Nghiên cứu thực trạng Marketing của công ty TNHH

-->

Trờng đại học kinh tế quốc dânKhoa thơng mại&ChUYÊN Đề THựC TậPĐề tài:"Phân tích thực trạng hoạt động marketing của công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh"Giáo viên hớng dẫn : Nguyễn Tuyết MaiSinh viên thực hiện : Nguyễn Văn SâmLớp : Thơng Mại 46AKhoá : 46Chuyên đề thực tập MỤC LỤC Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A2Chuyên đề thực tậpLỜI NÓI ĐẦU Việt Nam tiến vào hội nhập WTO đã mở ra nhiều cơ hội và nhiều thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. Trong nền kinh tế mở cửa như vậy, các doanh nghiệp nước ngoài với các sản phẩm rẻ đẹp thâm nhập vào Việt Nam một cách nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trong nước. Các doanh nghiệp trong nước thì nguồn nguyên liệu khan hiếm nên đặt ra cho các doanh nghiệp một thách thức rất lớn trong việc cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. Với công ty cổ phần xuát nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh thì xảy ra việc cạnh tranh chỉ là trong nước vì các doanh nghiệp nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam hầu hết là các mặt hàng điện tử công nghệ cao. Nhưng việc cạnh tranh trong nước cũng khá phức tạp với nhiều công ty mọc lên cạnh tranh lẫn nhau để có được chỗ đứng trong thị trường. Để giúp công ty có thể xác định được thị trường của mình thì doanh nghiệp cần phải ứng dụng marketing vào quá trình kinh doanh nhằm thu hút khách hàng chiếm lĩnh thị trường. Chí vì lẽ đó em chọn đề tài: “ Phân tích thực trạng hoạt động marketing của công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh”. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nhằm phân tích thực trạng hoạt động của công ty và tìm ra những biện pháp marketing nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm và nâng cao vị trí tên tuổi của công ty trong tâm trí khách hàng. Trong quá trình nghiên cứu thì đối tượng được nghiên cứu ở đề tài này là các hoạt động marketing của doanh nghiệp, và cùng với các biện pháp marketting thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Phạm vi nghiên cứu là các sản phẩm gỗ và đồ gỗ mỹ nghệ của công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh từ năm 2004 -2007. Trong quá trình nghiên cứu có sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và điều tra thực tế nhằm làm rõ thực trạng cũng như là tìm và đưa ra các giải pháp biện pháp cho đề tài.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A3Chuyên đề thực tậpCHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP I. KHÁI QUÁT VỀ MARKETING1. Khái niệm về marketing 1.1. Khái niệm : Marketing là hệ thống các biện pháp mà người bán sử dụng để cốt làm sao để bán được hàng và thu được tiền về họ. Marketing là quá trình làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người. Marketing là một dạng hoạt động của con người [ bao gồm cả tổ chức] nhằm thoả mãn các nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi. Theo E.J McCarthy: Marketing là quá trình thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu của một tổ chức thông qua việc dự đoán các nhu cầu của khách hàng hoặc người tiêu thụ để điều khiển các dòng hàng hoá dịch vụ thoả mãn các nhu cầu từ nhà sản xuất tới khách hàng hoặc người tiêu thụ. 1.2. Bản chất của Marketing Mục tiêu của marketing thương mại cuối cùng vẫn là đảm bảo lợi nhuận có thể có của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình kinh doanh trên thị trường. Nghiên cứu marketing và phát triển là để nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động thương mại. Như vậy, Thực chất của hoạt động marketing là xác định lại cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế hiện đại vị trí của nhà kinh doanh và khách hàng hoạt động kinh tế. Từ đó, sử dụng một cách đồng bộ và khoa học các quan điểm lý thuyết hiện đại về tổ chức và quản trị kinh doanh trong các quá trình tiếp cận và chinh phục khách hàng để tiêu thụ sản phẩm.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A4Chuyên đề thực tập Bản chất của marketing là nó đề cập đến hai vấn đề chính là vị trí khách hàng trong hoạt động thương mại, cách thức tiếp cận và chinh phục khách hàng theo quan điểm định hướng marketing. Về vị trí của khách hàng trong hoạt động thương mại thì nó đề cập đến hai tư tưởng cơ bản là: - Vị trí quyết định thuộc về người bán: +] Quan điểm định hướng sản xuất +] Quan điểm định hướng bán hàng- Vị trí quyết định thuộc về người mua: +] Tư tưởng kinh doanh định hướng khách hàng +] Tư tưởng kinh doanh định hướng marketing Về cách thức tiếp cận và chinh phục khách hàng theo quan điểm định hướng marketing dựa theo mô hình sau: Tóm lại, tư tưởng cơ bản của marketing thương mại được mô tả qua ba định hướng cơ bản và ba nguyên tắc cơ bản :- Ba định hướng cơ bản:+ Định hướng khách hàng dẫn dắt toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệpNguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A5 