Sa Huỳnh là gì
Những phát hiện đầu tiên về Văn hóa Sa Huỳnh Trong năm 1909, về phía Đông của đầm nước mặn Tân Diêm có dải cồn cát ngăn cách đầm với biển, trên dải cồn cát Sa Huỳnh, M. Vinet là quan thuế người Pháp làm việc ở Sở thương chính tại cửa biển Sa Huỳnh đã phát hiện một kho chum khoảng 200 chiếc trong chứa nhiều đồ tùy táng, những chum gốm này do người dân đào lên để lấy trong đó các hạt trang sức mã não, thủy tinh. Ông đã công bố phát hiện kho chum Sa Huỳnh này trong Tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ (B.E.F.E.O)(Vinet, 1909), điểm thời gian năm 1909 được lấy làm mốc khởi đầu cho sự phát hiện và nghiên cứu về văn hóa Sa Huỳnh. Năm 1923, La Barre khai quật tại Sa Huỳnh tìm thấy hơn 200 mộ chum, tài liệu được H. Parmentier chỉnh lý và công bố trong tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ (B.E.F.E.O)(H.Parmentier, 1924). Năm 1934, M.Colani khai quật tại điểm phát hiện văn hóa Sa Huỳnh thuộc làng Thạnh Đức và công bố tại hội nghị Tiền sử học Thái Bình Dương tổ chức tại Manila (Philippines) năm 1935 (M.Colani, 1935). Đến năm 1936, M.Colani xác lập thuật ngữ Văn hóa Sa Huỳnh (Sahuynh Culture) khi nghiên cứu các di tích tiền sử ở Quảng Bình được công bố trong bài viết "Ghi chú về tiền sơ sử Quảng Bình", đăng trên tạp chí "Những người bạn Huế xưa". Tên gọi Văn hóa Sa Huỳnh"Sahuynh Culture” của M.Colani dùng để chỉ nền văn hóa của cư dân tiền sử có táng tục mộ chum và lấy địa điểm Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) đặt tên cho nền văn hóa này (M.Colani, 1936). Như vậy thuật ngữ văn hóa Sa Huỳnh hay còn gọi là Sa Huỳnh cổ điển do các học giả người Pháp định danh, nội hàm thuật ngữ chứa đựng các di tích thuộc thời đại đồ sắt có đặc trưng chung về văn hóa khảo cổ. Thời gian tồn tại văn hóa Sa Huỳnh trước công nguyên khoảng 500 năm và kết thúc ở thế kỷ 2 sau công nguyên. Văn hóa Sa Huỳnh có chung một không gian liền khoảnh khu vực miền Trung từ Hà Tĩnh vào đến Bình Thuận mà ở hai đầu của nó có sự giao thoa với văn hóa Đông Sơn (phía Bắc) và văn hóa Đông Nam Bộ (phía Nam). Những di tích thuộc thời đại đồng thau cách nay trên dưới 3000 năm đến 2600 năm phát triển trực tiếp hay gián tiếp lên văn hóa Sa huỳnh được gọi bằng thuật ngữ “Tiền Sa Huỳnh” hoặc giai đoạn sớm của văn hóa Sa Huỳnh, trong đó các dòng chảy văn hóa Tiền Sa Huỳnh phát triển trực tiếp lên Sa Huỳnh như Long Thạnh, Bình Châu I, Bình Châu II, Bàu Trám (lớp sớm), Bãi Ông. Gián tiếp góp phần vào sự hình thành Sa Huỳnh ví như văn hóa Xóm Cồn. Không gian phân bố của các di tích Tiền Sa Huỳnh tồn tại trong khu vực Nam Trung Bộ, giữa chúng đều có mối quan hệ, tuy thời gian có sớm muộn khác nhau nhưng cùng góp phần vào