So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác với dịch thơ

Soạn bài Tỏ lòng [Thuật hoài] – Phạm Ngũ Lão Văn 10: Hai chữ “múa giáo” chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng của hai từ “hoành sóc” trong câu thơ nguyên tác “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”….

Câu 1. Chỉ ra điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán [qua phần dịch nghĩa] với câu thơ dịch. Có gì đáng lưu ý về không gian, thời gian trong đó con người xuất hiện? Con người ở đây mang tư thế, dáng vóc như thế nào?

   Hai chữ “múa giáo” chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng của hai từ “hoành sóc” trong câu thơ nguyên tác “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. “Hoành sóc” là tư thế cầm ngang ngọn giáo của con người trấn giữ đất nước. Con người xuất hiện với tư thế hiên ngang, lẫm liệt, mang tầm vóc của vũ trụ.

   Trong không gian rộng lớn [giang sơn] và thời gian trải dài dường như vô tận [kháp kỉ thu] đã làm cho hình ảnh con người trở nên kì vĩ, hào hùng lạ thường. Ngọn trường giáo dường như được đo bằng chiều dài của sông núi. Cầm ngang ngọn giáo là tư thế con người luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, so với phần dịch “múa giáo” thì hình ảnh đó mạnh mẽ, hào hùng hơn nhiều.

Câu 2. Anh chị cảm nhận như nào về sức mạnh của quân đội nhà Trần qua câu thơ: “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”?

   Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu: Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn [như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…]. Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.

Câu 3. “Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu theo nghĩa nào dưới dây?

   Nam nhi thời phong kiến coi việc lập công [để lại sự nghiệp] và lập danh [để lại tiếng thơm] là nhiệm vụ quan trọng của cuộc đời. Đây là chí làm trai theo quan niệm Nho giáo. Lập công danh là món nợ của kẻ làm trai. Chừng nào chưa lập được công danh, chưa tạo được tiếng thơm là chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước. Đặt trong xã hội phong kiên thời loạn, đất nước luôn bị họa ngoại xâm, chí làm trai có tác dụng mãnh mẽ, cổ vũ con người từ bỏ lối sống cá nhân, ích kỉ để sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp “bình quốc an dân”, do đó nó mang giá trị tích cực.

Câu 4. Phân tích ý nghĩa của nỗi “thẹn” trong câu thơ cuối.

   Trong câu thơ cuối, nỗi “thẹn” đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng. Phạm Ngũ Lão “thẹn” vì chưa có được tài năng mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng [Khổng Minh – đời Hán] để giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. nỗi thẹn ấy cho thấy nhân cách cao cả, tâm hồn đẹp của Phạm Ngũ Lão.

Câu 5. Qua những lời thơ tỏ lòng, anh [chị] thấy hình ảnh

   Vẻ đẹp của hình ảnh trang nam nhi đời Trần và ý nghĩa của bài thơ đối với thể hệ trẻ hôm nay. Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần. Hình ảnh con người được đặt ngang tầm vóc của vũ trũ, mang vẻ lẫm liệt, hào hùng. Họ là những con người sống hết kích thước cuộc sống, luôn hết mình vì dân, vì nước. Mỗi cá nhân đều ý thức tạo nên sức mạnh tập thể, hết mình cống hiến. Chính vì vậy đã tạo nên sức mạnh của thời đại, tạo nên một nhà Trần “bách chiến bách thắng” và hào khí Đông A mà sử sách mãi lưu danh. Thế hệ trẻ hôm nay học được ở bài thơ cách sống và cách cống hiến của người đời xưa. Chúng ta học được lí tưởng sống, hoài bão của Phạm Ngũ Lão, một con người hết mình vì dân vì nước. Thế hệ trẻ ngày nay học được cách nuôi dưỡng đam mê, khát vọng cho thứ cao cả, đẹp đẽ.

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Phân tích hai câu thơ đầu phần dịch thơ của bài Tỏ Lòng.