Mục tiêu [Thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng ] Dự đoán [ Nhu cầu và xu hướng vận động nhu cầu của khách hàng] Biện pháp điều khiển[Bao vây, lôi kéo và thúc đẩy khách hàng mua hàng bằng marketing hỗn hợp]Chuyên đề thực tập+ Mọi nỗ lực của doanh nghiệp phải được liên kết+ Lợi nhuận không chỉ là bán hàng mà xuất hiện với tư cách là đối tượng tìm kiếm- Ba nguyên tắc cơ bản+ Phải tìm đựơc công việc có ích cho xã hội và nền kinh tế+ Phát triển tổ chức [ bộ phận] để tồn tại trong kinh doanh và xây dựng được chiến lược phát triển của nó+ Thu được lợi nhuận để tồn tại và phát triển2. Vai trò của marketing trong hoạt động của doanh nghiệp Vai trò đầu tiên của marketing phải nói đến là giúp doanh nghiệp bán được hàng hoá của mình để thu lợi nhuận nhằm tồn tại và phát triển. Đó cũng là cái đích cuối cùng của doanh nghiệp cần đạt đến. Bên cạnh đó marketing còn có vai trò thu hút khách hàng bằng những hoạt động xúc tiến như quảng cáo, hội trợ triển lãm, khuyến mại, bán hàng trực tiếp, quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác.Có thể nói xúc tiến trong marketing sẽ giúp cho các doanh nghiệp:- Có cơ hội phát triển các mối quan hệ thương mại trong và ngoài nước- Có thông tin tốt về khách hàng cũng như đối thủ cạnh tranh- Chiếm lĩnh thị trường tăng sức cạnh tranh- Tạo ra cầu nối giữa khách hàng và doanh nghiệp- Bán hàng trở lên dễ dàng hơn- Đạt được mục tiêu trong kinh doanh đặt raII. NỘI DUNG CỦA MARKETING TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP1. Xác định cơ hội hấp dẫn Sản xuất/ kinh doanh cần có cơ hội. Mục tiêu của sản xuất/ kinh doanh trong thực tế chỉ có thể đạt được thông qua khả năng “ vượt” qua các cơ hội cụ thể. Hiểu một cách đơn giản, cơ hội là sự xuất hiện những khả năng cho phép người ta [doanh nghiệp] làm một việc gì đó. Trong thương mại, cơ hội Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A6Chuyên đề thực tậpxuất hiện khi khách hàng có nhu cầu thoả mãn một điều gì đó ở doanh nghiệp để từ đó doanh nghiệp nắm bắt lấy nó nhằm phục vụ sự thoả mãn của khách hàng. Cơ hội kinh doanh hấp dẫn là những khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng đã và sẽ xuất hiện trên thị trường được xem là phù hợp với mục tiêu và tiềm lực của doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp đủ điều kiện thuận lợi khai thác vượt qua nó để thu lợi nhuận. Trên thị trường kinh doanh, cơ hội xuất hiện dưới rất nhiều dạng khác nhau, từ khái quá đến cụ thể. Đặt tiêu thụ sản phẩm trong mối liên hệ biện chứng giữa doanh nghiệp - khách hàng - đối thủ cạnh tranh, khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng có thể chuyển hoá một cách hữu cơ thành những dạng cơ bản sau:- Khả năng khai thác thị trường: Đây là cơ hội đẻ doanh nghiệp tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm hiện tại trên thị trường hiện tại.- Khả năng mở rộng thị trường: Đây là cơ hội để doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm hiện tại trên các thị trường mới.- Khả năng mở rộng sản phẩm: Đây là cơ hội để doanh nghiệp lựa chọn các sản phẩm mới kể cả sản phẩm cải tiến để đưa vào tiêu thụ trên các thị trường hiện tại.- Khả năng đa dạng hoá: Đây là cơ hội để doanh nghiệp phát triển hoạt động kinh doanh trên cơ sở đưa các sản phẩm mới vào bán trong các thị trường mới, kể cả hoạt động trong lĩnh vực không truyền thống. Ở dạng cơ hội này có hai dạng thức của đa dạng hoá sau:+] Đa dạng hoá sản phẩm: tiêu thụ những sản phẩm mới trên thị trường mới thuộc lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh truyền thống của doanh nghiệp.+] Đa dạng hoá kinh doanh: kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm mới trên thị trường mới nhưng thuộc lĩnh vực ngành nghề mới mà trước đó, doanh nghiệp chưa từng hoạt động.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A7Chuyên đề thực tập Các quyết định đầu tiên mang tính chiến lược ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình kinh doanh và khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp là quyết định về lựa chọn cơ hội hấp dẫn để đưa vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Mục tiêu lựa chọn và xác định được thời cơ hấp dẫn là tìm ra những khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và những yếu tố hỗ trợ mạnh nhất của thị trường để doanh nghiệp tập trung khai thác nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu lợi nhuận và phát triển doanh nghiệp. Để xác định thời cơ hấp dẫn, cần tiến hành đánh giá cơ hội. Đánh giá cơ hội là quá trình so sánh ưu, nhược điểm của các cơ hội được xác định phù hợp vơi mục tiêu phát triển của doanh nghiệp để chọn ra một hoặc một số cơ hội cho phép doanh nghiệp có khả năng khai thác tối ưu điểm mạnh của doanh nghiệp và thuận lợi từ phía môi trường kinh doanh [ và ngược lại, có thể hạn chế đến mức tối đa điểm yếu của doanh nghiệp, yếu tố kìm hãm từ môi trường kinh doanh] nhằm mục tiêu thu lợi nhuận và phát triển.2. Nghiên