Mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản

Mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [104.27 KB, 8 trang ]

Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề bài:
Câu 1: Anh [chị] hãy làm rõ mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở
thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc?
Nêu ý nghĩa, lý luận và thực tiễn của luận điểm?
Câu 2: Chứng minh cốt lõi trong tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn
liền với Chủ nghĩa xã hội?

Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
Bài làm:
Câu 1:
Mối quan hệ giữa cách mạng vô sản ở thuộc địa và cách mạng
vô sản ở chính quốc:
Trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhất là thời kỳ
trước khi nổ ra cách mạng tháng Mười Nga, luôn tồn tại quan điểm cho
rằng, thắng lợi của cách mạng ở các nước thuộc địa phụ thuộc trực tiếp
vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Ý kiến này đã giảm
tính chủ động, sáng tạo của cách mạng thuộc địa. Theo HCM, giữa
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và CM vô sản ở chính quốc
có mối liên hệ mật thiết với nhau, có tác động qua lại lẫn nhau trong
cuộc đấu tranh chống kể thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối liên
hệ bình đẳng chứ không phải là mối liên hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ
chính – phụ. Năm 1925, HCM viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa
có một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một vòi khác bám
vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy,
người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi
thôi, thì cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản; con vật
vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”
Dựa vào quan điểm của Mác, “sự nghiệp giải phóng của giai cấp
công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”. Nguyễn


Ái Quốc đi đến kết luận: “công cuộc giải phóng anh, em [nhân dân
thuộc địa] chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh
Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
em”. Khối liên minh các dân tộc thuộc địa sẽ là một trong những cái
cánh của cách mạng thế giới. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả
năng cách mạng to lớn. Theo Hồ Chí Minh, khối liên minh các dân tộc
thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. Phát biểu
tại Đại hội V Quốc tế cộng sản [tháng 6-1924], Người khẳng định vai
trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa: “Vận mệnh của giai cấp
vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước
đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”, nếu xem thường
cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn bằng đuôi”. Người
chỉ trích, đã có nhiều người: “…lại xem thường các thuộc địa trong lúc
chủ nghĩa tư bản lại dựa vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng
chí”. Người khẳng định: Cách mạng thuộc địa không những không phụ
thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi
trước, và: “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ
nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh
em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Như vậy đây được coi là một luận điểm mang tính sáng tạo và có ý
nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám và
30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam [1945-1975] đã chứng minh
cho tinh thần độc lập tự chủ, tính khoa học, tính cách mạng và sáng tạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, soi đường cho dân tộc Việt Nam tiến lên. Theo luận điểm này của
Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
HCM, Đảng ta đã chủ trương thay đổi chiến lược, kiên quyết giương
cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc

lập dân tộc lên hàng đầu. Nắm vững tư tưởng cách mạng giải phóng
dân tộc của HCM, cả dân tộc Việt Nam đã tiến hành hai cuộc kháng
chiến chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới suốt 30 năm và đã giành
được thắng lợi trước hai kẻ thù lớn mạnh hơn chúng ta rất nhiều đó là
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Với luận điểm này, HCM đã chủ động
lãnh đạo nhân dân trong việc giải phóng dân tộc, đồng thời cũng mở ra
con đường mới cho các nước ở Châu Á, Châu Phi và Mĩ La Tinh.
Thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam và sự sụp đổ của hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã chứng minh quan điểm của
HCM là hoàn toàn đúng đắn. HCM không tự khuôn mình trong những
nguyên lý sẵn có, không rập khuôn máy móc lý luận đấu tranh giai cấp
vào điều kiện lịch sử ở thuộc địa, mà là sự kết hợp hài hòa vấn đề dân
tộc với vấn đề giai cấp, giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai
cấp và giải quyết vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc, gắn độc lập dân
tộc với phương hướng xã hội chủ nghĩa. Lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc của HCM là một đóng góp lớn vào kho tàng lý luận cách mạng
của thời đại, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng
thuộc địa. Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của
HCM hết sức độc đáo và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn. HCM đã
sử dụng quan điểm toàn diện, biện chứng để phân tích so sánh lực
lượng giữa ta và địch. Phát huy và sử dụng sức mạnh của toàn dân tộc,
dựa vào sức mạnh toàn dân tộc để tiến hành khởi nghĩa vũ trang và
Website: //www.docs.vn Email : Tel : 0918.775.368
chiến tranh cách mạng, kết hợp các quy luật của khởi nghĩa và chiến
tranh là điểm độc đáo trong phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc
của HCM. HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của
Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ,
sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Đó là một di sản
tư tưởng quân sự vô giá mà HCM đã để lại cho Đảng và nhân dân ta.