Các câu hỏi tương tự

  • Toán lớp 10
  • Ngữ văn lớp 10
  • Tiếng Anh lớp 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠKHOA KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂNBỘ MÔN NGỮ VĂN------------------------TRẦN CHÚC LYMSSV: 6095868SO SÁNH NGUYÊN TÁC VÀ BẢN DỊCH THƠMỘT SỐ BÀI THƠ TRONGTẬP NHẬT KÝ TRONG TÙ CỦA HỒ CHÍMINHLuận văn tốt nghiệp Đại họcNgành Ngữ VănCán bộ hướng dẫn: ThS.GVC. LÊ THỊ NGỌC BÍCHCần thơ, 2013ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁTPHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài2. Lịch sử vấn đề3. Mục đích nghiên cứu4. Phạm vi nghiên cứu5. Phương pháp nghiên cứuPHẦN NỘI DUNG CHÍNHChương 1: VÀI NÉT VỀ CHỮ HÁN, HỒ CHÍ MINH VÀNHẬT KÝ TRONG TÙ1.1. Về chữ Hán1.1.1. Nguồn gốc chữ Hán1.1.2. Lược sử chữ Hán1.1.2.1. Lược sử chữ Hán theo góc độ Thư pháp: [Khái quát về chữHán theo góc dộ thư pháp, các loại chữ Hán]1.1.2.2. Lược sử chữ Hán theo góc độ văn tự học1.1.2.3. Những đặc điểm cơ bản của chữ Hán1.1.3 Thực trạng chữ Hán1.1.3.1. Chữ Hán ở Trung Quốc và các nước1.1.3.2. Chữ Hán ở Việt Nam1.2. Hồ Chí Minh1.2.1. Tiểu sử và con người1.2.2. Tác phẩm chính1.3. Nhật ký trong tù1.3.1. Vị trí của tập thơ Nhật ký trong tù1.3.2. Vài nét về việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu và nghiên cứu tậpthơ Nhật ký trong tù1.3.3. Các bài thơ được khảo sát và đối chiếuChương 2: LÝ THUYẾT VỀ VĂN HỌC SO SÁNH VÀ VẤNĐỀ DỊCH THƠ CHỮ HÁN2.1 Một số lý thuyết về văn học so sánh2.1.1. Mục đích và đối tượng của văn học so sánh2.1.1.1. Mục đích2.1.1.2. Đối tượng2.1.1.2.1.Các mối quan hệ trực tiếp2.1.1.2.2. Các hiện tượng tương đồng2.1.1.2.3.Các hiện tượng khác biệt độc lập2.1.2. Chức năng của văn học so sánh2.1.3. Vị trí của văn học so sánh trong bối cảnh khoa học và văn hóangày nay2.2. Đôi nét tình hình dịch thơ chữ Hán ở Việt Nam2.3. Những thuận lợi và khó khăn trong việc dịch thơ chữ Hán2.4. Nguyên nhân bản dịch thơ mất chữ, mất ngữ và thoát nghĩaso với nguyên tácChương 3: SO SÁNH NGUYÊN TÁC VÀ BẢN DỊCH THƠMỘT SỐ BÀI THƠ TRONG TẬP NHẬT KÝ TRONG TÙ CỦAHỒ CHÍ MINH3.1. Ưu điểm chung của các bản dịch3.2. Một số nhược điểm của các bản dịch3.2.1 Bài thơ Quyển đầu3.2.2. Bài thơ Nạn hữu xuy dịch [Người bạn tù thổi sáo]3.2.3. Bài thơ Vọng nguyệt [Ngắm trăng]3.2.4. Bài thơ Phân thủy [Chia nước]3.2.5. Bài thơ Tẩu lộ [Đi đường]3.2.6. Bài thơ Mộ [Chiều tối]3.2.7. Bài thơ Tảo giải [Giải đi sớm]3.2.8. Bài thơ Lộ thượng [Trên đường]3.2.9. Bài thơ Lai Tân [Lai Tân]3.2.10. Bài thơ Vãn cảnh [Cảnh chiều hôm]3.2.11. Bài thơ Khán “Thiên gia thi” hữu cảm [Cảm tưởng đọc “Thiêngia thi”]PHẦN KẾT LUẬNPHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiĐã từ lâu văn thơ chữ Hán đã trở nên quen thuộc với người Việt Nam. Kể từsau thời Đường của Trung Quốc, trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê,Tây Sơn, nhà Nguyễn của Việt Nam, cho đến nay vẫn còn gìn giữ được một khốilượng đồ sộ những tác phẩm văn thơ viết bằng chữ Hán. Văn thơ chữ Hán đã đi vàolòng người, bất kể tầng lớp, địa vị, từ tầng lớp trên như: tăng sĩ, vương tôn quý tộc chođến quần chúng nhân dân. Và nó cũng xuất hiện ở khắp mọi nơi, từ thành thị cho đếnnông thôn. Thơ văn chữ Hán, rất tự nhiên đã trở thành nét truyền thống lâu đời, đi sâuvào đời sống của người dân, và có nhiều giá trị phong phú, từ thơ của Phật giáo, Nhogiáo đến những áng thơ hào hùng của chủ nghĩa yêu nước. Có thời kỳ, thơ văn chữHán trở thành một trào lưu chính trong dòng chảy văn hóa nghệ thuật cổ điển của ViệtNam, và nó có một ảnh hưởng sâu sắc đến những tác phẩm văn hóa nghệ thuật hiệnđại của Việt Nam.Mặc dù, nền Hán học một thời hưng thịnh ấy đã không còn. Giờ đây dân tộc tađã có chữ viết riêng và sự giao lưu văn hóa trong quá trình hội nhập đã thu nạp thêmnhiều thứ tiếng thông dụng hơn, mang tính quốc tế. Thế nhưng, con cháu dân tộc tavẫn dành một góc riêng thiêng liêng cho những tác phẩm sáng tác bằng Hán tự. Đó đãtrở thành một thứ tinh hoa cần được giữ gìn. Nó gợi nhắc đến một thời kỳ của lịch sửvới những con người đáng để cho thế hệ sau nể phục. Một thời kỳ mà đất nước trải quanhiều lần tranh đấu để gìn giữ độc lập. Quá trình vĩ đại ấy sản sinh ra những con ngườixuất chúng.Hồ Chí Minh là một con người như thế. Người đã trở thành niềm tự hào củadân tộc ta, chính Bác là người dẫn dắt dân tộc đi qua cơn bão lửa của chiến tranh đểtiến đến độc lập, tự cường. Con người ấy luôn luôn nghĩ cho nhân dân, lo cho dân tộcvà trong phương diện sáng tác cũng không phải là ngoại lệ. Trong quá trình Bác bịchính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ, Người đã cho ra đời tập thơ Nhật ký trongtù. Đây là một tập thơ nhưng lại không hẳn là thơ, nói một cách chính xác thì đây làmột tập nhật ký bằng thơ. Bởi vì tính chất đặc biệt đó mà trong quá trình dịch thơ từHán văn sang Việt văn nhiều dịch giả đã gặp không ít khó khăn do nhiều điều kiện.Chính vì lẽ đó, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: So sánh nguyên tác và bản dịch1thơ một số bài thơ trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh. Về nội dung thì đây làmột đề tài không mới nhưng chúng tôi đang cố gắng để thực hiện nó trên cơ sở kế thừanghiên cứu của các công trình đi trước, nhưng có hoàn thiện và đi sâu làm rõ nhữngvấn đề còn tồn đọng từ lâu, nhằm đi đến một cách hiểu hoàn chỉnh nhất có thể về tậpthơ của Hồ Chí Minh.2. Lịch sử vấn đềHơn nửa thế kỷ đã qua đi, tác phẩm Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minhđã được dịch [bản dịch đầu tiên vào 5 - 1960], giới thiệu và xuất bản nhiều lần, bằngnhiều thứ tiếng, dưới nhiều hình thức khác nhau. Bên cạnh đó, có nhiều công trìnhnghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập về toàn bộ tác phẩm, baogồm cả những công trình có chỉnh lí, sửa chữa nhiều lần. Nhật ký trong tù là một tácphẩm văn học độc đáo đã trở thành nguồn cảm hứng đối với nhiều nhà thư pháp trongnước và nước ngoài, các nhà lịch sử và đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học, đã cónhiều hội thảo khoa học về Nhật ký trong tù, các công trình nghiên cứu nhiều tâmhuyết của các tác giả về vấn đề dịch tác phẩm.Những công trình đó đều nói đến giá trị đặc biệt về nội dung, tư tưởng và nghệthuật diễn tả và kể cả những điều về vấn đề dịch tác phẩm. Trong đề tài này, chúng tôixin được nêu một số công trình cũng như những bài viết xoay quanh vấn đề dịch tácphẩm. Đó là những bài viết: Bản dịch nhật ký trong tù dưới ánh sáng tiếp nhận của haitác giả Nguyễn Vũ Cư và Nguyễn Huệ Chi được in trong cuốn Suy nghĩ mới về Nhậtký trong tù, Thử đi vào chỗ tinh vi của nguyên tác và bản dịch Nhật ký trong tù của LêTrí Viễn được in trong cuốn Học tập phong cách ngôn ngữ của chủ tịch Hồ Chí Minh,và bài viết Nguyên tác và bản dịch Nhật ký trong tù - những câu chuyện nhỏ của tácgiả Hoàng Quảng Uyên.