Lê đại hành quê ở đâu

Anh hùng kiệt xuất

Lê Hoàn sinh vào năm Tân Sửu [941], chưa được bao lâu thì Ngô Vương Quyền băng hà [944]. Lớn lên trong cảnh đất nước rối ren loạn lạc, Lê Hoàn trở về quê hương Bảo Thái dựng một ngôi nhà nhỏ nơi vườn của cụ Lê Lộc để ở và thờ ông nội.

Tượng thờ Lê Đại Hành.

Trong thời gian ở đây, Lê Hoàn đã liên kết với ông Nguyễn Minh người làng Vực tổ chức tập hợp nghĩa quân. Năm 24 tuổi, ông cùng Nguyễn Minh tụ tập nghĩa quân tiến vào Hoa Lư phò tá Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn 12 sứ quân.

Sau khi đất nước thống nhất giang sơn thu về một mối, triều đình nhà Đinh chia cả nước thành 10 đạo. Năm 971, Lê Hoàn được Đinh Bộ Lĩnh phong giữ chức Thập đạo tướng quân lúc ông vừa tròn 30 tuổi, Nguyễn Minh được phong phó thập đạo tướng quân.

Không những thế, Lê Hoàn còn được Hoàng đế tin cậy trao cho chức Điện tiền chỉ huy sứ trực tiếp chỉ huy đạo quân bảo vệ kinh đô và triều đình.

Sau sự biến Đỗ Thích sát hại cha con vua Đinh, một thời gian ngắn Lê Hoàn trở thành Hoàng đế. Trên cương vị người đứng đầu quốc gia, Lê Hoàn đã lãnh đạo quân và dân Đại Cồ Việt đánh bại đạo quân xâm lược của đế chế Đại Tống vào năm 981. Không chỉ là là vị anh hùng dân tộc trong sự nghiệp chống ngoại xâm, Lê Hoàn còn là nhân vật có nhiều đóng góp kiệt xuất trong công cuộc lãnh đạo, xây dựng đất nước, phát triển văn hóa và đặc biệt là hoạt động ngoại giao nhằm nâng cao vị thế đất nước tạo sự kính trọng của các nước lân cận.

3 thuyết về quê Lê Hoàn

Để làm rõ vấn đề quê hương Lê Hoàn ở đâu, gần đây các nhà sử học đã xem xét lại toàn bộ những tài liệu trước đây.

Thuyết nói về quê hương Lê Hoàn ở Ái Châu [Thanh Hóa], sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên soạn năm 1479 nêu ra sớm nhất “Vua họ Lê, húy là Hoàn, người Ái Châu… cha là Minh, mẹ là Đặng Thị”. Sách Việt sử tiêu án chép: “vua Lê, tên Hoàn người Ái Châu”; Sách Lịch triều hiến chương loại chí chép: “Đại hành Hoàng đế họ Lê, tên Hoàn, ở Ái Châu”…

Một số nhà nghiên cứu về sau, dựa vào các sách trên cùng đồng tình quê Lê Hoàn ở Ái Châu, chẳng hạn cuốn Các triều đại Việt Nam do Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hoàng đưa ra chi tiết: Mẹ Lê Hoàn là Đặng Thị Sen [mà không gọi là Đặng Thị] và nêu địa danh cụ thể: Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa.

Thuyết nói Lê Hoàn quê ở Trường Châu [Ninh Bình]. Ý kiến này được thể hiện trong cuốn Việt sử lược: “Đại hành vương húy Hoàn, họ Lê người Trường Châu, cha là Mịch, mẹ họ Đặng. Khi xưa có mang nằm mộng thấy trong bụng có cánh hoa sen, bỗng chốc kết thành hạt, lấy hạt ấy chia cho mọi người ăn, khi tỉnh dậy không hiểu duyên cớ ra sao”.

