ma bấn loạn », kinh sách tiếng Hán gọi là Tha-hoá Tự-tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tức thần thánh tay sai của Thiên-hóa Tự tại vương.

Kim cương thừa [Vajrayana] có quan niệm về Tứ Ma

Theo Kim cương thừa [Vajrayana] Tứ Ma lại được định nghĩa khác hơn :

1. Ma xiềng xích [tiếng Tây tạng : thogs-bcas-kyi bdud] : con Ma này rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, binh tật và chướng ngại bên ngoài. Đây là con Ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh. Con ma này luôn luôn tìm cách trói buộc ta vào những thứ ấy. Kinh sách tiếng Hán gọi con ma xiềng xích là Phiền não ma.

2. Ma thả lỏng [tiếng Tây tạng : thogs-med-kyi bdud] : đó là ba thứ nọc độc chính và năm thứ nọc độc phụ, tức là những dục vọng chính yếu và thứ yếu, những tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, xâm chiếm tâm thức ta và gây ra khổ đau cho ta. Kinh sách gốc tiếng Hán gọi con ma này là Tâm ma.

3. Ma khánh hỷ [tiếng Tây tạng : dga’-brod-kyi bdud] : đó là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi dục ta bám víu vào những « kết quả » và « kinh nghiệm » thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm. Kinh gốc tiếng Hán gọi là Thiện căn ma.

4. Ma kiêu căng [tiếng Tây tạng : snyems-byed-kyi bdud] : đó là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái « ta », cái « tôi », cái « ngã ». Kinh sách gốc tiếng Hán gọi là Tam muội ma.

Có sách [kinh Hoa nghiêm sớ sao] còn phân chia Ma ra làm mười thứ gọi là Thập ma, trong số mười loại ma này nhiều thứ đã được liệt kê trên đây, tuy nhiên cũng xin kể ra hết theo thứ tự như sau :

1. Uẩn ma

2. Phiền não ma

3. Nghiệp ma : tức các nghiệp tiêu cực ngăn trở việc tu tập.

4. Tâm ma

5. Tử ma

6. Thiên ma

7. Thiện căn ma

8. Tam muội ma

9. Thiện trí thức ma : tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác. Những kẻ như thế cũng được xem là một loại ma.

10. Bồ-đề Pháp-trí ma : là những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không quán thấy được chính đạo.

Ma sự: Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần: yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng.

Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng mạn phép kể ra thêm :

Ma cảnh: khung cảnh do ma quái tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.

Ma chướng: những chướng ngại, ngăn chận việc tu hành và sự thăng tiến của trí tuệ.

Ma duyên: còn gọi là ác duyên, tức là những xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.

Ma đàn: là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tại nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhãn chung quanh ta, rất dễ thấy, không cần đến « kính chiếu yêu ». Chữ Ma đàn nghịch nghĩa với chữ Phật đàn, tức là bố thí mà không biết là đã bố thí, không biết bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.

Ma đạo: đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma.

Ma lực: sức mạnh tiêu cực, kích động những hành vị xấu hay hung ác.

Ma ngoại: là những kẻ phỉ báng, chê bai Đạo pháp.

Ma Phạm: [Mâra hay Brâma] tức là Ma vương ở cõi Phạm vương, gọi tắt là Ma Phạm. Chữ Ma vương đã được giải thích trên đây, đó là Thiên-hoá Tự tại vương, còn Ma Phạm hay Phạm vương hay Phạm thiên vương [Mahabrahma] là vị Chúa tể của cõi Ta-bà, quyền lực của Ma Phạm hay Phạm thiên vương vượt lên vị thế cao nhất trong cõi Dục giới, cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi « Ngài » là Ngọc Hoàng Thượng đế.

Ma thiền: Phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo. 

Ma thuật: Nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.

Ma sự: Ý nghĩa của ma sự khá rắc rối, đại cương là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên con đường chánh Pháp. Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần: yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa thích mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng.

Ma sự cũng là những cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục. Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền...

Ma sự cũng dùng để ám chỉ những người đã xuất gia tu hành nhưng còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, hoặc xu nịnh bọn cư sĩ và bá tánh lui tới chùa có nhiều của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…

Vậy Ma thực sự là gì?

Ma không những tượng trưng cho dục vọng hiển hiện như vừa kể mà còn tượng trương cho những thèm khát tiềm ẩn bên trong ta, không bộc lộ ra ngoài, chúng thuộc về bản năng, có thể phát sinh từ tâm thức mặc dù rất tinh khiết, hoặc từ những nghiệp sâu kín và những cấu hợp của thân xác. Con Ma này nằm trong da thịt của ta, trong tâm thức ta, trong sự vận hành của cơ thể ta.

Ma còn mang một cái tên nữa mà Kinh sách ít nói đến, đó là con ma Ái dục [Kâma, xin đừng lầm lộn với karma], đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nói nôm na là tình yêu. Con ma Ái dục ấy là một thứ bản năng, tinh anh của sự sống, luôn luôn « canh chừng » và « chăm lo » cho ta rất cẩn thận.

Con ma Ái dục [Kâma, xin đừng lầm lộn với karma], đó là sự yêu mến, lòng yêu thương, nói nôm na là tình yêu

Con Ma đó hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, nó làm phát sinh ra mọi hình tướng, màu sắc và âm thanh đủ loại. Con ma đó hiến dâng cho ta những ảo giác biến động như vửa kể do chính nó tạo ra, kèm theo mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, và tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.

Vấn đề mấu chốt và gay go là Ma không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ mà nó đã tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, « tham » bao nhiêu nó cũng cho, « yêu » bao nhiêu nó cũng khuyến khích thêm, « bám víu » bao nhiêu nó cũng sẵn sàng tiếp tay. Nhưng hậu quả của những ảo giác ấy mà Ma đem tặng cho ta chỉ là khổ đau mà thôi: cướp giật, mưu mô, thất tình, tự tử, lường gạt, đâm chém… Những khổ đau ấy Ma không cần biết. Ma cho ta lạc thú, nhưng đồng thời cũng tập cho ta thèm khát lạc thú. Điều này có nghĩa là Ngũ uẩn quen dần với với những lạc thú, lệ thuộc vào lạc thú và bị kích động bởi lạc thú. Ma vừa là Kẻ sáng tạo và đồng thời cũng là Kẻ phá hoại là như thế đó.

Khi nhìn Ma dưới khía cạnh này, ta sẽ hiểu ngay là ma ở đâu. 

Ma ngự trị chính trong đầu của ta. Ma nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác Ma không nằm bên ngoài ta, không có ta thì cũng không có Ma.

Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát nhục dục, thất vọng, buồn bực, đói khát, bám víu, tham lam, chiếm giữ, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự phụ, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái « tôi » của chính mình...

Tất cả những thứ này được Kinh sách phân ra làm tám thứ hay mười thứ ma: Uẩn ma, Phiền não ma, Tử ma, Thiên ma, Tâm ma, Thiện căn ma, Tam muội ma… như đã đề cập trong phần trên đây. Nhưng nếu suy nghĩ sâu sa thì ta sẽ thấy Ma nhiều hơn, đông đảo hơn như thế nữa, Ma hiển hiện cùng khắp trong thế giới luân hồi này.

Trên đây là những gì Kinh sách nói về Ma, định nghĩa về Ma.

Một thí dụ cụ thể về Ma

Để tránh cách nói tổng quát, siêu hình như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ thực tiễn hơn, đơn giản hơn vể những con ma thường hiện ra dọa nạt những con người bình dị như chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một căn phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con Ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt… và cười với ta một cách thật rùng rợn.

Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con Ma, ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. Vì đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu hay do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn «không dám» tiến đến gần, ta cứ bật đèn lên, thì con Ma cũng biến mất.

Nhưng nếu ngược lại, ta hét lên một tiếng, «vắt giò lên cổ» mà chạy, thì nhất định con Ma sẽ đuổi theo, và nhất định ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu của ta, trong thân xác đang «nổi da gà» của ta.

Phật có đưa ra một thí dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại.

Nhưng nhìn kỹ thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta. Con Ma cũng ở trong đầu ta là như vậy.

Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơi a-lại-da-thức [âlayavijnâna] của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta

Khi ta ngủ mê, ta thường chiêm bao « thấy ma ». Ta hét lên hay la ú ớ…Giật mình thức dậy, ta không thấy con ma nào cả. Khi ngủ, ta nhắm mắt, nằm trên giường và trong gian phòng tối om, làm gì ta có thế dùng mắt mà thấy được.

Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ tiềm thức ta, từ nơi a-lại-da-thức [âlayavijnâna] của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn và tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta, từ những ám ảnh bịnh hoạn của ta, từ những đam mê, tham dục của ta, từ những bám víu vào ảo giác, sân hận của ta…

Những người tu tập cao, nhất là tu tập theo các phép thiền định của Phật giáo Tây tạng, họ ít chiêm bao hay hoàn toàn không còn chiêm bao nữa, hoặc nếu có chiêm bao thì họ chỉ « thấy » những phản ứng và hành vi của họ thấm đượm lòng tư bi, yêu thương, khoan dung và độ lương trước những cảnh đau thương trước mặt họ, nhưng tuyệt đối họ không còn thấy ma nữa.

Tóm lại, Ma nằm trong tâm trí ta và tâm thức ta. Tại sao ?

Trong đầu ta, Ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái tôi, cái ngã của ta, nó rất khôn ngoan và khéo léo, tùy theo từng người, từng hoàn cảnh và trường hợp, nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé… mục đích để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái ngã.

Ma là cái ngã đang thống trị ta, làm cho ta tham lam, ích kỷ, nó xúi dục ta, nịnh hót ta, biến ta thành đốn mạt, nói dối và quỷ quyệt. Ma không phải chỉ biết doạ nạt suông mà thôi, nhưng chính những hành vi do Ma xúi dục đã làm phát sinh ra Thế giới luân hồi. Thế giới luân hồi nằm trong sự kiềm tỏa của Ma, đồng thời Ma lại nằm trong tâm thức ta.

Đánh đuổi con Ma ấy ra khỏi tâm thức có nghĩa là xoá bỏ cả thế giới luân hồi này. Vì thế có thể nói Ma chính là biểu hiện của luân hồi, của sợ hãi, đọa đày và khổ đau. Mahay Vô minh tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê, lầm lẫn và đau khổ, kích động ta tạo nghiệp, trói buộc ta vào thế giới luân hồi.

Chu kỳ của sự sống là sự vận hành của bánh xe luân hồi mà động cơ là con Ma trong đầu ta. « Tỉnh thức » hay « Giác ngộ » tức là nhận thức được quá trình đó, sự vận chuyển đó không thật, chúng chỉ là ảo giác, chỉ là Ma. Tóm lại, ta không thể đuổi con Ma ra khỏi phòng, ta cũng không thể chạy trốn nó được, mà ta phải đuổi con Ma ra khỏi đầu.

Ta không thể dùng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi Ma. Ta chỉ có thể đuổi Ma bằng tu tập, bằng cách khắc phục Vô minh, mang lại cho ta một tâm linh minh mẫn, an bình, trong sáng và rạng rỡ, không còn bóng dáng một con Ma nào nữa.

Trừ Ma theo Phật giáo Tây tạng

Theo sự trình bày trên đây, Ma ẩn nấp trong đầu ta, tu tập tức là tìm cách đánh đuổi con Ma ra khỏi đầu. Lý thuyết là như thế, nhưng đánh đuổi bằng khí giới gì, bằng cách nào?

Người ta nghĩ rằng ma chỉ có thể hiện ra trong kẹt cửa hay trong những nơi đầy bóng tối, nhưng thật ra thì chúng đang ẩn nấp trong các ngõ ngách u tối phía sau tấm màn vô minh trong tâm thức của mỗi người trong chúng ta.

Khi nào chúng ta vun xới tâm thức mình để biến cải nó thành một ngôi vườn đầy hoa thơm và cỏ lạ, tràn đầy lòng Từ bi và rộng lượng, chan hòa ánh hào quang của Phật tính, thì khi ấy trong tâm thức ta tức là ngôi vườn chan hoà ánh sáng đó sẽ không còn có bóng dáng của một con ma nào ẩn nấp.

Video liên quan

Chủ Đề