- Bài viết Bản dịch nhật ký trong tù dưới ánh sáng tiếp nhận của hai tác giảNguyễn Vũ Cư và Nguyễn Huệ Chi [3; tr.238] đã đề cập đến những giá trị chuyển ngữcủa bản dịch thơ đầu tiên tập Nhật ký trong tù năm 1960. Trước hết hai tác giả đã nêulên rằng bản dịch thơ năm 60 có một vai trò đặc biệt trong việc kéo gần khoảng cáchcủa độc giả với nguyên tác tác phẩm. Bản dịch đã tạo ra một “vận mệnh riêng”, ítnhiều có thể xứng được với nguyên tác. Hai tác giả cũng nhấn mạnh rằng những điềulàm nên sắc thái của bản dịch như: ngôn ngữ thể loại, nhịp điệu, tiết tấu, âm hưởng, cảmặt ưu điểm và hạn chế đều là những đối tượng khảo sát của chuyên luận về Nhật ký2trong tù. Có thể nói, người dịch có điều kiện thuận lợi để thâm nhập vào thế giới củanguyên tác và tác giả tập thơ. Công việc ấy, có lúc đã không còn là công việc “tìm vầngọt chữ”, trái lại đã trở thành công việc mang ý nghĩa “cộng đồng suy nghĩ và sángtạo” với tác giả. Và, cả dân tộc như đã bày tỏ mối cộng cảm với “con người hiện thâncho ánh sáng lương tri của chính mình” thông qua bản dịch [3; tr.240]. Đó là nhữngthành công ban đầu mà bản dịch năm 1960 đạt được.Với những thành công như vậy, có thể thấy rằng bản dịch thơ năm 60 đã giúpcho tác phẩm gia nhập hẳn vào giữa dòng thời cuộc sống động, xa rời phương thức tồntại “18 năm lặng lẽ” của nguyên tác. Các tác giả cũng đề cập đến tính chất đặc biệtcủa tập thơ: Nhật ký trong tù là một tập thơ này được tác giả viết với mục đích “trướchết là cho mình đọc, một mình mình cảm xúc, suy ngẫm” [3; tr.241]. Cho nên, tập thơvì vậy mang tính chất kín và chất nặng những thanh âm hướng nội. Với đặc điểm đó,tác phẩm sẽ có một vòng vận động khép kín - tác giả và người đọc luôn luôn chồngkhít lên nhau. Yếu tố ấy sẽ làm cho tác phẩm có kết cấu ngôn từ khác hẳn với thơ Hán- Việt cổ điển. Điều này là những khó khăn mà các dịch giả nên chú ý để tìm ra hướnggiải quyết phù hợp trong việc dịch tác phẩm.Ngoài ra, bài viết còn nêu lên những khó khăn trong quá trình thực hiện bảndịch của các dịch giả. Đầu tiên là việc trước đó chưa có một thể nghiệm chuyển từhình thức chữ Hán cổ pha Bạch thoại sang hình thức thơ Việt kiểu mới trên thi đàn thơdịch, nhất là thơ dịch Hán - Việt để làm tiền lệ. Và thực tế đó đòi hỏi các dịch giả phảichọn một phương thức phù hợp ? Các dịch giả đã lựa chọn phương thức: mã Đườngluật xen Bạch thoại trong nguyên tác được chuyển thành hai mã thơ chủ yếu trong bảndịch là lục bát và luật đường. Với lựa chọn này, những trợ từ của cú pháp bạch thoạitrong nguyên tác đều bị lượt bỏ; do yêu cầu hiển nhiên của hai mã thơ lục bát và luậtđường là cô đúc từ ngữ đến mức khắt khe, lại phải có cấu trúc, thanh âm cân đối, nhịpnhàng [3; tr243]. Có thể cách lựa chọn phương thức dịch như vậy sẽ có lúc ít nhiềulàm cho bản dịch thơ mất đi phần chắc khỏe của nguyên văn, hay có lúc làm chonhững câu thơ không bóng bẩy trở nên thanh thoát hơn. Nhưng điều quan trọng là phảigiữ và tôn lên được chất thơ vốn có trong nguyên tác. Bài viết cũng cho chúng ta thấyrằng, bản dịch Nhật lý trong tù còn phải lột tả được phong cách ngôn ngữ của tập thơtrong yêu cầu thống nhất với phong cách ngôn ngữ con người Hồ Chí Minh. Có làmđược việc ấy thì mới có thể có được một bản dịch sát với tinh thần nguyên tác. Nguyên3nhân của sự khó khăn ấy là do, thế hệ bạn đọc lúc bấy giờ đã khá thân thuộc với Bác,việc dịch sát từng chữ từng câu trong nguyên tác chưa hẳn đã nắm được ngôn từ củaNgười. Và cách giải quyết mà các dịch giả lựa chọn là hợp lí: dịch làm sao để đảm bảorằng trang nhã mà dung dị, giản dị mà uyên súc.Các tác giả cũng đề cập trong bài viết rằng những công thức giáo điều về lýluận đang trói buộc tầm nhìn của chúng ta, làm hạn chế tư tưởng của người dịch.Ngoài ra, sự so le nhiều mặt về chủ thể tác giả và người tiếp nhận trong đó có ngườidịch cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến cách dịch. Tất nhiên trong khuôn khổ tầm nhìncủa thế hệ năm 60 không thể đòi hỏi một sự toàn diện hơn, yêu cầu bổ sung, chỉnh lýcho phù hợp với nhu cầu tiếp nhận của những người sau năm 60 là một yêu cầu cầnthiết.Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù là quyển sách có một đóng góp không nhỏ chođộc giả về một bản dịch thơ tác phẩm trọn vẹn và những công trình nghiên cứu có giátrị “chỉnh đốn” lại những sai sót gặp phải trong rất nhiều năm đã qua, góp phần tạo ramột cái nhìn đầy đủ hơn, chính xác hơn cho giá trị của tác phẩm. Cùng với những bàiviết và bản dịch đầy đủ kèm theo trong quyển sách, bài viết này đã góp một cách nhìntổng quan hơn công việc của các dịch giả khi thực hiện bản dịch năm 1960.- Lê Trí Viễn là người có nhiều nghiên cứu về tập thơ Nhật ký trong tù và ôngcũng đã có nhiều bài viết đi sâu vào tìm hiểu tác phẩm này. Đáng chú ý nhất có lẽ làbài viết Thử đi vào chỗ tinh vi của nguyên tác và bản dịch Nhật ký trong tù [đề cập đếnnhững bài thơ trong bản dịch đầu tiên năm 1960] được in trong cuốn Học tập phongcách ngôn ngữ của chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài viết này chỉ ra những sự chênh lệchgiữa bản dịch so với nguyên tác về mặt vần điệu của bài thơ. Bên cạnh yếu tố ngôn từtrong một bản dịch, thì yếu tố vần điệu cũng không kém phần quan trọng. Có nhiều khiđó lại là yếu tố quyết định tinh thần của một bài thơ.Tác giả bài viết cũng đã đưa ra một ví dụ, đó là bài thơ đầu tiên trong tập. Theotác giả, bản dịch rất sát với nguyên tác: “Chữ Hán đâu, tiếng Việt đó, rất sát. Lờitrong, ý rõ” [9; tr.123]. Thế nhưng, ông cũng cho rằng, bản dịch không lột tả hết đượctinh thần của nguyên tác. Bốn câu thơ, có hai chữ đại, chữ đại trước chồng lên chữ đạisau, chữ sau cao hơn chữ trước. Hai chữ đại ấy làm nên sức nặng của bài thơ, như cócái gì đó khó chịu, bực bội. Thêm vào đó, ở nguyên tác bài thơ có rất nhiều vần trắc,nhất là ở cuối câu thơ, sức mạnh con người dồn vào bên trong câu thơ. Còn ở bản dịch4thì có phần quá thanh thoát, nhẹ nhàng khi dùng vần bằng, làm mất đi tinh thần vốn cócủa bài thơ. Ông cho rằng, đây là một bài thơ mở đầu tập sách, cũng là cảm tưởng đầucủa một giai đoạn trớ trêu, đày đọa. Phải thắng được cái trớ trêu, đày đọa này, cho nêncả sức mạnh con người dồn vào bên trong. Đọc bài thơ ta cảm nhận được độ vangngân mà rất kín.Bên cạnh đó, Lê Trí Viễn cũng chỉ ra những bài thơ dịch chưa tốt, những bàithơ được ông so sánh về mặt câu chữ giữa nguyên tác và bản dịch. Đặc biệt trong sốấy có bài Ngưới bạn tù thổi sáo, tuy dịch chưa sát nhưng cái cảm giác ngóng trông,thương nhớ dằng dặc, mênh mông trong bản dịch thì cũng không thua gì so với nguyêntác [9; tr.127]. Tuy vậy, cái chưa tốt vẫn phải được nói đến, đặc biệt là hai chữ vi vuđược thêm vào, rõ ràng hai chữ ấy làm hỏng đi không khí trong veo của bài thơ, âmthanh này thật không phù hợp. Và trước hết theo Lê Trí Viễn: “Ở đây là người trongngục nghe người trong ngục: người thổi sáo nhớ nhà, người nghe thổi sáo cũng nhớnước, hai người có chung một tâm sự tư hương” [9; tr.127]. Rõ ràng chẳng có mộtnhân vật thứ 3 hiển hiện nào ở tại ngục với 2 người tù, có chăng chỉ là hình ảnh ngườikhuê phụ do Bác tưởng tượng ra mà thôi, vậy thì làm sao có thể dịch là vi vu. Vi vu làmột từ miêu tả, nó thật không phải là ý tưởng mà nguyên tác hướng tới - chỉ nặng vềgợi chứ không tả.Đó là một số ví dụ về bài viết của Lê Trí Viễn. Các nhận xét của tác giả trongbài viết này có độ sâu và bao quát trong phân tích, đánh giá, là những tư liệu quý báucho những ai tìm hiểu tập thơ.- Bài viết Nguyên tác và bản dịch Nhật ký trong tù - những câu chuyện nhỏ củatác giả Hoàng Quảng Uyên cũng đã đề cập đến vấn đề bản dịch ở một số bài thơ.Trong bài viết tác giả có nêu lên một số điểm chú ý về cách giảng dạy một số bài thơtrong tập thơ của chương trình phổ thông. Tác giả đã nêu lên những sự sai lệch về cáchhiểu một số từ ngữ trong bài thơ, mà có lẽ nguyên nhân không phải ở trình độ hiểu biếtcủa các dịch giả mà nằm ở thái độ kiêng dè, né tránh vì những lí do về chính trị màbản thân họ cho là tế nhị, khó nói. Chính điều này đã làm cho bản dịch thơ trở nên sailệch về ý nghĩa, tạo ra sự mập mờ không đáng có, so với một nguyên tác rất rõ ràngmà tinh tế của Hồ Chí Minh. Đơn cử là bài thơ Lai Tân, bản dịch năm 1960 của NamTrân. Bài thơ này, theo tác giả để giảng cho đúng, tuy khó mà dễ.5Trong bản dịch nhà thơ Nam Trân đã dịch chữ thiêu đăng [đốt đèn] thànhchong đèn [điểm đăng]. Cộng thêm chữ biện công sự [làm công việc] được các nhàphân tích hiểu thành làm việc công đã đủ cơ sở xây dựng nên hình ảnh một ông huyệntrưởng mẫn cán, làm việc công tới tận khuya mà lơ là vịêc giám sát cấp dưới. Điều nàyđược tác giả bài viết cho rằng như vậy là không đúng, vì theo ông cung cấp thì đồngchí tuỳ viên văn hoá Trung Quốc cho biết rằng: ở Trung Quốc câu này trước hết cónghĩa là: Huyện trưởng đốt đèn hút thuốc phiện. Thêm vào đó, khi Viện Văn học đãgửi công văn xin ý kiến Bác Hồ về bài thơ, Bác Hồ đã dùng bút chì gạch 3 chữ hútthuốc phiện đi, viết thay vào 2 chữ làm việc. Như tác giả bài viết này nhận định:“Nếungười ta không muốn xấu mặt vì có ông huyện trưởng hút thuốc phiện thì gạch chữ hútthuốc phiện đi, còn trong nguyên tác vẫn là huyện trưởng thiêu đăng biện công sựkhông hề sửa” [22; tr.9]. Khi Nhật ký trong tù được in bằng chữ Hán, độc giả TrungQuốc hiểu theo truyền thống văn hoá và ngôn ngữ Trung Quốc thế nào là quyền củahọ. Hoàng Quảng Uyên còn cho biết rằng Trong lần chuyện trò với nhà văn PhùngNghệ, chủ tịch Hội nhà văn Quảng Tây [Trung Quốc] và hỏi ông về câu thơ: Huyệntrưởng thiêu đăng biện công sự, ông cho biết “đó là tiếng lóng của vùng Quảng Tâyhay dùng để chỉ việc hút thuốc phiện” [22; tr.10].Vậy thì cớ gì người Việt Nam không được giảng theo ý ấy ? Giảng như thế thìmới thấy được cái tầm của bài thơ, thấy lô gích của bài thơ mà không bị gợn là điềuquan trọng. Qua đó càng giúp ta hiểu thêm thơ Bác, hiểu thêm về nghệ thuật của bàithơ: mỉa mai, trào lộng, châm biếm một cách kín đáo, sâu cay.Công trình nghiên cứu nào cũng có những điểm được và chưa được, tùy theomức độ, trong việc tìm hiểu, phân tích vấn đề. Và ở đây, đề tài của chúng tôi sẽ cốgắng tập hợp, lí giải những vấn đề mà trong những công trình trên đã đưa ra. Bên cạnhđó, với khả năng còn non kém, chúng tôi cũng cố gắng có những lí giải đứng trênnhiều góc độ: tác giả, tác phẩm và người tiếp nhận để làm cho vấn đề được đề cập trởnên sáng tỏ hơn.3. Mục đích nghiên cứuĐây là một đề tài không mới, đã có nhiều tác giả đi sâu vào nghiên cứu vớinhững địa hạt khác nhau. Và, sức của chúng tôi thì chưa thể làm nhiều điều lớn ngoàikhả năng, phần đóng góp của đề tài là rất nhỏ so với các tác giả ấy. Tuy nhiên, chúngtôi cũng mong đem một chút sức lực nhỏ bé của mình để tìm tòi, đi sâu và sát hơn với6bản dịch của một số bài thơ trong tập Nhật ký trong tù và nguyên tác, nhằm phát hiệnra những vấn đề còn tồn đọng nhiều năm nay để đi đến hiểu đúng tinh thần cũng như ýniệm của Bác gửi gấm trong những bài thơ ấy.Bên cạnh đó, chúng tôi cũng muốn đề tài của mình tôn vinh, trân trọng nhữngđóng góp to lớn của các tác giả, dịch giả trong việc đưa tập Nhật ký trong tù đến gầnvới độc giả. Bởi những đóng góp của họ đã mang lại nhiều hiểu biết sâu rộng, đầy đủvề tập thơ. Tuy vậy, do nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, bất cứ một tác phẩmdịch nào cũng có những phần, những điểm chưa sát, chưa đúng với nguyên tác cho nênviệc đưa ra so sánh trong đề tài cũng chỉ nhằm đưa đến những cách hiểu hợp lí nhấttrong một điều kiện nhất định. Và mục đích cuối cùng vẫn là nhằm hướng công chúngyêu thơ, yêu con người Bác có những cảm nhận thật đúng, thật sát với tư tưởng củaBác trong những bài thơ ấy.4. Phạm vi nghiên cứuNhật ký trong tù là một tác phẩm lớn, có đến 134 bài thơ [bao gồm cả bài thơkhông có tựa, được xem là bài thơ đề từ cho tập thơ]. Việc tìm hiểu tất cả những bàithơ hay tất cả những điểm đáng chú ý ở rất nhiều bài thơ là một điều có thể nói là quásức. Cho nên, ở đây, trong phạm vi của đề tài chúng tôi sẽ tìm hiểu những điểm nổibật, những điều được nhiều người bàn luận, và những vấn đề cần được làm rõ trongmột số bài thơ, cụ thể là 11 bài thơ.Bên cạnh đó, trong quá trình tìm hiểu chúng tôi sẽ có sự liên hệ trong hệ thốngtoàn tập thơ, kèm theo một số tác phẩm có liên quan của Hồ Chí Minh và một số tácphẩm của các tác giả khác.5. Phương pháp nghiên cứuTrong thời đại mà công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ, đề tài củachúng tôi đã được hỗ trợ một cách đắc lực. Chúng tôi chủ yếu sử dụng phương tiệnđiện toán để đánh máy chữ Hán một cách dễ dàng. Bên cạnh đó, việc tham khảo vănbản chữ Hán của tác phẩm trên các diễn đàn về Hán Nôm như Viện nghiên cứu HánNôm là sự hỗ trợ rất lớn cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.Việc tham khảo các công trình, bài viết xoay quanh vấn đề bản dịch của tácphẩm đã giúp cho chúng tôi có thêm nhiều cơ sở để so sánh và khẳng định lại thựcchất vấn đề. Phương pháp được sử dụng chủ yếu là so sánh chữ Hán của nguyên tác7với bản dịch thơ để rút ra được một số lỗi trong quá trình dịch, cuối cùng đi đến khẳngđịnh những vấn đề then chốt về nội dung, cũng như về ý nghĩa văn bản.Bên cạnh đó, phương pháp so sánh, đối chiếu với các văn bản dịch của một sốtác giả cũng được thực hiện. Một bài thơ trong tập thơ sẽ có thể được nhiều dịch giảthực hiện, vì vậy việc so sánh đối chiếu sẽ chỉ được thực hiện với những bản dịch cóvấn đề.8PHẦN NỘI DUNG CHÍNHChương 1: VÀI NÉT VỀ CHỮ HÁN, HỒ CHÍ MINH VÀNHẬT KÝ TRONG TÙ1.1. Về chữ Hán1.1.1. Nguồn gốc chữ HánChữ Hán bắt nguồn từ Trung Quốc từ thời xa xưa dựa trên việc quan sát đồ vậtxung quanh và vẽ thành dạng chữ tượng hình, chữ mang ý nghĩa. Chữ Hán đã trải quanhiều thời kỳ phát triển. Cho tới hiện nay, chữ Hán cổ nhất được cho là loại chữ GiápCốt [Giáp Cốt Tự - 甲骨字], chữ viết xuất hiện vào đời nhà Ân - 殷 vào khoảng thời1600-1020 trước Công Nguyên. Chữ Giáp Cốt là chữ Hán cổ viết trên các mảnhxương thú vật và có hình dạng rất gần với những vật thật quan sát được. Chữ Giáp Cốttiếp tục được phát triển qua các thời: Nhà Chu - 周朝 [1021-256 TCN] có chữ Kim[Kim Văn - 金文], là chữ viết trên các chuông bằng đồng và kim loại. Chiến Quốc 戰國 [403-221 TCN] và thời nhà Tần - 泰朝 [221-206 TCN] có chữ Triện [Đại Triệnvà Tiểu Triện] và có chữ Lệ [Lệ Thư - 隸書]. Nhà Hán - 漢朝 [Tiền Hán 206 TCN-8CN, Hậu Hán 25-220] có chữ Khải [Khải Thư - 楷書].Chữ Khải còn có thể được chia thành chữ Hành [Hành Thư - 行書] và chữThảo [Thảo Thư - 草書]. Chữ Khải là loại chữ được dùng bút lông chấm mực tàu viếttrên giấy và rất gần với hình dáng chữ Hán ngày nay vẫn còn được dùng ở Nhật, ĐàiLoan hay Hồng Kông. Chữ Thảo là loại chữ được viết bằng bút lông có lược bớt hoặcghép một số nét lại. Sự phát triển chữ Hán trải qua các thời kỳ có thể được minh họabằng một số chữ sau:Chữ Giáp Cốt → Chữ Kim → Chữ Triện [Tiểu Triện] → Chữ Lệ → Chữ Khải →Chữ Thư [chữ Thảo → chữ Hành].Ngày nay chữ Hán ở Trung Quốc đã có xu thế được giản lược đơn giản hơn vàở Trung Quốc còn sử dụng hai loại chữ: chữ Chính thể [正體字] và chữ Giản thể[簡體字].Khi đề cập đến vấn đề nguồn gốc chữ Hán [thời điểm ra đời của chữ Hán] córất nhiều nguồn cứ liệu để tham khảo và mỗi người sẽ có một cách nhìn từ nhiều gócđộ khác nhau. Trong bài viết này chúng tôi xin được đơn cử ra hai cách nhìn nhận về9nguồn gốc chữ Hán: nguồn gốc chữ Hán nhìn từ góc độ thư pháp và nguồn gốc chữHán nhìn từ góc độ tổng hợp về văn tự học. Hai quan điểm này dựa theo giáo trìnhHán Nôm của Huỳnh Văn Minh và bài giảng Hán Nôm 1 của Tạ Đức Tú được dẫntheo luận văn Khảo sát văn bản Tây qua truyện trong Lĩnh nam chích quái của TrầnThế Pháp của Lê Văn Khánh [8, tr.5].1.1.2. Lược sử chữ Hán1.1.2.1. Lược sử chữ Hán nhìn từ góc độ Thư phápTừ góc độ thư pháp [書法] sẽ cho ta thấy diễn biến về hình thể của nó với cácdạng: Giáp cốt văn → Kim văn → Tiểu triện → Lệ thư → Khải thư → Thảo thư →Hành thư.Chữ Hán được nhìn nhận qua cách viết ở từng giai đoạn, tức là diễn biến về sựthay đổi hình thể của chữ Hán. Ở đây, cũng có nhiều quan điểm khác nhau, xin dẫn ranhững quan điểm lớn sau:* Theo Leon WiegerTheo Leon Wieger trong cuốn Caracteres Chinois [Chữ Hán: 漢字] thì chữ Hánbắt đầu từ đời Chu: người ta viết chữ trên thẻ tre, gỗ với bút là ống tre có gắn bìnhmực ở trên, có một tim giữa thân bút để điều hoà dòng mực. Bút ấy khi viết phải đặtthẳng góc với thẻ tre, gỗ và có thể di chuyển đầu bút được mọi chiều mà dòng mựcvẫn tròn, đều do tim bút. Chữ ấy chính là chữ Triện [Triện thư: 篆書] với nét bút trònđều. Vào đời Tần [nhà Tần: 秦朝], trong khuôn khổ thống nhất chữ viết ở Trung Hoacủa Tần Thuỷ Hoàng [秦始皇], Trình Diểu chế ra cây bút gỗ, đầu buột vải thô và viếttrên lụa. Khí cụ này tạo ra các nét dày cho chữ, các nét tròn thành vuông [ví dụ:→日 chữ nhật], nét cong thành thẳng góc và người ta đã viết nó được nhanh hơn.Chữ Lệ [Lệ Thư: 隸書] ra đời.Cũng có người cho rằng, cũng vào đời Tần, trong lúc đánh Hung Nô [匈奴],Đại tướng Mông Điềm [蒙恬] sáng tạo ra bút lông, mực và giấy. Viết trên giấy thìmực thấm nhanh, không viết được những nét ngược như chữ Triện, nhờ vậy nhiều nétcồng kềnh của chữ Triện và chữ Lệ biến mất. Chữ Khải [Khải thư: 楷書] ra đời. Bútlông viết được nhanh, người ta bèn gom một số nét phức tạp lại cho đơn giản, vì thếchữ Thảo [Thảo thư: 草書] ra đời.10Nhìn chung, cách cắt nghĩa sự biến thiên chữ Hán của Wieger chủ yếu dựa trênnét viết của chữ ấy ứng với khí cụ tạo ra nó và đặt nó vào một giai đoạn lịch sử. Dovậy mà tính giải thích văn tự của nó cao hơn hẳn tính khoa học cần thiết.* Theo Hứa ThậnTheo Hứa Thận [許慎] trong Thuyết văn giải tự [說文解字] cho rằng chữ Hánra đời bởi Sử quan Thương Hiệt [倉頡] đời Hoàng Đế [黃帝]: “Nhìn dấu chân chimmà đặt ra Thư Khế”. Đến đời Chu Tuyên Vương [周宣王], Thái Sử Trụ [太使紂] viết15 thiên Đại triện [大篆], đem so với Thư Khế [書契] thì đã khác nhiều. Đến thờiChiến Quốc [國], chư hầu dùng sức trị nhau, bảy nước tranh hùng vương bá [Thấthùng: 七雄]. Từ đó ngôn ngữ khác thanh, văn tự khác hình. Chẳng hạn, ngôn ngữ Sởphương Nam trong Li Tao [離騷] của Khuất Nguyên [屈原] khác xa ngôn ngữ Tề[齊], Yên [燕], Triệu [趙],… phương Bắc còn lưu lại trong tản văn. Sau khi Tần ThuỷHoàng Đế [秦始皇帝] thống nhất Trung Nguyên, Thừa tướng Lý Tư [李斯] tâu xinthống nhất văn tự để quản lí nhà nước một cách thống nhất. Quan Thái sử Hồ MẫnSinh viết Bác học thiên lấy chữ từ Đại Triện, có thay đổi chút ít gọi là Tiểu Triện. KhiTần Thuỷ Hoàng thực hiện chính sách “Phần thư khanh nho” [焚書坑儒] [đốt sách vàchôn sống học trò] cùng với công việc xây Vạn Lí Trường Thành [萬里長城], côngviệc bề bộn nên người ta tạo ra chữ Lệ cho giản tiện. Chữ Triện mất hẳn, nhà Hán lênvà ra đời chữ Thảo [Thảo Thư: 草書].Cũng theo Hứa Thận, trong thời gian “Chữ viết dị hình” là do nét bút thay đổicủa các vùng phù hợp tính cách bản xứ. Vì vậy, sự khác hình của văn tự Hán giữa cácthờin kì thực ra là sự thay đổi nét bút cho giản tiện. Nên các chữ Triện, Lệ, Chân,Hành, Thảo [篆, 隸, 真, 行, 草] chỉ là một.* Theo khảo cổ họcTheo khảo cổ học, tức theo những gì còn lại của chữ Hán trong khảo cổ mà suyđoán thì chữ Hán bao gồm: Giáp cốt văn [甲骨文 - Giai đoạn vẽ hình sơ đẳng], Kimvăn [金文] hay còn gọi là chữ Chung Đỉnh [Chung đỉnh văn - 鐘鼎文], giai đoạn vạchđường thẳng], Tiểu Triện, Lệ Thư, Khải Thư, Thảo Thư, Hành Thư và Giản Thể tự [简体字: chữ giản thể, Gọi chung là giai đoạn viết chữ thành nét].11Khảo cổ học tìm thấy chữ xưa nhất của Trung Quốc là chữ Giáp Cốt ở thời ÂnThương - 殷商 chứ không phải Thư Khế - 書契 như trong Thuyết văn giải tự[說文解字] nói. Theo khảo cổ học cũng như một số sách cổ xưa có luận bàn đến văntự thì rõ ràng từ đời Tam Hoàng Ngũ Đế [三皇五帝] chưa có chữ viết. Mà chưa cóchữ viết thì làm gì có Sử quan để chép sử ? Những người đồng ý với Thuyết văn giảitự giải thích, sở dĩ người ta cho rằng Sử quan Thương Hiệt [倉頡] tạo ra chữ viết là vìhọ muốn lí giải sự ra đời của chữ viết ứng với tên một nhân vật trong truyền thuyết.Điều này cũng tương ứng với việc núi sông, muôn vật, trời đất đều do bàn tay thầnthánh của những nhân vật huyền thoại. Cho nên, theo khảo cổ học, chữ viết đầu tiêncủa Trung Hoa là Giáp Cốt văn. Ta có thể sắp xếp lịch sử chữ Hán theo trình tự nhưsau: Giáp Cốt văn: chữ viết trên những mảnh mai rùa [giáp] và xương thú [cốt] tìmthấy năm 1899 ở vùng đất Ân Khư - 殷墟 - kinh đô cũ của nhà Ân. Nó đượcdùng vào việc ghi chép, bói toán là chính nên còn gọi là Bốc từ [lời bói]. ChữGiáp cốt thu thập được trên 4000 nhưng chỉ đọc được hơn 1000 chữ. Dạng chữnày khá hoàn chỉnh nhưng có khá nhiều nét và khó nhận diện bộ thủ, do bộ thủgiai đoạn này chưa hình thành. Chữ có hình dạng gần giống với vật thật. Kim văn: chữ được khắc trên những cái chuông [Chung] và vạc [Đỉnh] nên gọilà chữ Chung đỉnh. Cả chuông và vạc đều thuộc kim khí đồng thau, được đúcnên từ đồng thau nên còn gọi là Kim văn. Những chữ này được xác định là cótừ thời nhà Tây Chu - 西周 [1027-771 TCN]. Về mặt hình thể đã tương đốihoàn chỉnh do công nghệ đúc đồng thời này đã khá hoàn chỉnh. Chữ Kim đượctìm thấy hơn 6000 chữ và phần lớn là đọc được. Đời Chu - 周朝 có văn bảnKim văn dài hơn 500 chữ [ghi trong sách Thượng Thư - 上書]. Điều đó chothấy chữ viết đã được quan tâm và khá thịnh hành vào đời Chu. Đại triện: Cuối đời Chu, người ta đã biết dùng đầu tre nhọn chấm vào sơn đểviết nên viết được những chữ thẳng và xiên khá cân đối, gọi là chữ Đại triện.Loại chữ này được sử dụng rộng rãi sang thời Xuân Thu - 春秋 [770-476] vàChiến Quốc - 戰國 [475 - 221 TCN], nhằm vào giai đoạn của thời Đông Chu 東周. Chữ Đại triện ở giai đoạn này là văn tự khác hình vì chúng có nhiều biếnthể chữ ở các nước chư hầu.12 Tiểu triện: Đến đời Tần [Tần Thuỷ Hoàng thống nhất Trung Nguyên năm 221207 TCN], do tạo cách viết thống nhất từ lối viết Đại triện trước đó, có thay đổichút ít nên gọi là Tiểu triện hay Tần triện. Chữ Tiểu triện là chuẩn mực chữ viếttrên toàn quốc từ đời Tần. Và công cuộc thống nhất văn tự này đã có tác dụnglớn cho việc quy phạm hoá hoàn toàn văn tự Trung Quốc vào đời Hán - 漢朝[206 TCN - 220]. Lệ thư: dạng chữ bắt đầu vào cuối đời Tần, thông dụng vào đời Hán nên còn cótên là Hán Lệ - 漢隸. Giai đoạn đầu chữ Lệ khá gần với Tiểu triện, sau các nétmác, lượn sóng tăng dần và trở thành đặc trưng của chữ Lệ; chữ Lệ đã vuông vàcó những nét cố định. Chữ Lệ thông dụng từ đời Hán đến thời Tam Quốc 三國 [220-265], chữ Lệ là cơ sở của chữ Khải giai đoạn sau. Khải thư: dạng chữ bắt đầu xuất hiện vào gần cuối đời Hán và lưu hành mãicho đến ngày nay. Vì chữ Khải được viết trong ô vuông quy ước ngay ngắn,cân đối, nét viết thẳng đẹp - ngang bằng sổ thẳng - đáng coi là chuẩn mực nêncòn có tên là Chính thư hay chân phương, rõ ràng cũng gọi là Chân thư. ChữChân sau trở thành tên gọi của chữ Khải, và người ta cũng dựa vào chữ Chân đểđếm nét của chữ. Do chữ Chân này xuất hiện vào đời Hán [thời đại thống nhấtTrung Nguyên với cục diện quốc gia hoàn chỉnh và lâu dài] khi mà dân tộcsống trên đất nước Trung Hoa xưng là Hán tộc và chữ viết dùng được gọi chunglà chữ Hán [漢字: Hán tự]. Khi chữ Hán truyền sang Việt Nam [bắt đầu từ nhàHán] vẫn được gọi là chữ Hán. Thảo thư: Thảo thư thực chất cũng là chữ Khải, và sớm hơn cả chữ Khải, nó làbiến thể chữ Lệ theo lối viết nhanh nên còn gọi là Thảo lệ. Khi chữ Khải hoànthiện, nó thoát li hẳn chữ Lệ và viết chữ Khải theo lối viết nhanh [Giản lượcmột số nét liền nhau, rườm rà, bộ thủ vay mượn lẫn nhau, cốt cho ngắn gọn đểviết nhanh]. Vào đời Đường - 唐朝 còn xuất hiện một lối viết chữ rất khó đọc,xuất phát từ chữ Thảo - 草書, gọi là Cuồng thảo - 狂草, [chữ thảo viết điêncuồng] của Hoài Tố - 懷素 [khoảng 730-780]. Hành thư: Là dạng của chữ Khải, ở giữa Chân thư và Thảo thư, phổ biến vàođời Tam Quốc [220-265]. Lối Hành - 行 viết nhanh hơn Chân - 真, và chậm13hơn Thảo - 草, viết nhanh mà dễ đọc nên quần chúng rất ưa thích. Lối viết chữnày đã tạo nên danh viết chữ đẹp cho nhiều người trong làng nho học. Chữ giản thể: Được các nhà nghiên cứu Trung Quốc đưa ra năm 1956 và là chữthông dụng hiện nay. Chữ Giản thể thật ra được sử dụng từ khá sớm để viếtnhanh và thay đổi hình thể chữ Hán, như chữ Tiểu triện - 小篆 do giản thể chữĐại triện - 大篆. Chữ Giản thể Trung Hoa hiện nay là 2.274 chữ do đơn giảnchữ Khải theo lối Thảo thư Khải hoá - 草書楷化. Và như vậy, hệ thống chữviết Trung Hoa ngày nay tồn tại cả chữ Giản thể và chữ chưa giản thể. ChữGiản thể là chữ bớt nét từ chữ Khải, chữ giữ nguyên chính là chữ Khải chânphương, gọi nó là phồn thể - 繁体.Có bao nhiêu chữ Hán tồn tại cho đến ngày nay ? Theo Thuyết văn giải tự củaHứa Thận là 9.353 chữ [thế kỉ I]. Theo Khang Hy tự điển là 47.040 chữ [năm 1716].Còn theo Từ Hải từ điển là 85.000 chữ [năm 1994].1.1.2.2. Lược sử chữ Hán theo góc độ văn tự họcNếu nhìn nhận chữ Hán theo góc độ thuần túy văn tự học hay gốc độ cấu tạochữ chúng ta thấy rằng chữ Hán nổi bật qua Lục thư - 6 cách cấu tạo nên chữ Hán.Nếu xem xét lịch sử chữ Hán từ góc độ thư pháp, tức chú trọng vào cách viết,đường nét và hình thức của nó thì chưa đề cập đến phương tiện ra đời của chữ Hánmột cách khoa học. Ngữ văn học Trung Hoa truyền thống đã xem xét lịch sử chữ Hántheo cấu tạo chữ, tức cấu tạo chữ gồm sáu cách, gọi là Lục thư. Thực ra, Lục thư cũngchính là tính chất của chữ Hán, bởi nó giải thích [Thuyết văn giải tự] chữ Hán trên cơsở hình họa và ý âm. Cụ thể, ngay thế kỉ đầu của Công Nguyên, Hứa Thận đã trình bàyLục thư trong Thuyết văn giải tự gồm: Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Giả tá, Chuyển chúvà Hình thanh. Thuyết văn giải tự được biên soạn trong 22 năm [99-221] gồm 15 tập,chia thành thượng - hạ và giải thích được 9.353 chữ. Từ đó đã có khá nhiều nhà nghiêncứu về Lục thư - nghiên cứu chữ Hán. Khảo qua lịch sử nghiên cứu đó, chúng tôi thấycó khá nhiều cách sắp xếp và tên gọi của chúng không thống nhất. Và nhận thấy rằngnếu xét Lục thư như là lịch sử hình thành chữ Hán thì cách sắp xếp của Ban Cố [Tácgiả sách Hán thư] là hợp lí nhất, bao gồm: Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanh,Chuyển chú, Giả tá [tên gọi các loại chữ trùng với Hứa Thận].Lục thư theo Thuyết văn giải tự cắt nghĩa là sáu phép cấu tạo chữ Hán. Lục thưthực chất là cách phân loại chữ Hán để dạy chữ Hán. Vì vậy Lục thư vừa có tác dụng14giải thích kết cấu chữ Hán, vừa có tầm khái quát thực tế trong việc tạo ra và sử dụngchữ Hán. Lục thư là cách cấu tạo ra chữ Hán [tính chất], đồng thời cũng thể hiện quátrình tiến hoá của chữ Hán [lịch sử]. Trong đó, Tượng hình, Chỉ sự, Hội ý, Hình thanhlà phép tạo chữ, còn Chuyển chú và Giả tá là phép dùng chữ. Tượng hình - 象形: Là những chữ mô tả lại hình tướng cụ thể của sự vật. Cáchtạo chữ này hình thành sớm nhất và là “chất liệu” để tạo nên các loại chữ kháctheo các phép khác nhau. Và theo Hứa Thận thì: “Tượng hình giả, họa thành kỳvật, tùy thể cật khuất, nhật nguyệt thị dã” nghĩa là, “Chữ tượng hình là chữ vẽthành các vật căn cứ theo hình thể của nó, như chữ nhật, chữ nguyệt”.Ví dụ: Muốn chỉ mặt trời, Trung Hoa vẽtrăng, Trung Hoa vẽsau thành chữ 日; Muốn chỉ mặt[người Ai Cập vẽ khác một tí], sau thành chữ 月.Trong kho văn tự Hán, chữ Tượng hình không nhiều mà có chủ yếu ở thư tịchcổ, nhất là Kim văn. Chỉ sự - 指事: Nhìn vào nét bút biết được sự việc được