sự hình thành đỉnh cao Sa Huỳnh sắt (Đoàn Ngọc Khôi, 2004). Không gian phân bố văn hóa Sa Huỳnh trải dài ở miền Trung Việt Nam; phía Bắc giao thoa với văn hóa Đông Sơn ở Bãi Cọi (Hà Tĩnh); phía Nam giao lưu với văn hóa Đông Nam Bộ ở Bình Thuận; phía Tây trải dọc theo thung lũng Đông Trường Sơn giao lưu với văn hóa Tây Nguyên; phía Đông văn hóa Sa Huỳnh vươn ra hệ thống các đảo trong vùng biển của Việt Nam như: Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Phú Quý, Thổ Chu, Côn Đảo, Phú Quốc... ở đây văn hóa Sa Huỳnh giao lưu với văn hóa của vùng đảo Tây Thái Bình Dương theo dòng chảy văn hóa hải lưu. Vùng trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh nằm ở tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam và Bắc Bình Định. Đặc biệt tại tỉnh Quảng Ngãi, văn hóa Sa huỳnh phân bố theo ba vùng sinh thái văn hóa rất đặc trưng và được xác thực qua các cuộc khai quật khảo cổ quy mô, đó là: Vùng núi – thung lũng sông Tang Hồ nước Trong; Vùng đồng bằng duyên hải – Long Thạnh, Bình Châu, Sa Huỳnh; Vùng đảo Cù lao Ré – Xóm Ốc, Suối Chình. Tại các điểm trung tâm này đã tìm thấy hàng trăm mộ chum, mộ vò, mộ đất của văn hóa Sa Huỳnh và hàng ngàn di vật đá, đồng, sắt, gốm, thủy tinh, đồ trang sức đá ngọc nephrit, agat. Đặc điểm di tích khảo cổ văn hóa Sa Huỳnh: Cư trú và Mộ táng Về di chỉ cư trú: Dấu tích cư trú của cư dân văn hóa Sa Huỳnh được phát hiện ở vùng đồng bằng duyên hải, vùng thung lũng núi và vùng đảo gần bờ. Giai đoạn sơ kỳ đồng thau tiền Sa Huỳnh tại địa điểm Long Thạnh (Quảng Ngãi) có tầng văn hóa di chỉ cư trú dày trên 2m, Bình Châu dày trên 2m. Giai đoạn sơ kỳ sắt văn hóa Sa Huỳnh, trong đất liền có lớp cư trú mỏng, phát hiện khá ít, cụ thể tìm thấy ở Gò Ma Vương, Trà Veo 3 (Quảng Ngãi)... ở đảo có lớp cư trú dày hơn cụ thể ở Cù Lao Ré, Cù Lao Chàm... hầu hết các di chỉ cư trú đều xen lẫn với mộ táng, điều đó có nghĩa là mộ táng chôn ngay vào nơi cư trú. Về mộ táng: Mộ chum là truyền thống táng thức cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh, với các kiểu dạng chum hình trứng, hình cầu, hình trụ, có nắp đậy là bát bồng lớn hình nón cụt thân được trang trí hoa văn tỉ mỉ. Các mộ chum có kích thước lớn chôn theo cụm bãi, đặc biệt còn tìm thấy các dạng chum lồng ở Hậu Xá II, ở Gò Dừa, có những khu mộ chum lớn như Phú Khương, Thạnh Đức (Quảng Ngãi) số chum khai quật được ở các thập niên đầu thế kỷ 20 của người Pháp khoảng 500 chum. Ngoài ra trong văn hóa Sa Huỳnh có đa dạng trong loại hình mộ táng, có những địa điểm di tích văn hóa Sa Huỳnh bên cạnh mộ chum là mộ đất, mộ vò, mộ nồi được phát hiện khai quật ở Tiên Lãnh, Thạch Bích, Gò Mả Vôi (Quảng Nam), Xóm Ốc, Gò Quê, Trà Veo 3 (Quảng Ngãi).