Ở một đoạn khác, Việt sử lược cho biết “Năm Ất Tỵ, hiệu Ứng Thiên năm thứ 11 [1005] vua mất ở điện Trường Xuân, gọi là Đại Hành Vương, nhân lấy làm miếu hiệu, ở ngôi 27 năm, thọ 65 tuổi cải nguyên 3 lần, an táng tại Đức lăng”. Trường Châu được Việt sử lược đưa ra lần đầu tiên là quê gốc của Lê Hoàn và cho biết cha tên là Mịch, mẹ họ Đặng.

Thuyết nói quê Lê Hoàn ở Hà Nam. Thuyết này xuất hiện hơn 30 năm lại đây và được sự chú ý, nhờ việc so sánh đối chiếu các thư tịch cũ và đặc biệt là việc công bố những tư liệu khảo sát, điền dã ở các địa phương.

Đã có một số nhà sử học thuộc viện Sử học Việt Nam, khoa sử trường Đại học Tổng hợp [nay là Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn] nêu ra nghi ngờ những ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư, đồng thời đưa ra nhận định: Lê Hoàn quê ở Bảo Thái, Hà Nam.

[còn nữa]

Trịnh Dương [Khoa học & Đời sống]

Vua Lê Đại Hành có tên húy là Lê Hoàn, ông sinh năm 941 mất năm 1005. Gia đình của Lê Đại Hành rất nghèo khó, cha ông là Lê Mịch và mẹ ông là Đặng Thị Sen. Về quê hương thật sự của ông đến nay các nhà sử học chưa có kết luận chính xác là Hà Nam, Ninh Bình hay Thanh Hóa. 

Khám phá tiểu sử vua Lê Đại Hành

Bởi lẽ Việt sử lược ghi rằng Lê Đại Hành là người Trường Châu - vùng đất Ninh Bình, Đại Việt sử ký toàn thư lại nêu ông là người Ái Châu tuy nhiên nhà sử học Trần Quốc Vượng cho ý kiến rằng Lê Đại Hành sinh ra tại Hà Nam song song nhận định của Hà Nam Ninh rằng quê nội của Lê Đại Hành ở Thanh Liêm - Hà Nam,... Có thể thấy thông tin về quê hương cũng như thân thế của vua Lê Đại Hành đến nay vẫn mang nhiều nguồn thông tin khác nhau.

Tại Hội thảo khoa học diễn ra năm 1981 tồn tại nhiều vấn đề chung của thế kỷ X, về thân thế, quê hương và sự nghiệp của Lê Đại Hành dần dần được giải quyết.      

Lê Đại Hành có tất cả 5 Hoàng hậu với 11 người con trai và 1 người con nuôi và mọi người con trai của ông đều được phong vương. 

Thời điểm Lê Đại Hành lên ngôi cũng là lúc nhà Tiền Lê của nước Đại Việt được sáng lập. 

2.1. Chiến công hiển hách 

Cha mẹ của Lê Đại Hành qua đời sớm nhưng ông may mắn được một vị quan tên Lê Đột cưu mang và nhận nuôi. Đến tuổi trưởng thành, Lê Đại Hành nối gót Đinh Liễn và từ đó lập nhiều chiến công. Lê Đại Hành chỉ huy 2000 binh sĩ trong cuộc đánh dẹp loạn 12 sứ quân, hỗ trợ đắc lực cho Đinh Bộ Lĩnh từ đó thống nhất đất nước năm 968. Sau chiến công đó, ông được đảm nhiệm chức Thập đạo tướng quân - vị tướng chỉ huy tới mười đạo quân song song chức vụ tổng chỉ huy quân đội toàn nước Đại Cồ Việt cùng lãnh đạo đội quân cấm vệ thuộc triều đình Hoa Lư. Vào thời điểm khi đó Lê Đại Hành mới 27 tuổi.

Chiến công hiển hách

Hai cha con Đinh Tiên Hoàng cùng Đinh Liễn bị sát hại vào tháng 10 năm 979, vệ vương Đinh Toàn lên ngôi vua khi 6 tuổi. Lê Đại Hành đảm nhiệm vai trò Nhiếp chính và có quyền tự do đi lại vào cung cấm. Bên cạnh Đinh Tiên Hoàng lúc đó là các đại thần thân cận như Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp - nhân vật chống lại Lê Đại Hành nhưng nhanh chóng bị Lê Đại Hành hạ gục tiêu diệt. Không lâu sau, Phò mã Ngô Nhật Khánh trốn thoát vào miền Nam, vua Chiêm Thành cùng hơn nghìn thuyền chiến lớn lên kế hoạch tấn công kinh đô Hoa Lư nhưng gặp bão dìm chết.   

2.2. Đón nhận ngai vàng

Nhìn nhận triều đình Hoa Lư lâm vào tình trạng rối ren, vị vua Tống [Trung Quốc] đe dọa buộc triều Đinh phải đầu hàng và nhà Tống lăm le cho quân tấn công nhằm chiếm Đại Cồ Việt. Trước diễn biến căng thẳng đó, Thái hậu Dương Vân Nga với tướng Phạm Cự Lạng cùng các triều thần tôn Lê Hoàn lên ngôi. 

Lê Hoàn chính thức lên làm vua [theo sử cũ gọi là Lê Đại Hành] lấy niên hiệu là Thiên Phúc cùng giữ nguyên quốc hiệu Đại Cồ Việt và đóng đô tại Hoa Lư, Ninh Bình. Sau đó ông giao cho em của Phạm Hạp làm đại tướng quân.  

Đón nhận ngai vàng

Tuy xuất phát điểm không được may mắn nhưng Lê Đại Hành không hề nản chí và thể hiện rõ năng lực của mình kể từ khi lên ngôi vua.

3. Vị Hoàng đế Phá Tống - bình Chiêm

Đề cập tới một trong những chiến công vang dội nhất của vua Lê Đại Hành, chắc chắn phải nói đến trận chiến đánh bại quân nhà Tống và xứ Chiêm Thành.

3.1. Phá Tống

Khoảng đầu năm 981, vua nhà Tống cho quân sang tấn công Đại Cồ Việt và cử các tướng cầm quân chia 2 đường thủy bộ gồm cánh bộ di chuyển theo mạn Lạng Sơn còn thủy tiến vào khu vực sông Bạch Đằng.

Tháng 4 năm 981, quân của các vị tướng Hầu Nhân Bảo, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng lần lượt đến Ngân Sơn, Tây Kết và sông Bạch Đằng. Vua Lê Đại Hành đích thân làm tướng chống Tống và sai người cắm cọc để tạo dựng bãi cọc ngăn sông. Trên sông Bạch Đằng, quân Đại Cồ Việt ta chặn đánh thủy quân Tống song những chiếc thuyền chiến của quân Tống đều bị đâm thủng bởi những chiếc cọc sông cho dù thế trận áp đảo. Chính vì vậy quân Tống không thể nào xâm nhập sâu vào nội địa, thủy quân Tống đành nhận thất bại. Tướng Tôn Toàn Hưng lưỡng lự không dám tiến tiếp nên dừng quân đến hơn 70 ngày, Hầu Nhân Bảo vì hiếu chiến nên tự tin đem quân của mình tấn công sông Thương. 

Vua Lê Đại Hành đích thân làm tướng 

Thời điểm quân của Hầu Nhân Bảo tiến đến Chi Lăng, vua Lê Đại Hành đánh lạc hướng Hầu Nhân Bảo bằng cách vờ xin hàng rồi sau đó cho quân binh ập ra đánh dữ dội.                

Sau chiến thắng lớn của hai trận Bạch Đằng và Tây Kết, quân lính nhà Lê giết được Hầu Nhân Bảo và bắt sống được Triệu Phụng Huân và Quách Quân Biện và loạt tướng nhà Tống phải tháo chạy về nước. Hoàng đế Lê Đại Hành chưa thực hiện mai phục giữa trận cọc địa và phục binh bởi chiến sĩ lúc này không diễn ra mau chóng.  

3.2. Bình Chiêm   

Khi người Chiêm Thành đã xây dựng được một quốc gia độc lập từ năm 192 thì người Việt đang đắm chìm dưới nô dịch của phong kiến phương Bắc. Từ khi lập nước, Chiêm Thành thường xuyên tiến hành hoạt động quân sự phối hợp với Đại Cồ Việt. 