Tư tưởng đó đã thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu
nước Việt Nam, góp phần quyết định trong việc xác lập con đường cứu
nước mới, làm cho phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang
quỹ đạo cách mạng vô sản. Lý luận này đã bổ sung vào kho tàng lý
luận của lịch sử loài người và thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng HCM về vấn
đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, chúng ta phải biết khơi
dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động
lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước, nhận thức và giải quyết
vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, chăm lo xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các dân tộc
anh em và trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Chuyên đề 2 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, GIẢI PHÓNG GIAI CẤP, GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

Thứ hai - 22/04/2013 20:00
.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Trong lịch sử hànng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã nhiều lần phải đương đầu với kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp bội và từ thực tiễn đấu tranh chống ngoại xâm, đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và bài học quý báu. Trí tuệ đánh giặc, giữ nước là một trong những đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam.

Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hành trang truyền thống, bản lĩnh và trí tuệ của dân tộc. Người đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm hiểu thêm tư tưởng của một số nhà yêu nước lỗi lạc trên thế giới, nâng lên tầm cao mới của thời đại, gắn quyện thành tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

I. Sự thống nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do.

- Dân tộc là sản phẩm của quá trình phát triển lâu dài lịch sử. Từ những hình thức cộng đồngthị tộc, bộ tộc, bộ lạc đầu tiên đã hình thành nên các cộng đồng dân tộc, các quốc gia dân tộc. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nô dịch các dân tộc nhược tiểu, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc trở thành vấn đề thời đại.

- Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.

Thấm đượm tinh thần yêu nước truyền thống Việt Nam, trong tư tưởng Hồ Chí Minh cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập...”[1]. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng Pháp, Người hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống quyền sung sướng và quyền tự do.

- Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các đồng minh thắng trận trong chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Người gửi đến Hội nghị hòa bình Vécxây một bản yêu sách 8 điểm đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản yêu sách đã không được dư luận chú ý đến. Người rút ra bài học: “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”[2].

- Trong Chánh cương vắn tắt cũng như trong Lời kêu gọi sau khi thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chính trị của Đảng là:

“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến

b. Làm cho nước Nam được hoàn thành độc lập”[3]

- Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”[4]. Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân ta trong một câu nói bất hủ: “Dù có phải đối cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải quyết giành cho được độc lập!”....

- Cách mạng Tháng Tám thành công, người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước quốc dân đồng bào và thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[4].

- Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: “... thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[2].

- Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam, mở rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không chỉ được tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.

2. Kết hợp nhuần nhuyển dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.

- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc cần được tiến hành dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là một vấn đề lý luận quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Theo Người, chỉ đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết được đúng đắn vấn đề dân tộc.

- Ra đi tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng cho dân tộc mình theo con đường của cách mạng vô sản. Người viết rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít thắng lợi trong một nước nào đó,... thì đó càng là thắng lợi cả cho người An Nam”[5].

- Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán quan điểm sai trái của một số đảng cộng sản châu Âu trong cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, vị trí cũng như tương lai của cách mạng thuộc địa. Người đưa ra dư luận điểm: các dân tộc thuộc địa phải dựa vào sức của chính mình, đồng thời biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc, rồi từ thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới.

- Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở những luận điểm sau đây:

+ Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước.

Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”[6];“Người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[7]. Nguyễn Ái Quốc kiến nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi,... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[8].

+ Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ khi gặp được Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong bài Cuộc kháng chiến viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nói về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”[4].

Năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng [tức cách mạng dân tộc – dân chủ] để đi tới xã hội cộng sản [tức cách mạng xã hội chủ nghĩa].

Đến năm 1960, Người khẳng định lại rõ hơn: “... chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”[5].

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp.

+ Độc lập cho dân tộc mình đồg thời độc lập cho tất cả các dân tộc.

Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc, “dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

Ngay từ năm 1941, trên đất Anh, Người nói: “Chúng ta phải tranh đấu cho tự do, độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy”. Người đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “Giúp bạn là tự giúp mình”, và chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.

+ Giành độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con người.

Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ thương nước, thương nòi, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn liền mục tiêu giải phóng dân tộc với việc mang lại hạnh phúc cho nhân dân.

Người lựa chọn con đường giải phóng dân tộc trên lập trường vô sản chính vì cách mạng vô sản không chỉ giải phóng giai cấp công nhân mà còn giải phóng mọi giai cấp và tầng lớp khác thoát khỏi sự áp bức, bóc lột giai cấp. Người nói: giành độc lập rồi phải xây dựng chủ nghĩa xã hội vì chủ nghĩa xã hội “làm cho dân giàu, nước mạnh”,... “làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”.

Quan điểm giải phóng con người của Hồ Chí Minh được nâng lên, trở thành tâm điểm của hoạt động cách mạng của Người. Khi chưa giành được độc lập, Người thể hiện ý chí độc lập bằng câu nói “dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng quyết giành cho được tự do, độc lập”. Nhưng sau đó Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân khôn được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”[9]. Do đó theo tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Hồ Chí minh viết: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc,... đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”[2].

Như vậy, tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người luôn luôn gắn chặt, hòa quyện với nhau trong ttư tưởng Hồ Chí minh.

II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể tóm tắt thành một hệ thống các luận điểm như sau:

1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con đường của cách mạng vô sản.

- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản.

- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.

2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.

- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành công”[10]

- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[2].

- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin.

3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công – nông.

Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người khẳng định cái cốt của nó là công – nông, “công nông là người chủ cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”[11].

- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.

- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...[12]

- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”[13]. Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp”[14].

4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản [tháng 6-1924], Hồ Chí Minh đã phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”[15];“nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”[16], nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”[6].

- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em [tức nhân dân thuộc địa] chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”[6].

- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước.

- Khẳng định vị trí và vai trò của cách mạng giải phóng thuộc địa trong mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[17].

Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang trong nhân dân.

Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trò của quần chúng nhân dân, bản chất phản động của chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.

- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương.. mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.

- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả nước.

Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.

Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.


[1] T.Lan: vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.15.

[2] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Sự thật, Nà Nội,1986, tr.31.

[3] [4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.3, tr.1, 198.

[4] [2] Sđd, t.4, tr.4, 480.

[5] Sđd, t.1, tr.469.

[6], [2] ,[3] Sđd, t.1, tr.466,467.

[7] . Sđd, tr.416.

[8] . Sđd, t.10, tr.128.

[9], [2] . Sđd, t.4, tr.56, 161.

[10], [2] . Sđd, t.2, tr.267-268.

[11] . Sđd, tr.266.

[12] Sđd, t.3, tr.3.

[13] Sđd, t.2, tr.266.

[14] Sđd, t.3, tr.3

[15], [5],[6] . Sđd, t.1, tr.273, 274.

[16] Sđd, t.2, tr.128.

[17] Sđd, t.1, tr.36.

Nội dung Mối quan hệ giữa cách mạng vô sản thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc Chứng minh cốt lõi tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH lt tư tưởng gt

Trước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Mối quan hệ giữa cách mạng vô sản thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc Chứng minh cốt lõi tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH lt tư tưởng gt để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các trang.
Bạn lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 8 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần tải.