cứu thị trường Trong kinh doanh, cần mô tả thị trường một cách cụ thể hơn từ góc độ kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp này dẫn đến yêu cầu hiểu biết về thị trường của doanh nghiệp.Có thể có nhiều cách thức và góc độ khác nhau được sử dụng để mô tả thị trường của doanh nghiệp. Sự khác nhau khi sử dụng các tiêu thức mô tả và phân loại thị trường của doanh nghiệp thường được xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ cần giải quyết. Tuy nhiên, cách thức và mô tả thường được sử dụng đều chỉ có thể có hiệu quả và giúp cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp theo tiêu thức tổng quát. Mô tả thị trường của doanh nghiệp theo tiêu thức tổng quát, thị trường của doanh nghiệp gồm: thị trường đầu vào và thì trường đầu ra.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A8Chuyên đề thực tậpHình 1: Mối liên hệ doanh nghiệp- Thị trường của doanh nghiệp Thị trường đầu vào liên quan đến khả năng và các yếu tố ảnh hưởng đến nguồn cung cấp các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp. Khi mô tả thị trường đầu vào của doanh nghiệp thường sử dụng 3 tiêu thức cơ bản: sản phẩm, địa lý và người cung cấp. Thị trường đầu ra liên quan trực tiếp mục tiêu của marketing là giải quyết vấn đề tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Bất cứ một yếu tố nào dù rất nhỏ, của thị trường này đều có ảnh hưởng ở mức độ khác nhau đến khả năng thành công hay thất bại trong tiêu thụ. Đặc điểm và tính chất của thị trường tiêu thụ là cơ sở để doanh nghiệp hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược, sách lược, cộng cụ điều khiển tiêu thụ.. Để mổ tả thị trường tiêu thụ của doanh nghiệp có thể sử dụng 3 tiêu thức sau: + Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức sản phẩm: Doanh nghiệp thường xác định thị trường theo ngành hàng [dòng sản phẩm] hay nhóm hàng mà họ kinh doanh và bán ra thị trường. Tuỳ theo mức độ mô tả nghiên cứu người ta có thể mô tả ở mức độ khái quát hay cụ thể.+ Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức địa lý: Theo tiêu thức này, doanh nghiệp thường xác định trị trường kinh doanh theo phạm vi khu vực địa lý mà họ có thể vươn tới. Tuỳ theo mức độ rộng hẹp có tính toàn cầu, khu vực hay lãnh thổ cơ thể xác định thị trường của doanh nghiệp.+ Thị trường tiêu thụ theo tiêu thức khách hàng với nhu cầu của họ:Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A9Thị trườngđầu vàoDoanhnghiệpThị trường đầu raChuyên đề thực tập Theo tiêu thức này, doanh nghiệp mô tả thị trường của doanh nghiệp theo các nhóm khách hàng mà họ hướng tới để thoả mãn, bao gồm cả khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng. Về lý thuyết, tất cả những người mua trên thị trường đều có thể trở thành khách hàng của doanh nghiệp và hình thành nên thị trường của doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế thì không phải như vậy: nhu cầu của khách hàng rất đa dạng. Họ cần những sản phẩm khác nhau để thoả mãn nhu cầu trong khi doanh nghiệp chỉ có thể đưa ra thị trường một số loại sản phẩm nhất định. Theo Mc Carthy: " Thị trường có thể được hiểu là các nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự và những người bán đưa ra các sản phẩm khác nhau với các cách thức khác nhau để thoả mãn nhu cầu đó".3. Phân đoạn thị trường Dựa vào giới hạn địa lý của thị trường, nhân khẩu, tâm lý, hành vi và sản phẩm cơ bản, doanh nghiệp có thể chia ra các nhóm khách hàng khác nhau. Mỗi nhóm khách hàng này được gọi là một phân đoạn của thị trường hay một thị trường thành phần. Đặc điểm và yêu cầu đặt ra khi chia nhóm khách hàng, xác định các phân đoạn:- Nhu cầu và hành vi ứng xử của các thành viên thuộc nhóm khác nhau phải có sự khác biệt đủ lớn.- Số lượng khách hàng của mỗi nhóm phải đủ lớn để đạt đến hiệu quả khi khai thác cơ hội kinh doanh.- Lựa chọn chính xác tiêu thức phản ánh sự khác biệt của nhu cầu khách hàng khi sử dụng sản phẩm cơ bản/yếu tố cơ bản hình thành nên sự khác biệt nhu cầu của khách hàng nhằm xác định đặc điểm cụ thể của từng nhóm khách hàngNguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A10Chuyên đề thực tậpHình 2: Minh hoạ phân đoạn thị trường Thị Trường Để phân đoạn, có thể sử dụng nhiều tiêu thức khác nhau phản ánh đặc điểm nhu cầu cụ thể của khách hàng và thái độ của họ đối với sản phẩm. Tuỳ theo mục tiêu và khả năng của doanh nghiệp trong những tình huống cụ thể, các tiêu thức được lựa chọn có thể đạt đến những mức độ chi tiết khác nhau của tính dị biệt. Mức độ chi tiết càng lớn thì khả năng cạnh tranh càng cao nhưng kèm theo đó là quy mô của nhóm khách hàng có nhu cầu đồng nhất càng nhỏ, dung lượng của phân đoạn thị trường thấp và độ rủi ro cao khi dự đoán sai. Khía cạnh này của phân đoạn thực sự tạo ra cơ hội tốt cho người làm marketing khi lựa chọn tiêu thức xác định phân đoạn thị trường. Các tiêu thức đó là:- Nhóm tiêu thức có tính khái quát:+] Phản ánh theo đặc điểm dân cư+] Phản ánh theo nhu cầu lối sống+] Phản ánh theo dạng có ích của sản phẩm+] Phản ánh theo vùng địa lý- Nhóm các tiêu thức chi tiết Để thoả mãn nhu cầu tốt nhất của khách hàng, doanh nghiệp có thể phân tích và tìm ra những đòi hỏi ở mức nhỏ nhất của họ về sản phẩm và cách thức Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A11 Nhóm khách hàng BNhóm khách hàng ANhóm khách hàng C Phân đoạn 2 Phân đoạn 4Phân đoạn 1Phân đoạn 3Chuyên đề thực tậpđáp ứng. Để đáp ứng yêu cầu này, có thể dùng các tiêu thức có tính chi tiết hơn nữa của các tiêu thức thuộc nhóm trên.4. Lựa chọn thị trường mục tiêu Sau khi đã có kết quả phân đoạn – xác định đựơc các nhóm khách hàng có nhu cầu khác biệt trên thị trường, doanh nghiệp cần xác định trường mục tiêu của mình. Thị trường mục tiêu có thể là một hay một số trong các phân đoạn thị trường đã được xác định ở trên. Số phân đoạn thị trường được lựa chọn làm thị trường mục tiêu phải phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và hợp thành thị trường thích hợp của doanh nghiệp. Trên cơ sở đặc trưng nhu cầu của các khách hàng trong từng thị trường mục tiêu, doanh nghiệp có thể lựa chọn, chế tạo sản phẩm hoàn thiện và cách thức phù hợp để đưa ra đáp ứng nhu cầu của khách hàng trọng điểm. Thị trường mục tiêu là thị trường bao gồm các khách hàng có cùng nhu cầu hoặc mong muốn mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng, đồng thời các hoạt động marketing của doanh nghiệp có thể tạo ra ưu thế so với đối thủ cạnh tranh và đạt được các mục tiêu trong kinh doanh đã định. Thị trường mục tiêu chính là những đoạn thị trường hấp dẫn mà doanh nghiệp quyết định lựa chọn để tập trung nỗ lực marketing của mình. Doanh nghiệp có thể quyết định lựa chọn thị trường mục tiêu sau: 4.1. Chọn một đoạn thị trường duy nhất: Thị trường này cần thoả mãn các điều kiện Có sẵn sự phù hợp tự nhiên giữa nhu cầu và sản phẩm của doanh nghiệp Là đoạn chưa có đối thủ cạnh tranh hoặc các đối thủ cạnh tranh bỏ qua Đoạn thị trường được chọn được coi là điểm xuất phát hợp lý, làm đà cho sự mở rộng kinh doanh tiếp theo. 4.2. Chuyên môn hoá tuyển chọn: Doanh nghiệp có thể lựa chọn một số đoạn thị trường riêng biệt làm thị trường mục tiêu. Phương án này thích hợp với các doanh nghiệp có ít hoặc không có năng lực trong việc phân phối các đoạn Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A12Chuyên đề thực tậpthị trường với nhau, nhưng từng giai đoạn đều chứa đựng những hứa hẹn về thành công kinh doanh. 4.3. Chuyên môn hoá theo sản phẩm: Doanh nghiệp có thể tập trung vào sản xuất một chủng loại sản phẩm để đáp ứng cho nhiều đoạn thị trường. 4.4. Chuyên môn hoá theo đặc tính thị trường: Doanh nghiệp có thể lựa chọn một nhóm khách hàng riêng biệt làm thị trường mục tiêu và tập trung nỗ lực vào việc thoả mãn nhu cầu đa dạng của một nhóm khách hàng nào đó. 4.5. Bao phủ toàn bộ thị trường: Mọi khách hàng đều là thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng về những chủng loại sản phẩm họ cần. Thường chỉ có các doanh nghiệp lớn mới áp dụng phương án này.5. Định vị Định vị thị trường còn được gọi là “ xác định vị thế trên thị trường mục tiêu”. Marketing luôn coi định vị thị trường là chiến lược chung nhất, chi phối mọi chương trình marketing được áp dụng ở thị trường mục tiêu. Định vị thị trường là thiết kế sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp nhằm chiếm được một vị trí đặc biệt và có giá trị trong tâm trí khách hàng mục tiêu. Định vị thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải quyết định khuyếch trương bao nhiêu điểm khác biệt và những điểm khác biệt nào giành cho khách hàng mục tiêu. Thực chất của việc triển khai một chiến lược định vị thị trường chính là xác định cho sản phẩm và doanh nghiệp một vị trí nhất định trên thị trường mục tiêu sao cho nó có một hình ảnh riêng trong tâm trí khách hàng [ khách hàng có thể nhận thứcvà đánh giá được về sản phẩm của doanh nghiệp] và có khả năng cạnh tranh với các đối thủ trên cùng một thị trường mục tiêu. Như vậy, marketing coi định vị thị trường là tất yếu vì nó thể hiện qua ba lý do sau:- Quá trình nhận thức của khách hàngNguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A13Chuyên đề thực tập- Yêu cầu tất yếu để cạnh tranh- Hiệu quả của hoạt động truyền thông6. Lựa chọn chiến lược Lập chiến lược kinh doanh theo quan điểm marketing của công ty là một quá trình quản trị nhằm tạo ra và duy trì sự ăn khớp về chiến lược giữa các mục tiêu và khả năng của công ty với các cơ hội marketing đầy biến động.Cần phải nhấn mạnh từ “ chiến lược” ở đây không phải lúc nào cũng đồng nghĩa hoàn toàn với từ “ dài hạn” mà nó thể hiện những cố gắng của công ty nhằm đạt tới một vị trí mong muốn xét trên vị thé cạnh tranh và sự thay đổi của hoàn cảnh. Như vậy, quá trình lập chiến lược kinh doanh theo quan điểm marketing của một công ty là sự thể hiện của việc tìm hiểu và nhận biết những yếu tố môi trường marketing bên ngoài, đánh giá những điều kiện và khả năng bên trong của công ty để soạn thảo các chiến lược kinh doanh nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định. Hình 3: Quá trình lập chiến lược công ty được mô tả minh hoạ qua sơ đồ sau: 7. Chính sách marketing mix Marketing mix là việc sắp xếp, phối hợp các yếu tố: sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến mà doanh nghiệp sử dụng tác động vào thị trường mục tiêu nhằm đạt được mục tiêu đã hoặch định.