Vào năm 982, Lê Đại Hành cử Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ Chiêm Thành nhưng bị vua Chiêm phát hiện và bắt giữ. Vì lẽ đó, Hoàng đế Lê Đại Hành nổi giận cho người sửa sang binh khí, đóng chiến thuyền và đích thân làm tướng đi đánh. Ông chém Bê Mi Thuế ngay tại trận, Chiêm Thành thất bại nặng nề. Chưa dừng lại ở đó quân lính Đại Việt còn bắt sống được vô vàn quân sĩ, kỹ nữ trong cung và một ông sư và đem về số lượng lớn vàng bạc. Chiến thắng này của vua Lê Đại Hành đã phá hủy tông miếu, san phẳng thành trì.

Vị vua phá hủy tông miếu, san phẳng thành trì

Xuyên suốt thời gian trị vì 24 năm của Lê Đại Hành - một người luôn chú tâm tới phía Nam tổ quốc, ông tự cầm quân chống lại nhiều thế lực xâm lấn đã bảo vệ tuyệt đối miền biên giới song mở rộng thêm lãnh thổ của quốc gia độc lập Đại Việt.      

4. Lê Đại Hành - vua trị nước cùng tài cầm quân 

Nắm trong tay vận mệnh của đất nước, ông luôn luôn lãnh đạo và chỉ huy quân binh của mình đúng người đúng thời điểm.    

4.1. Ông vua trị nước 

Vua Lê Đại Hành là một vị vua vừa có tài, khéo ngoại giao song giữ thể hiện cho đất nước để không bị một nước lớn nào chèn ép. Không những vậy, ông còn quan tâm đặc biệt tới chính sự của nước nhà, của nhân dân và coi trọng việc biên phòng với những quy định pháp lệnh. Nói có sách mách có chứng, sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng Lê Đại Hành bởi Hoa Lư thịnh vượng hơn cả thời nhà Đinh. Không thể phủ nhận những điều đó không phải đời vua nào trong lịch sử dân tộc Việt Nam cũng làm được.

Vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tiền Lê chứng tỏ mình là tấm gương cho một người chí công vô tư - không để thú oán cá nhân can thiệp vào việc chung. Như đã đề cập ở trên, ông tiêu diệt Phạm Hạp bởi tội làm loạn nhưng coi trọng em của Phạm Hạp là Phạm Cự Lạng và thăng chức tới thái úy chỉ huy quân đội.

Ông vua trị nước 

Bên cạnh đó, một người cùng bị giết với Phạm Hạp - Nguyễn Đê [con trai của Nguyễn Bặc] được cân nhắc làm quan văn quan võ của nhà Tiền Lê tuy nhiên Lê Đại Hành không chút mảy may phòng ngừa chính Nguyễn Đê - người mà tham gia tôn Lý Công Uẩn lên làm vua thay nhà Tiền Lê.    

Các đại thân từng rất thân thiết với Tiên Hoàng như Lưu Cơ, Trịnh Tú - hai nhân vật thuộc bộ tứ là “Điền, Bặc, Tú, Cơ” vốn theo vua Đinh từ những ngày đầu cũng được Lê Đại Hành trọng dụng mà không màng tới chuyện “cùng bè đảng” với Đinh Điền và Nguyễn Bặc. Chính nhờ sách lược trọng dụng người tài và lòng người khoan dung nên Lê Đại Hành thu phục được nhân tâm, như bước đệm quan trọng để ông củng cố sức mạnh đất nước trong tình thế khó khăn - hai miền Nam Bắc đồng thời bị uy hiếp.      

4.2. Hoàng đế có tài cầm quân   

Lê Đại Hành là vị Hoàng đế vừa có tâm và có tầm: nhạy bén, hiểu biết và rất tài trong lịch sử Việt Nam. Ông được các sử gia nhiều đời nhận định tích cực, ca ngợi võ công bởi tài năng chiến thắng trong cuộc đánh dẹp dù là nhà Đường hay nhà Hán từ đó giữ yên bờ cõi và bảo vệ bình yên cho dân tộc.

Từ thời dẹp loạn 12 sứ quân, Lê Đại Hành sớm bộc lộ năng lực và bản lĩnh của mình dù trẻ tuổi. Chỉ từ giai đoạn chính thức lên nắm trong tay vận mệnh của đất nước, ông mới thực sự phô diễn hết tài năng trong mình. Không những các công thần kỳ cựu của nhà Đinh mà các tướng phương Bắc chưa bao giờ là đối thủ cân tài cân sức với ông. 

Hoàng đế có tài cầm quân  

Cho dù đời sau có cho rằng việc đánh dẹp của Lê Đại Hành là hợp lẽ hay trái lẽ thì tài cầm quân của vị vua này đều khó có thể phủ nhận và hơn hết là một ông vua trị nước có tiếng trong lịch sử dân tộc. 

5. Sự nghiệp trị vì nước Đại Cồ Việt 24 năm 

Là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, Lê Đại Hành có sự nghiệp hào hùng như thế nào?  

5.1. Lĩnh vực kinh tế

Khi làm vua, Lê Đại Hành cho xây dựng nhiều công trình, phát triển sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp cho đất nước được hưng thịnh. Ông là vị vua khởi đầu lễ tịch điền dưới chế độ phong kiến Việt Nam nhằm khuyến khích sản xuất lĩnh vực nông nghiệp. 

Lê Đại Hành đồng thời là vị vua tiên phong triển khai đào sông. Công trình đào sông thời nhà Lê do Lê Đại Hành khởi xướng là con đường giao thông đường thủy nội địa đầu tiên tại Việt Nam, đến nay di tích lịch sử này vẫn tồn tại ở Thanh Hóa. Sự kiện đó đã trở thành một trong những phương châm hành động của một số triều đại Việt Nam từ lịch sử cho đến sau này. Cụ thể, từ con sông do Lê Đại Hành khai phá đến thời Lê đã trải rộng khắp miền Trung Bộ và tới thời Nguyễn thì sông đào đã xuất hiện trên mọi miền Việt Nam.    

5.2. Nền ngoại giao

Là người dẫn đầu vào tạo lập những nguyên tắc cơ bản cho nền ngoại giao Đại Việt, nhà Tông phải khuất phục trước sức mạnh cũng như thế lực của quốc gia Đại Cồ Việt và đã phong cho vua Lê Đại Hành những tước vị cao quý còn tôn thờ ông qua những câu thơ bi tráng. 

Vị vua có công lao to lớn với đất nước

Vận dụng chính sách ngoại giao mềm dẻo đi đôi với thái độ cương quyết khiến vua Tống chấp thuận những lời đề nghị yêu cầu của mình: nhà Tống cắt cử sứ giả đưa thư tới địa giới và báo tin.

Trên đây là toàn bộ thông tin về tiểu sự, cuộc đời của vị Hoàng đế Lê Đại Hành. Hy vọng rằng timviec365.vn đã gửi gắm tới bạn những chia sẻ thật sự hữu ích.

Tiểu sử Lê Thánh Tông - Vị vua tài giỏi trong lịch sử Việt Nam

Là người mang tới thời hoàng kim cho chế độ phong kiến của Đại Việt, Lê Thánh Tông được mọi người luôn nhớ đến là hoàng đế vĩ đại trong lịch sử Việt Nam nói chung và triều đại nhà Lê nói riêng. Khá nhiều người đồn đoán rằng ông chính là người đứng sau kế hoạch hoàn hảo để sắp xếp mọi thứ cũng như đánh bại và tiêu diệt Lê Nghi Dân từ đó lên ngôi cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên theo thời gian, với năng lực và bản lĩnh của Lê Thánh Tông, ông đã khẳng định mình là vị Hoàng đế bậc nhất và vị vua có một không hai trong lịch sử. Cùng timviec365.vn tìm hiểu về tiểu sử cũng như cuộc đời của vị vua này bạn nhé!

Lê Thánh Tông

Video liên quan

Chủ Đề