Xem preview Mối quan hệ giữa cách mạng vô sản thuộc địa và cách mạng vô sản chính quốc Chứng minh cốt lõi tư tưởng HCM là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH lt tư tưởng gt

Nếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.Nếu sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam

Ngày đăng: 16/10/2015 02:25
Mặc định Cỡ chữ

Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và quốc tế. Trước yêu cầu mới, chúng ta cần nhận thức, vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của Người để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế.

Bác Hồ tại Đại hội Đảng Cộng sản Pháp [1920]. Ảnh: internet
Từ đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận rõ tính tất yếu của sự tác động qua lại giữa các yếu tố dân tộc và quốc tế. Người nhận ra rằng, ngày nay, sự thống trị và bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đã mang tính toàn cầu: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[1]. Vì vậy, “thế giới sẽ chỉ có nền hoà bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó”[2]. Thực tế đó đã giúp Hồ Chí Minh nhận ra mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữa phong trào cách mạng của một dân tộc với phong trào cách mạng thế giới. Vì vậy, đối với Người, sự kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng của mỗi dân tộc là một tất yếu lịch sử. Mối quan hệ đó, theo Người, được thể hiện trên những phương diện sau:
Thứ nhất, yếu tố dân tộc mang tính quyết định đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhìn nhận dân tộc như là những yếu tố nội sinh, có vai trò quyết định đối với sự phát triển, thắng lợi của cách mạng. Theo Người, ở các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, vì độc lập dân tộc như Việt Nam thì đấu tranh dân tộc là một động lực lớn của lịch sử. Người khẳng định: “…người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[3], tức chủ nghĩa dân tộc bản xứ. Người đặt vấn đề phải khai thác triệt để yếu tố dân tộc, sức mạnh của tinh thần dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa. Từ đó, Hồ Chí Minh đi tới một kiến nghị có tính cương lĩnh hành động đối với Quốc tế Cộng sản và những nguời cộng sản là phải biết chủ động nắm lấy, phát huy và “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản”[4]. Làm được điều đó, những người cộng sản sẽ thực hiện được “một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”. Và, “khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[5].
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mặc dù, Hồ Chí Minh luôn nêu cao chủ nghĩa quốc tế và đoàn kết quốc tế, nhưng Người cũng luôn khẳng định tính quyết định của yếu tố nội sinh, đề cao lợi ích dân tộc. Người nhấn mạnh: phải có tinh thần dân tộc vững chắc, muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm, và phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ.Hồ Chí Minh khẳng định: “Cũng như trong thời kỳ kháng chiến, phương châm của ta hiện nay là: Tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ”[6]. Những thành tựu của cách mạng Việt Nam 85 năm qua ta càng thấy rõ giá trị quan điểm đó của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, các yếu tố quốc tế có tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam.
Khi nhấn mạnh yếu tố dân tộc, Hồ Chí Minh không xem nhẹ sự giúp đỡ quốc tế. Người đã đánh giá hết sức đúng đắn và chủ động tiếp nhận sự giúp đỡ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện mà “cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới”[7] thì “thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa”[8]. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ động “kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức”[9].
Từ khi tham gia Đảng Xã hội Pháp, nhiều lần Hồ Chí Minh đặt vấn đề với các đồng chí của mình: “Nếu các đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc thuộc địa, thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?”[10]. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã tận dụng được sự giúp đỡ của quốc tế, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức, đặc biệt là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cách mạng Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, những kinh nghiệm cách mạng, những giá trị văn hóa quốc tế cũng là những yếu tố có ý nghĩa quan trọng. Người đánh giá cao kinh nghiệm du kích ở Liên Xô. Năm 1951, trong lời tựa cho cuốn “Tỉnh uỷ bí mật”, Người khẳng định: “Kinh nghiệm du kích ở Liên Xô sẽ giúp thêm chúng ta, và chúng ta nhất định thành công trong việc đẩy mạnh phong trào du kích”[11], Người luôn nhắc đến: “những kinh nghiệm dồi dào của các nước anh em”, “học tập những gương tốt của các nước anh em”.