Ngôn ngữ của cư dân văn hóa Sa Huỳnh Tình hình nghiên cứu cũng chưa thật khả quan nhưng với quan điểm hiện nay đa số ý kiến cho rằng cư dân Sa Huỳnh nói tiếng Nam Đảo (Malayo - Polynesiens). Tuy nhiên đồng bằng duyên hải miền Trung vốn là nơi tụ hội các dòng văn hóa, nhân chủng và ngôn ngữ. Do vậy ngữ hệ Nam Đảo không thể phát triển biệt lập như một ốc đảo được mà phát triển trong khung cảnh giao tiếp văn hóa và tộc người, tiếp nhận các yếu tố ngôn ngữ của các nhóm cư dân khác. Hiện tượng tiếp nhận và tiếp biến văn hóa đồng thời với tiếp nhận và tiếp biến các yếu tố ngôn ngữ luôn xảy ra gần như là một quy luật. Chỉ có điều mức độ xảy ra như thế nào và tốc độ nhanh chậm ra sao. Tài liệu khảo cổ học cho thấy trong nội dung văn hóa Sa Huỳnh có các yếu tố văn hóa thời đại kim khí vùng Đông Nam Bộ và Thái Lan. Và ngược lại, các yếu tố văn hóa Sa Huỳnh cũng có mặt ở các nơi trên và trên các vùng khác của cư dân nói ngữ hệ Nam Á (Austro - Asiatic). Rõ ràng địa bàn phân bố của người Sa Huỳnh đã có pha trộn ngữ hệ Nam Đảo và Nam Á cổ. Văn hóa Sa Huỳnh có mối quan hệ cũng rất mật thiết với cư dân hải đảo, đặc biệt là Philippines. Táng tục mộ vò, khuyên tai bốn mấu, khuyên tai hai đầu thú, đồ thủy tinh, mã não .v..v... có mặt trong các văn hóa sắt sơm ở Philippines chúng ta có thể thấy mối quan giao tiếp văn hóa xảy ra ở mức độ cao. Hải đảo Đông Nam Á trong đó có cư dân Philippines, Indonesia, Malaysia .v..v... là nơi tụ cư chủ yếu của tộc người Nam Đảo và họ đã nói ngữ hệ Nam Đảo. Sự lan tỏa của cư dân Nam Đảo mang theo văn hóa và ngữ hệ của mình đến nhiều khu vực ở Đông Nam Á, trong đó có khu vực Nam Trung Bộ Việt Nam, là địa bàn của cư dân Sa Huỳnh. Tuy nhiên cư dân Sa Huỳnh không hẳn nói thứ tiếng không hẳn thuần Nam Đảo mà là ngôn ngữ giao thoa giữa Nam Đảo và Nam Á đó là ngữ hệ Nam Phương (Austric) (Ngô Thế Phong, 1995).
Đặc điểm cuộc sống sinh hoạt của cư dân văn hóa Sa Huỳnh
Phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh: các cột mốc quan trọng Trong suốt thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, văn hóa Sa Huỳnh được phát hiện nghiên cứu liên tục, tổng quan nghiên cứu có thể đánh dấu các mốc sự kiện quan trọng sau: - Khởi đầu năm 1909 mốc quan trọng, đó là phát hiện đầu tiên về văn hóa Sa Huỳnh của M. Vinet về khu mộ chum vùi trong đồi cát ven biển của vùng Sa Huỳnh. - Năm 1934 bà M.Colani đã đến khảo sát và khai quật 55 chum ở Thạnh Đức, 187 chum ở Phú Khương, Phú Lu ( Sa Huỳnh - Quảng Ngãi). - Năm 1936 trong bài viết "Ghi chú về tiền sơ sử Quảng Bình", nhân phát hiện mộ chum ở Cổ Giang và Cương Hà đăng trên tạp chí "Những người bạn Huế xưa", bà M.Colani lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ "Văn hóa Sa Huỳnh", bà viết như sau "Bằng vào các tóm tắt và các mô tả trên, người ta thấy rằng nền văn hóa cạnh Đồng Hới này có những điểm gần gũi với văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn". - Bắt đầu từ các năm 1959 đến năm 1961 W. G. SolheimII, sau khi nghiên cứu loại hình gốm Kalanay ở Philippin; ông đã đề xuất khái niệm "phức hệ gốm Sa Huỳnh Kalanay". Để có nhanh chóng những tư liệu khẳng định giả thuyết trên, W.G SohiemII đã thúc đẩy O.Janse, L.Malleret có những bài viết về văn hóa Sa Huỳnh. - Vào năm 1939, O. Janse đã khảo sát và khai quật 30 mộ chum tại Sa Huỳnh, sau đó năm 1960, ông quay trở lại Sa Huỳnh một tuần để nghiên cứu thêm. Tư liệu được tập hợp và công bố trong tạp chí Asian Perspective năm 1961. Trên cơ sở phân tích về loại hình chum táng và đồ gốm Sa Huỳnh, O. Janse đưa ra khái niệm "Phức hợp Sa Huỳnh" (Sa Huynh Complex). - Cũng trên cồn cát Sa Huỳnh, L. Malleret khai quật năm 1957, thu nhặt những mảnh gốm nằm trên bề mặt di tích và dựa trên cơ sở nghiên cứu đồ gốm ở bảo tàng Finot, đã đặt ra mối quan hệ rộng hơn trong khu vực Đông Nam Á của văn hóa Sa Huỳnh trong bài viết vào năm 1961. - Những bài viết của L. Malleret và O. Jansé về Sa Huỳnh đăng trên tạp chí Asian Perspectives, cùng với tư liệu khai quật Sa Huỳnh công bố của M.Colani, và của H.Parmentier đem lại nhiều tư liệu giúp cho W.G SolheimII củng cố giả thuyết "Phức hợp Sa Huỳnh - Kalanay" (Sahuynh-Kalanay complex). W.G. Solheim II là người có nhiều đóng góp khi đặt vấn đề nghiên cứu Sa Huỳnh trong bối cảnh Đông Nam Á. Đến giai đoạn sau này, W.G. SolheimII còn mở rộng và đẩy lùi về quá khứ không gian tồn tại của gốm SaHuỳnh-Kalanay, nâng lên thành "Truyền thống Sa Huỳnh-Kalanay" (Sahuynh- Kalanay Tradition).
Đến nay có những mốc đáng ghi nhớ đánh dấu việc nghiên cứu văn hoá Sa Huỳnh. - Đó là cuộc hội thảo khoa học chuyên đề về văn hoá Sa Huỳnh đầu tiên được tổ chức năm 1981 tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, đây là cuộc hội thảo quan trọng lần đầu tiên về văn hoá Sa Huỳnh. - Tiếp đến năm 1995, cuộc hội thảo khoa học về văn hoá Sa Huỳnh ở Hội An. - Năm 1999 là cuộc hội thảo khoa học lớn kỷ niệm 90 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh do Viện Khảo cổ học và Bảo tàng lịch sử Việt Nam tổ chức. - Năm 2009, hội thảo kỷ niệm 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh do Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam và Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tổ chức tại Quảng Ngãi. - Năm 2019, hội thảo kỷ niệm 110 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh trong khuôn khổ hội thảo Công viên địa chất toàn cầu Lý Sơn – Sa Huỳnh do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Viện Khảo cổ học Việt Nam tổ chức tại Quảng Ngãi.Các cuộc hội thảo này đã làm rõ một số vấn đề khoa học về văn hóa Sa Huỳnh: Văn hoá Sa Huỳnh được hình thành từ nhiều nguồn hợp khác nhau, cùng thống nhất trong đa dạng và là một văn hoá bản địa. Văn hoá Sa Huỳnh ở điểm phát triển muộn của nó là cơ sở vật chất để chuyển biến sang một giai đoạn mới với việc hình thành nên các tiểu quốc cổ đại ở Miền Trung Việt Nam mà sau này được thống nhất dưới cái tên Lâm ấp (Linyi) năm 192 sau công nguyên. Những cuộc khai quật ở Phú Thọ Cổ Lũy, Suối Chình (Quảng Ngãi), Trà Kiệu, ở Khu vực I Cẩm Phô Hội An; di chỉ Gò Cấm (Quảng Nam)... đã có những tín hiệu khớp nối giữa văn hoá Sa Huỳnh muộn và Champa sớm.. Các đặc trưng của văn hoá Sa Huỳnh dần được làm rõ: từ các cách chôn cất trong mộ chum, nồi, vò, mộ đất... đa dạng đến các bộ sưu tập công cụ, vũ khí sắt, đồng, đồ trang sức đã ngày càng thấy có sự đa dạng hơn. Niên đại của Sa Huỳnh và Tiền Sa Huỳnh cũng được kéo dài hơn, ít ra là từ vài ngàn năm trước Công nguyên đến Công nguyên. Văn hoá Sa Huỳnh không khép kín mà giao lưu rộng rãi. Với văn hoá Đông Sơn phía Bắc, văn hoá Sa Huỳnh có một vùng “giao thoa” ở Hà Tĩnh... Với các văn hoá thời đại kim khí ở Đông Nam Bộ, văn hoá Sa Huỳnh cũng có những sự giao lưu mạnh mẽ ở hình thức táng tục bằng các chum gốm... Văn hoá Sa Huỳnh còn có sự giao lưu mạnh với Tây nguyên và khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quàng Văn Cậy (1977), " Khai quật di chỉ khảo cổ học Gò Ma Vương (Nghĩa Bình)", NPH ... 1977, tr. 110 - 1131. 2. Nguyễn Lân Cường (1999), "Xung quanh những tài liệu cổ nhân học về chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh", Hội thảo 90 năm văn hóa Sa Huỳnh, tại viện BTLSVN, Hà Nội. 3. Nguyễn Trung Chiến, Đào Quý Cảnh "(1999), Báo cáo khai quật địa điểm bãi Ngự và bãi Dong đảo Thổ Chu, huyện Phú Quốc tỉnh Kiên Giang", HS 394 4. Bùi Chí Hoàng, Nguyễn Thị Hoài Hương, Nguyễn Thị Hà, YAMAGATA. M, (1999). "Khai quật địa điểm khảo cổ học Bình Yên (xã Quế Phước, huyện Quế Sơn, Quảng Nam)", NPH ... 1998, tr. 227-229. 5. Ngô Sĩ Hồng (1987), "Nguồn gốc và quá trình phát triển của văn hoá Sa Huỳnh", KCH (3) tr 37 - 53. 6. Hoàng Tử Hùng, Lê Trung Khá (1990), "Hình thái nhân chủng những răng người cổ ở Mỹ Tường và Bàu Hoè thuộc văn hoá Sa Huỳnh", KCH (3), tr. 49 - 54. 7. Đoàn Ngọc Khôi (2004), "Di tích Xóm Ốc và vấn đề văn hóa Sa Huỳnh ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ” Luận án Tiến Sĩ Sử học, Hà Nội 2004. 8. Đoàn Ngọc Khôi (2001), "Vai trò của các đảo ven bờ và vùng duyên hải trong nghiên cứu Văn Hóa Sa Hùynh ở miền Trung Việt Nam" Hội thảo khoa học, một thế kỷ khảo cổ học Việt Nam, Viện KCH, Viện BTLSVN. 9. Đoàn Ngọc Khôi (2001), "Di tích Xóm Ốc (Cù Lao Ré - Quảng Ngãi) và di tích Bãi Ông (Cù Lao Chàm - Quảng Nam): Tư liệu và nhận thức", KCH (4), tr. 75 - 100. 10. Phạm Thị Ninh, Đoàn Ngọc Khôi (1999), " Xóm Ốc, di tích văn hoá Sa Huỳnh ở Đảo Lý Sơn - Quảng Ngãi ", KCH (2), tr. 14 - 39. 11. Ngô Thế Phong(1995), "Văn hoá Sa Huỳnh trong bối cảnh Đông Nam á", KCH (4), tr. 45 - 47. 12. Trịnh Sinh (1979), "Mối quan hệ Đông Sơn - Sa Huỳnh qua những tài liệu mới", NPH... 1979, tr. 166 -168 13. Trịnh Sinh (1979),"Vài nét về giao lưu văn hoá ở thời đại kim khí trong bối cảnh lịch sử Đông Nam Á", KCH (3), tr. 49 - 63. 14. Nguyễn Khắc Sử, Võ Quý, Bùi Văn Liêm, Trần Quý Thịnh (1999), "Dấu ấn tiền Sa hùynh và Sa Huỳnh ở Tây Nguyên", Bài đọc trong hội thảo khoa học 90 năm văn hoá Sa Huỳnh tại BTLSVN, Hà Nội. 15. Chử Văn Tần (1978), "Về văn hoá Sa Huỳnh", KCH (1), tr. 52 - 60. 16. Chử Văn Tần (1997), "20 năm sau phát hiện Long Thạnh, một lần nữa nhìn lại Sa Huỳnh ", KCH (1), tr. 11 - 37. 17. Chử Văn Tần (1998),"30 năm khảo cổ học kim khí một chặng đường - ba nền cảnh - ba bước chuyển - một đích mới", KCH (3) tr. 36 - 46. 18. Hà Văn Tấn (1983), "Suy nghĩ về Sa Huỳnh và từ Sa Huỳnh ". TBKH của BTLSVN (1), tr. 45 - 50. 19. Trần Quốc Vượng (1995), "Về một nền văn hóa cảng thị ở miền Trung". Khoa học và phát triển, (35), tr 21 - 22 20. Reinecke A. , Nguyễn Chiều và Lâm Thị Mỹ Dung(2002), " Những phát hiện mới về văn hóa Sa Huỳnh - Khu mộ táng Gò Mả Vôi và vị thế của nó ở Miền Trung Việt Nam", Linden Soft. 21. Hutterer K.L(1974), “The revolution of Philippine Lowland socioties”. Mankid, N09, London. 22. Geldern. R. h. (1973), "Quê hương và cuộc di cư của người Nam Đảo", trong Nhân học (27)TL dịch lưu tại Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội. 23. Ian Glover và Mariko Yamagata (1995), “Nguồn gốc về văn minh Chăm: Các yếu tố bản địa, các ảnh hưởng của Trung Quốc, ấn Độ ở Miền Trung Việt Nam qua kết quả khai quật Trà Kiệu ( Duy Xuyên, Quảng Nam-Đà nẵng) 1993”, KCH (3), tr. 46 - 61. 24. Izena sellmound excavation project(1993) "Izena shellmound". Izena village fureal museum. 25. Fox R.B (1970), "The Tabon caves", Monogaph of the National Museum , Manila. 26. Janse, O. (1961), "Some notes on the Sa Huynh Complex", AP, Vol. III, N0 2, pp. 109-111 27. Solheim II,, W. G. (1964), "Further relationships of the Sa Huynh-- Kalanay pottery tradition", AP, Vol. VIII, N0 1. pp. 196-211. 28. Solheim II, W. G. (1967), "The Sa Huynh- Kalanay pottery tradition: past and future research," Studies in Philippine Anthoropology, pp. 151 - 174. 29. Solheim II, W. G. (1994) "Material culture along the black current" International christian university archaeology research center, pp.2-32. 30. Colani, M. (1935), "Le ceramique de Sa Huynh", The 2nd Coongress of Far - Eastern Prehistorians in Manila, 1935. 31. Colani, M. (1936), " Notes pré et protohistoriques province de Quang Binh", Bulletin des Amisdu Vieux Hue, N0 23. 32. Malleret, L. (1961), "Quelques poteries de Sahuynh dans leurs rapports avec divers sites du Sud- Est de l,Asie", AP, Vol. I-II, pp. 113 - 119. 33. Mansuy. H (1925), "Nôte sur deux instruments en pièrre polie provenant de L' Ile de Tre ( An Nam), MSGI, Vol XII, fasc. II, Hanoi, 1925. 34. Pamentier, H. (1924), Notes d’ Archéologique Indochinoise, VII. Dépôts de jarres à Sa Huynh (Quang Ngai - Annam)", BEFEO, Vol. XXIV, pp. 325 - 343.35. Vinet, M. (1909), " Chronique”, BEFEO, t. IX, Hanoi, pp. 423.
|