chỉ, hay tính chất sự vật.Chữ Chỉ sự bao hàm những kí tự trừu tượng để tạo nên những nét nghĩa trừutượng - nó bổ khuyết cho điều mà chữ Tượng hình không làm được.Chỉ sự còn gọi là [văn tự chỉ sự - 指事文字] hay chữ Biểu Ý [văn tự biểu ý 表意文字]. Cùng với sự phát triển của con người, chữ Hán đã được phát triểnlên một bước cao hơn để đáp ứng đủ nhu cầu diễn tả những sự việc đó là chữChỉ sự.Ví dụ, để tạo nên chữ Bản - 本, diễn đạt nghĩa gốc rễ của cây, thì người ta dùngchữ Mộc - 木 và thêm gạch ngang diễn tả ý nghĩa ở đây là gốc rễ và chữ Bản 本 được hình thành. Chữ Thượng - 上, chữ Hạ - 下 và chữ Thiên - 天 cũng lànhững chữ Chỉ sự được hình thành theo cách tương tự. Chỉ sự có nghĩa là chỉđịnh một sự vật và biểu diễn bằng chữ. Chữ Chỉ sự khá linh hoạt, nó đã bổkhuyết được một phần những bế tắc của chữ Tượng hình - 象形. Nhưng rồi nócũng bế tắc. Thực tế đòi hỏi phải có nhiều chữ hơn để ghi âm tiếng Hán, vànhững phép tạo chữ khác đã lần lượt ra đời. Ngày nay, trong kho văn tự Hán,chữ Chỉ sự chiếm số lượng ít nhất. Hội ý - 會意: Có nghĩa là một chữ gồm những bộ phận khác hợp lại mà thành.Đó là sự “hội” nghĩa từ những chữ cấu tạo nên nó. Loại chữ này không thể hiện15được bằng phương pháp Tượng hình. Chẳng hạn, làm thế nào để hỏi tên [danh]của người ? Người ta cho rằng đi đêm không thể nhìn thấy mặt nhau, muốn biếttên phải hỏi bằng miệng, tịch: đêm, đi đêm không thấy nhau mới hỏi tên nhaudẫn đến chứ 名 - Danh ra đời.Chữ Hội Ý [Hội Ý Văn Tự - 會意文字]: Để tăng thêm chữ Hán, cho đến nayngười ta có nhiều phương pháp tạo nhiều chữ mới có ý nghĩa mới. Ví dụ, chữLâm - 林 [nơi có nhiều cây] có hai chữ Mộc - 木 xếp hàng đứng cạnh nhauđược làm bằng cách ghép hai chữ Mộc với nhau [rừng thì có nhiều cây]. ChữSâm - 森 [rừng rậm nơi có rất nhiều cây] được tạo thành bằng cách ghép ba chữMộc. Còn chữ Minh - 鳴 [kêu, hót] được hình thành bằng cách ghép chữ Điểu 鳥 [con chim] bên cạnh chữ Khẩu - 口 [miệng]; chữ Thủ - 取 [cầm, nắm] đượchình thành bằng cách chữ Nhĩ - 耳 [tai] của động vật với tay [chữ Thủ - 手, chữHựu - 又]. Những chữ được tạo thành theo phương pháp ghép như trên gọi làchữ Hội Ý. Hội Ý có nghĩa là ghép các ý nghĩa với nhau tạo thành ý nghĩachung. Cũng theo Hứa Thận, “Hội ý giả, tỉ loại hợp nghi, dĩ kiến chỉ vi, võ tínthị dã”có nghĩa là Hội ý là chữ “hợp ý của các phần để tạo được nghĩa, thấynhư chữ võ [武], chữ tín [信]”. Chữ Hội ý gồm: Những chữ giống nhau đượcghép lại để biểu thị sự gia tăng chất và lượng: ví dụ 炎 - viêm: nóng, phươngcách này gọi là Chính lệ.Chữ Hội ý: Ghép những chữ khác nhau nhằm biểu thị một nghĩa mới, hoặc hàmý giải thích tự như: 劣 - liệt: yếu kém [少 - thiểu: ít và 力 - lực: sức; gộp chungnghĩa là sức rất yếu - liệt]; hoặc biểu thị quan hệ hỗn hợp [女 - nữ: nữ giới hợpvới 子 - tử: con - thành 好 - hảo: tốt].Chữ Hội ý: Kết hợp tự bằng cách bớt nét của một trong những thành tố gọi làBiến lệ, ví dụ: 孝 - hiếu: lòng hiếu [老 - lão: già và 子 - tử: con]. Chữ tử thayvào phần dưới của chữ lão. Hình thanh - 形聲: Là biện pháp phổ biến nhất để tạo chữ. Tượng hình là chữkết hợp được chức năng biểu ý và biểu âm. Nó gồm hai bộ phận: Bộ phận chỉ ýlà Hình, Bộ phận âm đọc là Thanh.16Chữ Hình thanh [形聲文字]: Cùng với những chữ Tượng hình, Chỉ sự và Hộiý, có nhiều phương pháp tạo nên chữ Hán, nhưng có thể nói là đa số các chữHán được hình thành bằng phương pháp hình thanh, gọi là chữ Hình thanh[形聲文字]. Chữ Hình thanh chiếm tới 80% toàn bộ chữ Hán. Chữ Hình thanhlà những chữ bao gồm hai phần: phần hình [形] là phần biễu diễn ý nghĩa chínhmà đã được dùng từ lâu đời, và phần thanh [声] là phần biểu diễn cách phát âmchính xác của từ đó. Ví dụ, chữ Khẩu -口 có hình biểu diễn việc ăn hoặc nói, vàchữ Vị - 未 có các phát âm giống chữ vị [trong khẩu vị] khi ghép hai chữ vớinhau tạo nên chữ Vị - 味 của khẩu vị. Bộ Thủy -氵 biểu diễn nghĩa dòng sônghoặc dòng nước chảy, khi ghép cùng với chữ Thanh - 青 [màu xanh] tạo thànhchữ Thanh - 清 có nghĩa là trong suốt hoặc trong xanh, sạch. Hình là những chữđơn và thường có gốc là chữ Tượng hình. Thanh có thể là chữ đơn hoặc là chữphức có gốc là Hội ý.Về phương thức cấu tạo: Chữ Hình thanh cấu tạo bằng cách dùng một chữ Hánlàm Thanh [gợi âm đọc] và dung một bộ thủ hoặc chữ nêu lên ý nghĩa của chữ.Về cách thể hiện bộ phận chỉ ý [Hình] và âm [Thanh]: Vị trí của hai bộ phậnHình và Thanh trong chữ Hình thanh là khá ổn định. Theo Hứa Thận thì chữHình thanh là chữ “lấy sự làm tên, lấy bộ phận có âm đọc gần giống để so sánhđối chiếu mà tạo thành, như giang - 江, chữ hà - 河”. Có thể khái quát dấu hiệuchỉ nghĩa và chỉ thanh trong chữ hình thanh có vị trí không nhất định thành 6trường hợp:Trên hình dưới thanh, như: 萊 - lai và 巖 - nham;Dưới hình trên thanh, như 舅 - cữu và 惑 - hoặc;Trái hình phải thanh, như 蛛 - chu và 伴 - bạn;Phải hình trái thanh, như 削 - tước và 鵡 - vũ;Ngoài hình trong thanh, như 疥 - giới và 裏 - lý;Trong hình ngoài thanh 悶 - muộn và 辮 - biện.Ngày nay, người ta cũng thường dùng cách ghép hình thanh để đặt ra nhữngchữ mới, ví dụ: 搞 cảo: làm 極 cực: rất... và cũng có thể gọi cho những từnhóm ngôn ngữ chắp dính: 金 - kim ghép 由 - do để chỉ uranium.17 Giả tá - 假借: Giả tá là loại chữ vay mượn một loại chữ có sẵn để ghi lại mộtchữ khác trên cơ sở đồng âm hoặc cận âm. Tuy chúng có nghĩa khác nhaunhưng âm đọc gần giống nhaunên người ta chọn một chữ có âm đọc giống hoặcgần giống với nó trong những chữ hiện có để đại diện cho nó. Chữ do vaymượn mà có như vậy gọi là Giả tá.Giả Tá [cũng gọi là văn tự giả tá: 假借文字]: Những chữ được hình thành theophương pháp bằng cách mượn chữ có cùng cách phát âm được gọi là chữ Giả tá[假借文字]. Cách cấu tạo này, giả tá có thể được dùng ghi lại danh từ, động từ,tính từ, phó từ, đại từ, liên từ, số từ,… trong phân từ loại nội hàm ngữ pháp.Giả tá được phân ra thành hai loại: Thuần giả tá, ví dụ: 萬 - vạn nghĩa gốc làcon bò cạp là [danh từ, chữ Tượng hình] nhưng biểu thị sang số từ [số lượng]:mười nghìn, hàng vạn. Loại chữ Giả tá với kí hiệu phân biệt [phân biệt tự]: vídụ: 何 - hà bộ phận chỉ âm: để hỏi: sao, chăng ?, mượn thêm 艹 - thảo: bộ phậnchỉ nghĩa chung đặc tính hoa cỏ, để thành 荷 - hà [hoa sen]. Bộ phận chỉ nghĩađóng vai trò chính. Loại chữ phân biệt này là tiền thân của của chữ Hình thanh.Hứa Thận cũng có nói về giả tá “vốn không có chữ đó, mượn thanh và gửi sự,như chữ lệnh - 令, chữ trường - 長”.Chuyển chú - 轉注: Đây Là một hình thức sinh sôi nảy nở của chữ viết, cónghĩa là từ một chữ nào đó do thay đổi về ý nghĩa dẫn đến thay đổi về hình thể,từ đó sinh ra chữ mới. Nói cách khác, khi thấy hai chữ khác nhau về hình thể vàâm đọc nhưng không khác nhau về ý nghĩa thì nói hai chữ ấy chuyển chú chonhau. Có thể phân chuyển chú ra hai loại: Chữ cùng bộ, cùng loại: uyển: cáichén, chuyển chú cho 盂 - vu: cái chén. Hai chữ này đều thuộc bộ mãnh: chỉchén bát [chung] [4; tr.13-17].1.1.2.3. Những đặc điểm cơ bản của chữ HánVăn tự Hán là một hệ thống chữ Viết có lịch sử khá lâu đời, thoát thai từ hìnhvẽ. Về cơ bản nó có những đặc điểm sau: Về mặt hình thể: Sau khi vượt qua giai đoạn hình vẽ, chữ Hán được cấu tạo bởi8 nét cơ bản [có nhiều biến thể] được sắp xếp theo những qui tắc nhất định. Mỗichữ nằm gọn trong một ô vuông. Vì vậy chữ Hán còn được gọi là chữ ô vuông.18 Về mặt kết cấu: Có thể chia chữ Hán thành hai loại lớn: Loại có kết cấu đơngiản [gọi là Văn]. Loại có kết cấu phức tạp [gọi là Tự].Những chữ phức tạp thường là kết do sự kết hợp của hai chữ giản đơn để biểuthị một từ có ý nghĩa nội hàm phức tạp. Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ Hán và văn tự Hán: Trong chữ Hán, chúng tathấy mỗi chữ [mỗi đơn vị văn tự - xét theo hình thể kết cấu] tương ứng với mộtâm tiết. Do đó mỗi chữ có thể là một từ hoặc có thể là một bộ phận của từ. Về sự kết hợp chặt chẽ giữa ba mặt hình thể - âm đọc - ý nghĩa, trong đó nổi bậtnhất là vai trò biểu đạt ý nghĩa qua hình thể kết cấu. Do tính chất biểu ý nằmngay trong hình thể kết cấu của chữ cho nên chữ Hán có khả năng giúp ngườiđọc phân biệt được những ý nghĩa khác nhau của nhóm từ đồng âm mà tiếngViệt ngày nay không có sự phân biệt rõ ràng lắm khi những từ đó xuất hiện độclập. Cũng do tính chất biểu ý của chữ Hán cho nên ta thấy ngày nay có nhiềuchữ Hán là chứng tích về các mặt sinh hoạt xã hội, phong tục tập quán củangười Trung Hoa cổ xưa. Nhưng khi phụ quyền trọng nam khinh nữ xuất hiệnthì đại bộ phận chữ ghi những từ có nghĩa xấu, khiếm nhã đều có thành tố nữ.Là một hệ thống chữ viết cơ bản thuộc loại biểu ý, nhưng để thích ứng với sựphát triển ngày càng cao của ngôn ngữ, chữ Hán được cải tiến phát triển theohướng biểu âm. Biện pháp chủ yếu mà văn tự Hán dựa vào để bám sát sự pháttriển của ngôn ngữ là tạo thêm từ mới. Các từ mới này ngày càng gia tăng đểđáp ứng nhu cầu ghi lại những hình ảnh, hoạt động nảy sinh trong xã hội. Từcon số trên dưới 2000 chữ thời Ân Thương [cách đây trên 3000 năm] đến cuốithời Tần Hán, số chữ đã tăng lên tới gần 10.000 và cho tới thời nhà Thanh thì sốchữ đã là 60.000 chữ. Để nhận thức và sử dụng hết các từ Hán trên quả là mộtviệc xa vời.1.1.3 Thực trạng chữ Hán1.1.3.1. Chữ Hán ở Trung Quốc và các nước* Chữ Hán ở Trung QuốcNói đến chữ Hán tức là nói đến mặt ngôn ngữ và văn tự, đồng thời cũng đề cậpđến mặt nội dung - ngữ nghĩa - văn hóa chứa đựng trong hệ thống ngôn ngữ văn tựHán.19Xét về hình thức văn tự: chữ Hán là hệ thống văn tự thiên về biểu ý, cố địnhtiếng Hán. Nếu nhìn vào lịch sử, ta thấy lịch sử tiếng Hán khá dài lâu kể từ khi có văntự cho đến những biến đổi về hình thể, cách thức thể hiện của văn tự, cho nên ngônngữ viết tiếng Hán cũng là một vấn đề vô cùng phức tạp. Ngôn ngữ viết dựa trên cơ sởngôn ngữ nói của tiếng Hán cổ gọi là văn ngôn. Văn ngôn là ngôn ngữ viết tồn tại ởTrung Quốc cho đến tận đầu thế kỉ XX. Vị trí của văn ngôn khá cao, nó được xem làcó vị trí thượng đẳng. Viết bằng văn ngôn được xem là cao quý, viết có nhiều yếu tốcủa ngôn ngữ nói hay bằng ngôn ngữ nói thì bị xem là thông tục, thấp hèn. Ngôn ngữviết chữ Hán trung cổ được gọi là Bạch thoại trung đại [Bạch thoại sớm, Bạch thoạicổ]. Đặc điểm của hình thái ngôn ngữ viết này là: trực tiếp dựa trên cơ sở ngôn ngữnói đương thời. Các văn bản dịch kinh Phật, ngữ lục, tiểu thuyết, kịch…đều được viếttheo ngôn ngữ này. Do bám theo ngôn ngữ nói đương thời nên Bạch thoại trung đại cócú pháp giản đơn, câu viết theo tuyến của tư duy, có hệ thống hư từ diễn đạt ý nghĩangữ pháp của tiếng Hán trung đại. Đây là ngôn ngữ viết bị giới văn nhân xem khinh,triều đình coi nhẹ nhưng lại được đa số bình dân ưa thích. Các tác phẩm lớn của vănhọc Trung Quốc trung đại đều được viết bằng ngôn ngữ này như: Kịch của Quan HánKhanh, Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử truyện của Thi Nại Am…Bạch thoại hiện đại là ngôn ngữ văn học của tiếng Hán hiện đại.* Bán đảo Triều TiênThế kỷ thứ IV trước công nguyên xuất hiện các văn bản viết tay của ngườiTriều Tiên. Các bản viết tay này được sử dụng chữ Hán. Tiếng Hán là thứ ngôn ngữkhó, dùng chữ Hán để viết tiếng Triều Tiên trở nên phức tạp, cho nên các học giảngười Triều Tiên đã tìm cách cải biến chữ Hán để phù hợp với âm đọc của tiếng TriềuTiên. Vào khoảng thế kỷ thứ 15, ở Triều Tiên xuất hiện chữ ký âm, được gọi là Hangul[한글] hay Chosŏn'gŭl [조선글], chữ này trải qua nhiều thế kỷ phát triển thăng trầm,cuối cùng chính thức được dùng thay thế cho chữ Hán cho tới ngày nay. TuyChosŏn'gŭl đã xuất hiện nhưng chữ Hán [Hancha] vẫn còn được giảng dạy trongtrường học. Năm 1972, Bộ Giáo dục Hàn Quốc đã quy định phải dạy 1800 chữ Hán cơbản cho học sinh. Còn ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, người ta đã bỏ hẳnchữ Hán.20* Nhật BảnChữ Hán du nhập vào Nhật Bản thông qua con đường Triều Tiên. Chữ Hán ởNhật được gọi là Kanji [漢字 Hán tự] và được du nhập vào Nhật theo con đường giaolưu buôn bán giữa Nhật và Triều Tiên vào khoảng thế kỷ thứ IV, V. Tiếng Nhật cổ đạivốn không có chữ viết, nên khi chữ Hán du nhập vào Nhật, người Nhật dùng chữ Hánđể viết tiếng nói của họ. Dạng chữ đầu tiên người Nhật sáng tạo từ chữ Hán để viếttiếng Nhật là chữ Man-yogana [萬葉假名 Vạn Diệp Giả Danh]. Hệ thống chữ viết nàydựa trên chữ Hán và khá phức tạp. Man-yogana được đơn giản hóa thành Hiraganaひらがな [平假名 Bình Giả Danh] và Katakana カタカナ [片假名 Phiến Giả Danh].Cả hai loại chữ này trải qua nhiều lần chỉnh lý và hoàn thiện mới trở thành chữ viếtngày nay ở Nhật. Tiếng Nhật hiện đại được viết bằng bốn loại ký tự:Chữ Hán [hay Kanji 漢字]Chữ mềm [hay Hiragana ひらがな]Chữ cứng [hay Katakana カタカナ]Chữ La Tinh [hay Romaji ローマ字].Chữ Hán trong tiếng Nhật thường có ít nhất hai cách đọc, cách đọc theo âmHán cổ, được gọi là On-yomi. Và cách đọc theo âm tiếng Nhật được gọi là Kun-yomi.Trong quá trình phát triển chữ viết cho tiếng Nhật, người Nhật còn mượn chữ Hán đểsáng tạo ra một số chữ [khoảng vài trăm chữ] và mỗi chữ này chỉ có cách đọc theo âmtiếng Nhật; các chữ này được gọi là Kokuji, tiếng Nhật gọi là Quốc Tự Quốc Huấn[國字國訓], nghĩa là “chữ quốc ngữ âm quốc ngữ”. Tháng 11 năm 1946, Bộ Giáo dụcNhật đề nghị đưa vào giảng dạy 1850 chữ Hán cơ bản trong trường học, và được Quốchội Nhật thông qua năm 1947.Đến năm 1981 thì lượng chữ Hán thông dụng được điều chỉnh lại gồm khoảng1945 chữ thường dùng, khoảng 300 chữ thông dụng khác dùng để viết tên người. Đếnnăm 2000, các chữ Hán dùng để viết tên người được điều chỉnh thêm, số lượng tănglên trên 400 chữ. Các chữ Hán này được lập thành bảng gọi là Bảng chữ Hán thườngdùng [Jyoyo Kanji Hyo, 常用漢字表 Thường Dụng Hán Tự Biểu] và Bảng chữ Hándùng viết tên người [Jinmeiyo Kanji Hyo, 人名用漢字表 Nhân Danh Dụng Hán TựBiểu].21

Video liên quan

Chủ Đề