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46AXác định cương lĩnh của doanh nghiệpĐề ra nhiệm vụChiến lược phát triển hợp nhấtKế hoạch phát triển lĩnh vực 14Chuyên đề thực tập7.1. Chính sách về sản phẩm Sản phẩm là tất cả những cái, những yếu tố có thể thoả mãn nhu cầu hay ước muốn được đưa ra chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng. Đối với một doanh nghiệp khi muốn làm tốt việc tiêu thụ sản phẩm của mình cần có những chính sách, chiến lược về sản phẩm như sau: Phát triển sản phẩm: các sản phẩm của doanh nghiệp cần được mở rộng tại thị trường mục tiêu mà doanh nghiệp đã xác định. Cải tiến chất lượng, đặc điểm, ứng dụng: Khách hàng luôn là người muốn thoả mãn nhu cầu tốt nhất của mình. Để đáp ứng được nhu cầu thay đổi về các sản phẩm thì doanh nghiệp cần có các biện pháp cải tiến tăng thêm nhiều ứng dụng, đặc điểm mới cho sản phẩm về cả mẫu mã và chất lượng. Hợp nhất dải sản phẩm: - Quy chuẩn mẫu mã: sản phẩm của doanh nghiệp cần phải có một mẫu mã riêng biệt để có thể nhận biết với sản phẩm của các doanh nghiệp khác và tạo uy tín của doanh nghiệp mình thông qua sản phẩm theo mẫu mã doanh nghiệp đặt ra.- Định vị: sản phẩm của doanh nghiệp phải được tiêu thụ ở thị trường mà doanh nghiệp xác định là thị trường mục tiêu để tăng khả năng bán hàng của mình.- Nhãn hiệu: sản phẩm của doanh nghiệp luôn mang một nhãn hiệu riêng biệt để giúp khách hàng biết tới tên doanh nghiệp.7.2. Chính sách về giá Nhằm đạt được đã xác định cho giá, doanh nghiệp cần đưa ra các quyết định rõ ràng về chính sách giá của mình. Các chính sách giá đúng cho phép doanh nghiệp có thể định giá và quản lý giá có hiệu quả trong kinh doanh. Chính sách định giá thể hiện sự lựa chọn đúng đắn các tình huống cần giải Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A15Chuyên đề thực tậpquyết khi đặt mức giá giúp cho việc chấp nhận giá và ra quyết định mua sắm của khách hàng được dễ ràng hơn. Các chính sách thường được áp dụng gồm:a. Chính sách về sự linh hoạt của giá Chính sách linh hoạt của giá phản ánh cách thức sử dụng mức giá như thé nào đối với các đối tượng khách hàng. Doanh nghiệp phải lựa chọn giữa chính sách một giá hay chính sách giá linh hoạt. Chính sách một giá: đưa ra một mức giá đối với tất cả các khách hàng mua hàng trong cùng các điều kiện cơ bản. Chính sách giá linh hoạt: đưa ra cho khách hàng khác nhau các mức giá khác nhau trong cùng các điều kiện cơ bản và cùng khối lượng.b. Chính sách về mức giá theo chu kỳ sống của sản phẩm Chính sách giá này thường được đưa ra để lựa chọn mức giá cho các sản phẩm mới. Mức giá cụ thể có thể ảnh hưởng lớn đến thời gian cần thiết để vượt qua phân kỳ “ xâm nhập thị trường” và khả năng bán hàng ở các phân kỳ tiếp theo do mức độ hấp dẫn của cạnh tranh và sản phẩm thay thế. Tuy theo điều kiện cụ thể có thể lựa chọn các chính sách khác nhau. Chính sách giá “hớt váng”: Đưa ra mức giá cao nhất - cố gắng bán ở mức giá cao nhất của thị trường nhằm tăng tối đa việc hớt phần ngon của thị trường. Áp dụng mức giá này với sản phẩm mới, độc đáo. Chính sách giá “ xâm nhập”: đưa ra một mức giá thấp để có thể bán được hàng hoá với khối lượng lớn trên thị trường. Áp dụng mức giá này cho sản phẩm mới nhưng mang tính tương tự[ thay thế] hoặc sản phẩm cải tiến, trên thị trường mới và đặc biệt trên thị trường không lý tưởng. Chính sách giá “ giới thiệu”: đưa ra mức giá thấp bằng cách cắt giảm tạm thời để lôi kéo sự chú ý và dùng thử của khách hàng. Áp dụng mức giá này trong thời gian ngắn khi doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A16Chuyên đề thực tập Chính sách giá “ theo thị trường”: đưa ra mức giá trên cơ sở phân tích giá của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Áp dụng mức giá này khi có mặt đối thủ cạnh tranh.c. chính sách giá theo chi phí vận chuyển. Để thoả mãn nhu cầu khách hàng, sản phẩm phải được vận chuyển đến địa điểm sự dụng theo yêu cầu của khách hàng. Các mức giá dựa trên chính sách về chi phí vận chuyển thường được xác định dựa trên ba loại chính. Giá giao hàng theo địa điểm: Điểm giao hàng và chi phí vận chuyển liên quan đến nó là cơ sở để xem xét giá. Loại giá này lấy địa điểm giao hàng cụ thể giữa bên mua và bên bán làm căn cứ để xác định mức giá hàng hoá. Có hai trường hợp xác định mức giá có tính đến chi phí vận chuyển.- Địa điểm giao hàng được xác định trước bởi bên bán- Địa điểm giao hàng được xác định theo yêu cầu của khách hàng. Giá giao hàng theo vùng: Các mức giá được xác định không theo địa điểm cụ thể hàng đến mà theo vụng địa lý đã xác định trước. Chính sách này sử dụng để tạo nên sự hấp dẫn đối với khách hàng ở xa địa điểm bán hàng của doanh nghiệp. Giá giao hàng đồng loạt: Các mức giá được xác định theo chi phí vận chuyển bình quân cho tất cả mọi người mua trên một thị trường. Tất cả các khách hàng trên thị trường xác định trả cùng một khoản tiền cho việc vận chuyển. Với giá này, người bán có thể bán ở tất cả mọi nơi theo cùng một giá. Giá vận chuyển hấp dẫn: Được sử dụng khi lựa chọn chính sách giá theo địa điểm nhưng lại muốn có được vị thế cạnh tranh tốt ở các khu vực thị trường xa và nhằm thu hút khu vực thị trường mới. Doanh nghiệp trong trường hợp này có thể cắt giảm giá công bố để thu hút khách hàng.d. Chính sách hạ giá và chiếu cố giáNguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A17Chuyên đề thực tập Hạ giá là sự giảm giá công bố, việc giảm giá không chỉ để bán được hàng mà còn phải đạt được mục tiêu đề ra trong kinh doanh. Có nhiều trường hợp khác nhau cần xem xét để quyết định giảm giá. Hạ giá theo khối lượng nhằm khuyến khích mua nhiều: giúp doanh nghiệp tăng khối lượng bán bằng những điều kiện cho khách hàng. Hạ giá theo thời vụ: Khuyến khích khách hàng tích trữ sớm hơn các nhu cầu đòi hỏi hiện tại nhằm chuyển chức năng dự trữ vào lưu thông hoặc san đều mức bán cả năm. Hạ giá theo thời hạn thanh toán: - Bán hàng trả chậm: đưa ra các mức hạ giá nhằm khuyến khích thanh toán trước thời hạn quy định trong hợp đồng.- Bán hàng trả ngay: theo quy định là phải trả ngay nhưng doanh nghiệp cũng có thể cho khách hàng chậm 10, 20 hay 30 ngay. Nhưng nếu trả trước 10 ngày sẽ được giảm 2%, trước 20 ngày giảm 1%, còn 30 ngày thì phải đủ. Hạ giá theo đơn đặt hàng trước: Việc này khuyến khich người mua đặt hàng trước để tạo điều kiện thuận lợi và tránh rủi ro, khó khăn khi bán hàng. Các hợp đồng này giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được hoạt động của mình tốt hơn. Hạ giá ưu đãi: Khoản hạ giá này nhằm vào củng cố mối quan hệ truyền thống, lâu dài với khách hàng trọng điểm cần giữ vững hoặc lôi kéocủa doanh nghiệp. Hạ giá tiêu thụ hạng tồn kho: Mục tiêu chính của khoản hạ giá này nhằm giảm bớt các thiệt hại do không bán được hàng, chi phí dự trữ và thu hồi vốn. Hạ giá theo truyền thống: Đây là khoản bớt giá cho người trung gian để họ thực hiện tốt trong khâu lưu thông hàng hoá. Các chính sách chiếu cố giá- Tiền chênh lệch giành cho quảng cáo- Tiền chênh lệch kích thích bán hàngNguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A18Chuyên đề thực tập- Thu hồi sản phẩm cũ bán sản phẩm mới- Tặng vế xổ số, phiếu trúng thưởng7.3. Chính sách phân phối Quyết định về kênh là phức tạp và thách thức các công ty phải thông qua. Mỗi hệ thống kênh khác nhau sẽ tạo ra một mức tiêu thụ và chi phí khác nhau. Khi đã lựa chọn được kênh thì việc duy trì nó trong lâu dài là điều quan trọng. Kênh được lựa chọn sẽ chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố trong marketing mix. Những người trung gian được sử dụng khi họ có được khẳ năng thực hiện những chức năng của kênh có hiệu quả hơn với người sản xuất. Những chức năng và dòng quan trọng nhất của kênh là thông tin, khuyến mãi, thương lượng, đặt hàng, tài trợ, gánh chịu rủi ro, quyền chiếm hữu vật chất, thanh toán và quyền sở hữu. Những chức năng marketing này quyết định toàn bộ khả năng tiêu thụ của doanh nghiệp. Nhà sản xuất có nhiều kênh để vươn tới thị trường, họ có thể bán trực tiếp hay sử dụng kênh ngắn hay kênh dài. Thiết kế kênh đòi hỏi phải xác định kết quả của dịch vụ [ Quy mô lô, thời gian chờ đợi, điều kiện thuận lợi về địa điểm, mức độ đa dạng của sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ ], xác định những mục tiêu và hạn chế của kênh, xây dựng những phương án kênh chủ yếu [ kiểu và số lượng người trung gian, phân phối ồ ạt, độc quyền hay có chọn lọc], điều kiện và trách nhiệm của kênh. Mỗi phương án kênh phải được đánh giá theo các tiêu chuẩn kinh tế, khả năng kiểm soát và khả năng thích ứng. Quản lý kênh đòi hỏi phải tuyển chọn được những trung gian cụ thể, đôn đốc, động viên họ bằng mối quan hệ làm ăn lâu dài đôi bên cùng có lợi. Mục đích là xây dựng quan hệ cộng tác và cùng lập kế hoạch phân phối. Từng cá nhân thành viên của kênh cần được định kỳ đánh giá thông qua việc so sánh mức tiêu thụ của riêng họ với mức tiêu thụ của các thành viên khác trong kênh. Vì môi trường marketing không ngừng thay đổi, nên định kì phải tiến hành cải biến kênh. Công ty phải đánh giá việc bổ sung hay loại bỏ người Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A19Chuyên đề thực tậptrung gian hay từng kênh và khả năng cải tiến toàn bộ hệ thống kênh. Kênh phân phối có đặc điểm thay đổi liên tục và đôi khi đột biến. Ba trong số những xu hướng quan trọng nhất là sự phát triển các hệ thống marketing ngang dọc và đa kênh. Tất cả các hệ thống kênh đều tiềm ẩn mâu thuẫn dọc, ngang và đa kênh phát sinh từ xung khắc khác về mục đích và vai trò quyền hạn không giới hạn không rõ ràng khác biệt vầ nhận thức và sự phụ thộc quá nhiều. Những mâu thuẫn này có thể giải quyết thông qua những mục đích tối cao, trao đổi người, bầu vào lãnh đạo, liên kết trong các hiệp hội mậu dịch, ngoại giao, trung bình hoà giải và trọng tài phân xử.7.4. Chính sách xúc tiến Xúc tiến có vai trò quan trọng như: kích thích hiệu quả của lực lượng bán hàng, kích thích các hàng hoá bằng cách giảm giá các sản phẩm, hoặc giữ nguyên giá mà tăng chất lượng của sản phẩm. Chính vì vậy, xúc tiến thương mại là những hoạt động quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.Để bán tiêu thụ được sản phẩm của doanh nghiệp thì việc đưa ra những chính sách về xúc tiến là một yếu tố cần thiết để thực hiện công việc cuối cùng này. Xúc tiến thương mại nó bao gồm các hoạt động chính sau:a. Quảng cáo: là việc người bán sử dụng các phương tiện truyền thông có trả tiền để truyền đi thông tin thuyết phục về sản phẩm, dịch vụ hay doanh nghiệp tới khách hàng và thúc đẩy họ mua. Quảng cáo cáo có nhiều hình thức và được thiết kế nhằm đạt được những mục tiêu rất khác nhau. Việc thông qua quyết định quảng cáo là một quá trình 5 bước gồm xác định mục tiêu, quyết định ngân sách, quyết định thông điệp, quyết định phương tiện truyền thông và đánh giá hiệu quả của quảng cáo. Như vậy, để có một trương trình quảng cáo phù hợp với doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần phải lực chọn các hình thức quảng cáo phù hợp với sản phẩm của mình.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A20Chuyên đề thực tậpb. Khuyến mại: là những công cụ nhằm khuyến khích dùng thử và tăng lượng bán ngay lập tức nhằm cung cấp cho khách hàng những lợi ích bổ sung. Để xây dựng một chương trình khuyến mại, doanh nghiệp phải, xác định khách hàng mục tiêu và đặc điểm của họ; xác định mục tiêu khuyến mại; lựa chọn kênh truyền thông; xác định ngân sách khuyến mại; đánh giá kết quả của chương trình khuyến mại. Công cụ khuyến mại chủ yếu là : hàng mẫu, quà tặng, phiếu thưởng, giảm giá… Doanh nghiệp sử dụng chính sách khuyến mại trong từng điều kiện cụ thể để làm tăng khả năng bán hàng bằng các phương pháp cụ thể như đã nói trên.c. Tuyên truyền: là công cụ truyền thông quan trọng có tác dụng rất lớn để tạo nên mức độ nhận biết và sự ưa thích trên thị trường, định vị sản phẩm và bảo vệ vị trí đã có. Những công cụ tuyên truyền chủ yếu là các ấn phẩm, sự kiện, tin tức… Việc lập kế hoạch tuyên truyền bao gồm xác định mục tiêu, lựa chọn thông điệp, phương tiện thích hợp và đánh giá kết quả tuyên truyền.d. Bán hàng trực tiếp: là công cụ quan trọng để tác động trực tiếp đến khách hàng tạo nên hành động mua và thu nhận thông tin phản hồi ngay lập tức. Bán hàng cá nhân đòi hỏi phải có kỹ năng và nghệ thuật và phải được tiến hành theo một quy trình nhất định. Doanh nghiệp phải tổ chức lực lượng bán hàng thông qua những quyết định về mục tiêu, chiến lược, cơ cấu, quy mô và chế độ thù lao. Việc quản lý lực lượng bán hàng bao gồm việc tuyển chọn nhân viên bán hàng, đào tạo, hướng dẫn, động viên và đánh giá họ.e. Marketing trực tiếp: là một hệ thống tương tác của marketing sử dụng một hay nhiều phương tiện truyền thông quảng cáo [ gửi thư trực tiếp, catalog, qua vô tuyến truyền hình…] để tạo ra hành động mua của khách hàng ở bất cứ địa điểm nào. Nó có những ưu nhược điểm là đảm bảo tính chọn lọc, phù hợp với từng cá nhân, tính liên tục, có thể thử nhiệp, đảm bảo bí mật cho doanh nghiệp. Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A21Chuyên đề thực tậpTừ những nội dung của hoạt động xúc tiến, doanh nghiệp phải luôn luôn có những chính sách hợp lý để làm tốt công việc tạo mối quan hệ với khách hàng từ đó thu hút khách hàng tiêu dùng sản phẩm của mình, mỗi một giai đoạn của một quá trình xúc tiến là một quá trình doanh nghiệp nghiên cứu tìm tòi để có chính sách tiêu thụ hoàn hảo thu được lợi nhuận cao mà vẫn dữ được uy tín với khách hàng.8. Đánh giá hiệu quả hoạt động marketing Thông qua xác định các chỉ tiêu:- Doanh số và khối lượng hàng hoá bán ra;- Tỷ phần thị trường; tỷ lệ chi phí marketing so với doanh số bán;- Các tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu, vốn, chi phí kinh doanh;- Mức độ hài lòng của khách hàng;- Khả năng sinh lời của các hoạt động marketing Để đánh giá mức độ nỗ lực của doanh nghiệp trong kinh doanh.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A22Chuyên đề thực tậpCHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING Ở CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU LÂM SẢN HOÀNG ANHI. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU LÂM SẢN HOÀNG ANH1. Lịch sử ra đời, chức năng, nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của công ty 1.1. Lịch sử ra đời Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng anh được thành lập ngày 18 tháng 02 năm 2003 do sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp theo số 0103001875. Trụ sở chính của công ty là Thôn Thiết Bình, Xã Vân Hà, Huyện Đông Anh, Thành phố Hà nội. Công ty ra đời nhằm phát triển ngành nghề truyền thống của địa phương. Đây là địa phương có nhiều làng nghề mỹ nghệ được cả nước công nhận. Vì thế đây là một lợi thế giúp cho công ty phát huy hết khả năng kinh doanh của mình về chế biến, buôn bán gỗ. Sau gần 5 năm hoạt động, công ty đã có những bước phát triển mạnh mẽ và không ngừng. Đặc biệt là sản phẩm của công ty đã đáp ứng được nhu cầu trong trong và ngoài nước. Có thể thấy rõ, chiến lược phát triển của công ty là từ trong khu vực địa phương ra ngoài khu vực của cả nước và quốc tế. Sự phát triển của công ty luôn gắn liền với các sản phẩm được nhiều người dân ưa chuộng và tin tưởng. Công ty đã có nhiều đơn đặt hàng trong và ngoài nước. Công ty được thành lập do hai cổ đông. Các thành viên này đều là những người giàu kinh nghiệm và trình độ kinh doanh. Giám đốc công ty là người tự đứng lên điều hành quá trình sản xuất và xuất nhập khẩu các nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất, chế biến thành phẩm. Công ty luôn đặt chữ tín - chất lượng - dịch vụ hoàn hảo làm phương châm và cũng là triết lý kinh doanh của công ty, cũng như là đảm bảo cho sự thành công của công ty và đồng thời góp phần phát triển bền vững không ngừng của làng nghề truyền thống có từ nhiều đời nay.Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A23Chuyên đề thực tập1.2. Bộ máy tổ chức Hình 4: Bộ máy tổ chức công ty Vì là công ty tư nhân nhỏ nên bộ máy tổ chức đơn giản chỉ gồm có kế toán, nhân viên bán hàng và các nhân viên sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ. Giám đốc là người có quyền hành cao nhất trong công ty, mọi quá trình hoạt động của công ty đều theo sự điều hành của giám đốc. Các quyết định của giám đốc sẽ là điều kiện để các nhân viên làm theo và thực hiện quá trình hoạt động. Kế toán là người giữ vai trò quyết toán về sổ sách của công ty. Mọi hoạt động của công ty đều ghi chép trong sổ sách để kiểm tra quá trình hoạt động của công ty xem có hiệu quả hay không. Đồng thời kế toán còn là người theo dõi sổ kế toán để biết được các khoản thu và chi của công ty. Nhân viện sản xuất là người thực hiện việc sản xuất sản phẩm theo chiến lược phát triển của công ty do giám đốc ban hành. Các sản phẩm tạo ra phải tuân theo sự giám sát của giám đốc và các sản phẩm này phải sản xuất đúng như giám đốc yêu cầu. Nhân viên bán hàng là các nhân viên phục vụ quá trình tiêu thụ sản phẩm của công ty sau khi đã sản xuất, chế biến trong quá trình hoạt động. Quá trình hoạt động của công ty được gắn liền các bộ phận với nhau nên tạo cho công ty một sự liên kết trong hoạt động. Điều này sẽ giúp cho công ty phát triển một cách có hiệu quả hơn trong quá trình kinh doanh hiện nay. Hoạt Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A24Bộ phận bán hàngBộ phận sản xuấtPhòng kế toánGiám ĐốcChuyên đề thực tậpđộng của công ty không chỉ trong nội bộ của doanh nghiệp mà còn liên kết với các doanh nghiệp khác để tạo thêm tài chính cũng như nguồn vốn cho công ty. Hiện nay thì công ty đang liên kết chặt chẽ với cơ quan ngân hàng công thương SacoBank để tạo thêm nguồn vốn giúp công ty mở rộng thị trường hơn nữa.1.3. Chức năngThứ nhất, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh ra đời có chức năng quan trong chính là phát triển làng nghề truyền thống Thứ hai, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh ra đời đáp ứng được nguồn nguyên liệu trong quá trình tao ra các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ của địa phương và cả nước. Thứ ba, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh ra đời sẽ tạo ra quá trình đẩy nhanh tiêu thụ sản phẩm cho công ty để tiếp tục quá trình sản xuất và phát triển đem lại lợi nhuận cho công ty. Thứ tư, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh ra đời góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh doanh của địa phương nên một tầm cao mới, thoát khỏi tình trạng nghèo làn. Thứ năm, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh ra đời là cơ sở để người tiêu dùng có thể nhận biết được sản phẩm của công ty. Từ đó, công ty sẽ được biết đến thông qua sản phẩm của minh và luôn giữ được lòng tin đối với khách hàng. Thứ sáu, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh ra đời cũng là điều kiện để việc kiểm tra của nhà nước được thuận lợi bằng cách thực hiện đúng với nghĩa vụ đối với nhà nước về các khoản thuế phải nộp cho nhà nước. Thứ bảy, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu lâm sản Hoàng Anh ra đời sẽ đáp ứng và thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng do ngày nay khách hàng Nguyễn Văn Sâm Lớp: Thương mại 46A25

Trích đoạn Giải phỏp về chiến lược kinh doanh và chiến lược marketing của cụng ty Giải phỏp trong lĩnh vực marketing của cụng ty Giải phỏp khỏc CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP 1 Điều kiện về tài chớnh:

Page 2

Video liên quan

Chủ Đề