Sự tiếp nhận các yếu tố quốc tế được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh nhận thức ý nghĩa phổ quát và sức mạnh vô địch của chủ nghĩa Mác - Lênin. Truyền bá vào Việt Nam, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tạo ra một kiểu mẫu về sự kết hợp dân tộc và quốc tế. Người viết “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng…trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”[12].
Thứ ba, đặc điểm dân tộc - điều kiện để tiếp nhận các yếu tố quốc tế
Các yếu tố quốc tế, mặc dù có ý nghĩa phổ biến nhưng trên thực tế, chúng được sản sinh ra trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định, chúng có hình thức biểu hiện đặc thù trong những thời đại và những xã hội cụ thể nhất định. Vì vậy, để có thể tiếp nhận các yếu tố quốc tế, cần phải tính đến tương quan giữa các yếu tố quốc tế với các yếu tố dân tộc cụ thể là “đặc điểm dân tộc”:“Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”[13]. Như vậy, đặc điểm dân tộc là điều kiện để tiếp nhận các yếu tố quốc tế, để kết hợp một cách hợp lý các yếu tố dân tộc và quốc tế nhằm tạo ra động lực cho sự phát triển. Nhờ đó, Hồ Chí Minh đã xác định được chính xác những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta cũng như ở những nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay, nhất là trong bối cảnh thế giới và khu vực còn nhiều biến động, việc vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và quốc tế luôn có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết. Trên cơ sở kế thừa tư tưởng của Người, cần phải thực hiện tốt những vấn đề sau đây:
Một là, nhận thức đúng đắn việc giải quyết mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và quốc tế đối với sự phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, nhận diện được xu thế thời đại, tăng sức mạnh của cách mạng nước ta. Chúng ta không chỉ tìm đồng minh ở các nước lớn và các nước bạn bè mà còn phải dựa vào xu thế lớn của thời đại. Đây cũng là cơ sở để trước những thời điểm mang tính bước ngoặt của cách mạng, chúng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước.
Hai là, phát triển đất nước phải gắn liền với xu thế chung của thế giới và thời đại. Trong quá trình phát triển của đất nước, nắm vững xu thế phát triển của thế giới và quan hệ quốc tế, gắn kết mục tiêu cách mạng của nhân dân ta với các quốc gia, các dân tộc là nền tảng của sự thành công. Qua đó, tạo được sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ, đoàn kết các quốc gia, dân tộc trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập và tiến bộ.
Ba là, kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân tộc với quốc tế, trong đó lấy dân tộc là nền tảng. Việc mở rộng không ngừng quan hệ quốc tế vì mục tiêu hòa bình, độc lập và phát triển phải coi yếu tố dân tộc là nền tảng. Giữ vững độc lập, tự chủ, bản sắc, truyền thống tốt đẹp của dân tộc trở thành yêu cầu quan trọng của hội nhập. Do đó, tiếp nhận yếu tố quốc tế trên nền tảng dân tộc là cách đi đúng hướng và hiệu quả. Hội nhập sao cho vừa gắn kết được Việt Nam với thế giới, dân tộc với thời đại mà vẫn giữ được tính độc lập, tự chủ, vẫn duy trì và phát huy được bản sắc riêng của mình.
ThS. Nguyễn Tùng Lâm - Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
---------------------------------
[1], [2], [3], [4], [5], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.1, tr.320, 17, 513, 513, 512,
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.56
[7], [8], [10], [12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, t15, tr.392, 392, 585, 589-590
[9] Sđd, tập 12, tr.417
[11] Sđd, tập 7, tr.237
[13] Sđd, tập 11, tr.97

Theo: lyluanchinhtri.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề