Định lượng glucose là gì
ĐỊNH LƯỢNG GLUCOSE NGUYÊN LÝ Glucose là carbohydrate quan trọng nhất lưu hành trong máu ngoại vi. Quá trình đốt cháy glucose là nguồn chính cung cấp năng lượng cho tế bào. Glucose máu được định lượng theo phương pháp động học có sự tham gia của enzzym hexokinase: HK Glucose + ATP --------------> G6P + ADP G6PDH G6P + NADP+ ----------------> Gluconate-6-P + NADPH + H+ Đo tốc độ tăng mật độ quang của NADPH ở bước sóng 340 nm. CHUẨN BỊ Người thực hiện Bác sỹ hoặc kỹ thuật viên được đào tạo chuyên ngành Hóa sinh Phương tiện, hóa chất Máy móc: hệ thống máy sinh hóa Thuốc thử: sẵn sàng sử dụng. R 1: buffer, NADP . . . R 2: HK, G6PDH. . . Bảo quản ở 2-80C đến khi hết hạn sử dụng, 12 tuần khi để trên máy phân tích. Các loại dung dịch hệ thống khác: Chuẩn, nước muối sinh lý Control: 2 mức Vật tư tiêu hao: ống lấy máu, kim tiêm, bông, cồn, găng tay … Người bệnh Được giải thích trước khi thực hiện xét nghiệm, tốt nhất là nhịn ăn sáng và lấy máu vào buổi sáng. Phiếu xét nghiệm Có đầy đủ thông tin về người bệnh bao gồm tên, tuổi, khoa phòng, chẩn đoán, tình trạng mẫu, tên bác sỹ chỉ định, các loại thuốc đã sử dụng (nếu có) … CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH Lấy bệnh phẩm Bệnh phẩm phải được lấy đúng kỹ thuật vào ống tiêu chuẩn. Ly tâm trước khi tiến hành kỹ thuật. Có thể sử dụng huyết thanh hoặc huyết tương. Bệnh phẩm phải được ly tâm tách lấy huyết thanh, huyết tương ngay. Bảo quản ở 15-250C trong vòng 8 giờ, ở 2-80C được 72 giờ. Rã đông một lần. Để bệnh phẩm, chuẩn, control ở nhiệt độ phòng (20-250C) và lắc đều trước khi tiến hành xét nghiệm. Tiến hành kỹ thuật Máy móc, hóa chất đã được cài đặt và chuẩn trước khi thực hiện phân tích. Control nằm trong miền cho phép tùy thuộc vào kỹ thuật, thuốc thử của từng công ty. Thông thường chạy control 2 miền: bình thường và bất thường. Đối chiếu với luật về nội kiểm chất lượng nếu đạt thì tiến hành phân tích mẫu. Đưa bệnh phẩm vào phân tích theo protocol của máy. Khi có kết quả thì phân tích và đối chiếu với phiếu xét nghiệm và trả kết quả. NHẬN ĐỊNH KẾT QUẢ Bình thường: + Người lớn: 3. 9 – 6. 4 mmol/l + Trẻ em: 3. 3 – 5. 6 mmol/l + Trẻ sơ sinh: 2. 2 – 4. 4 mmol/l Glucose máu tăng trong: + Đái tháo đường + Viêm tuỵ, ung thư tuỵ. + U tuỷ thượng thận. + Cường giáp. Glucose máu giảm trong: + Suy tuyến yên, suy tuyến giáp. + Bệnh Insulinoma. + Thiếu dinh dưỡng. NHỮNG SAI SÓT VÀ XỬ TRÍ
Glucose là hợp chất rất quan trọng đối với cơ thể, là nguồn cung cấp năng lượng cho tất cả các hoạt động sống của con người. Chỉ số glucose máu giúp chúng ta đánh giá được định lượng glucose trong máu, từ đó làm cơ sở xác định bệnh tiểu đường. Glucose là tên khoa học của đường - một loại gia vị rất quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Cơ thể cần glucose để duy trì hoạt động. Khi thiếu glucose, các cơ quan không được cung cấp đủ năng lượng sẽ dẫn đến hoa mắt, chóng mặt, ớn lạnh, thậm chí là ngất, hiện tượng này gọi là hạ đường huyết, thường xảy ra khi đói. Trong hầu hết các loại thức ăn hàng ngày đều có glucose. Các enzym tiêu hóa sẽ phân tách glucose từ thức ăn. Glucose được đốt cháy tại các tế bào, tạo ra năng lượng cho cơ thể và khí CO2, H2O. Glucose trong máu là gì? Định lượng glucose trong máu còn được gọi là chỉ số đường huyết hay nồng độ glucose trong máu. Chỉ số này cho biết định lượng glucose hiện có trong máu. Định lượng glucose trong máu của mỗi người là khác nhau, có thể biến đổi theo từng phút, từng giờ. Dựa vào định lượng này có thể xác định bệnh tiểu đường. Định lượng glucose trong máu ở mức bình thường vào buổi sáng (khi chưa ăn uống gì) là khoảng từ 70 mg/dl – 92 mg/dl (tương đương 3,9 mmol/l – 5,0 mmol/l). Sau khi ăn khoảng 1 - 2 tiếng, nồng độ glucose trong máu sẽ tăng lên, nhưng vẫn ở dưới ngưỡng 120 mg/dl. Nếu định lượng glucose trong máu ở cao hơn mức kể trên thì có khả năng mắc bệnh tiểu đường hoặc rối loạn dung nạp glucose. Xác định nồng độ glucose trong máu thường được chỉ định khi nghi ngờ mắc bệnh tiểu đường. Kết quả xét nghiệm sẽ cho biết lượng đường có trong máu tại thời điểm lấy mẫu thử. Thông thường, mẫu thử sẽ được lấy vào lúc đói, khi bệnh nhân đã nhịn khoảng 6 - 10 tiếng đồng hồ hoặc có thể lấy máu vào một thời điểm ngẫu nhiên. Máu được lấy từ tĩnh mạch đem đi xét nghiệm. Nếu chỉ số glucose trong máu thuộc mức bình thường như đã nêu ở trên thì cơ thể khỏe mạnh, nếu cao hơn nghĩa là bạn đã mắc tiểu đường. Cần lưu ý ở phụ nữ có thai, chỉ số đường huyết thường thấp hơn bình thường, ở ngưỡng 70,9 mg/dl ± 7,8 (3,94 mmol/l ± 0,43) vào lúc đói. Định lượng glucose trong máu Như đã nói, glucose rất quan trọng đối với cơ thể. Tuy nhiên, nếu nồng độ glucose trong máu quá cao có thể gây một số nguy hiểm cho sức khỏe như:
Xét nghiệm đường huyết là xét nghiệm quan trọng, cần thực hiện định kỳ để sớm phát hiện bệnh tiểu đường và có phương án điều trị kịp thời, ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm có thể gặp phải do bệnh gây ra. XEM THÊM: Video đề xuất:
Đường ảnh hưởng tới não chúng ta như thế nào
Cập nhật: 9:41, 10/10/2019 Lượt đọc: 72715
6 Xét nghiệm để chẩn đoán phát hiện đái tháo đường.
Đái tháo đường là một bệnh phổ biến trong xã hội hiện nay. Khi xã hội càng phát triển việc sử dụng thực phẩm, hóa chất, thuốc... không được kiểm soát làm số lượng người bị tiểu đường ngày càng tăng lên. Đặc biệt bệnh tiểu đường đang có xu hướng trẻ hóa.
6 XÉT NGHIỆM ĐỂ CHẨN ĐOÁN PHÁT HIỆN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG Đái tháo đường là một bệnh phổ biến trong xã hội hiện nay. Khi xã hội càng phát triển việc sử dụng thực phẩm, hóa chất, thuốc... không được kiểm soát làm số lượng người bị tiểu đường ngày càng tăng lên. Đặc biệt bệnh tiểu đường đang có xu hướng trẻ hóa. Ai cũng có thể mắc tiểu đường, và nếu như không được phát hiện và kiểm soát sớm thì bệnh tiểu đường sẽ gây ra những biến chứng vô cùng nguy hiểm ở mắt, thận, mạch máu, chi...
Có những bệnh nhân do không xét nghiệm phát hiện thường xuyên đến khi đi xét nghiệm đường máu đã lên tới hàng chục mmol/L, có những người đã xuất hiện các biến chứng rất nặng mới đi xét nghiệm thì mới biết mình bị tiểu đường. Vì vậy hãy thường xuyên đi xét nghiệm để phát hiện bệnh đái tháo đường sớm nhất từ đó kiểm soát lại lượng đường máu tránh những biến chứng đáng tiếc xảy ra. Nhưng xét nghiệm cái gì để phát hiện bệnh tiểu đường. Xét nghiệm tiểu đường ngườita chia ra làm 3 nhóm:
Trong khuôn khổ bài viết này tác giả xin trình bày về 6 xét nghiệm cơ bản để phát hiện bệnh đái tháo đường. 6 xét nghiệm này bao gồm: Xét nghiệm đường niệu, xét nghiệm đường máu ngẫu nhiên, xét nghiệm đường máu lúc đói, đường máu sau ăn 2h, nghiệm pháp tăng đường huyết bằng đường uống, nghiệm pháp tăng đường huyết bằng đường tiêm.
1. Xét nghiệm đường niệu (Glucose nước tiểu). Bình thường glucose sẽ được tái hấp thu gần như hoàn toàn tại ống thận. Chỉ có khoảng 0,5 mmol/24h. Vì vậy các xét nghiệm thông thường không phát hiện được và coi như "Âm tính". Bình thường ngưỡng của thận với glucose là 1,6-1,8 g/L (160-180 mg/dL) hay 8,9-10 mmol/L. Khi lượng đường trong máu vượt quá giá trị này, thận sẽ khônghấp thu được hết và sẽ xuất hiện glucose trong nước tiểu. Trước kia glucose niệulà một xét nghiệm dùng để sàng lọc đái tháo đường. Tuy nhiên hiện nay vai trò của nó đã bị giảm đi vì:
2. Định lượng glucose máu ngẫu nhiên. Theo WHO, 1 trong các tiêu chuẩn để chẩnđoán đái tháo đường là xét nghiệm đường máu tại thời điểm bất kỳ≥200 mg/dl (≥ 11,1 mmol/l) với huyết tương hoặc ≥ 180mg/dl (≥ 10,0mmol/l) với máu toàn phần. Như vậy ta có thể tiến hành xét nghiệm chẩn đoán đái tháo đường tại thời điểm bất kỳ mà không cần phải quan tâm đến bệnh nhân đã ăn hay chưa, đã ăn được bao lâu. Nếu cứ thấy đường máu≥ 11,1 mmol/l thì kết luận đái tháo đường. Tuy nhiên nếu kết quả đường máu ở thời điểm bất kỳ mà < 7,8mmol/L thì cần làm thêm nghiệm pháp tăng đường huyết để khẳng định. Việc định lượng đường máu có2 cách. Một là lấy máu ly tâm tách huyết tương và xét nghiệm trên các hệ thống máy hóa sinh bán tự động hoặc tự động. Hai là sử dụng các máy đo đường huyết các nhân để đo ngay máu toàn phần từ mao mạch. Để đảm bảo tính chính xác nên dùng cách 1.
Đây là xét nghiệm phổ biến hay dùng nhất hiện nay để chẩn đoán đái tháo đường. Bình thường glucose huyết tương khi đói khoảng 4,4 -5,0 mmol/L. Nếu như xét nghiệm thấy đường máu lúc đói (sau ăn 8h)≥126 mg/dl (≥ 7,0 mmol/l) ở 2 lần xét nghiệm gần nhau thì được coi là đái tháo đường. Lưu ý là đường máu trong huyết tương cao hơn trong máu toàn phần khoảng 10-15%. Như vậy:
4. Xét nghiệm glucose máu sau ăn 2 giờ. Xét nghiệm thứ 4 là định lượng glucose sau ăn 2h. Xét nghiệm được thực hiện bằng cách lấy máu bệnh nhân sau khi bệnh nhân ăn được 2h. Bữa ăn của bệnh nhân sẽ có khoảng 100g carbonhydrat và các chất dinh dưỡng khác. Nếu xét nghiệm đường máu sau ăn của bệnh nhân 2h thấy kết quả nồng độ glucose trong huyết tương ≥ 11,1 mmol/l thì sẽ được coi là chỉ điểm của bệnh đái tháo đường. Còn nếu nồng độ glucose < 6,7 mmol/L được coi là bình thường. Tuy nhiên xét nghiệm này hiện nay ít được sử dụng mặc dù khá đơn giản bởi vì:
5. Nghiệm pháp tăng glucose máu bằng đường uống. Nghiệm pháp này rất có giá trị và được dùng để khẳng định ở những bệnh nhân có nồng độ glucose huyết tương > 6,4 mmol/L nhưng < 7,0 mmol/L. Nghiệm pháp được tiến hành như sau:
6. Nghiệm pháp tăng glucose máu bằng đường tiêm tĩnh mạch Nghiệm pháp này không phổ biến và ít dùng vì gây cảm giác sợ cho bệnh nhân. Nghiệm pháp được chỉ định trong các trường hợp bệnh nhân kém hấp thu hoặc không có khả năng dung nạp glucose bằng đường uống. Nghiệm pháp được tiến hành bằng các tiêm glucose tĩnh mạch với liều lượng 0,5g/kg thể trọng. Sau khi tiêm tiến hành lấy máu và định lượng lại glucose 10 phút 1 lần trong vòng 60 phút. Trên đây là 6 xét nghiệm dùng để chẩn đoán đái tháo đường. Hy vọng qua bài viết các bạn đã hiểu thêm về các xét nghiệm trong bệnh tiểu đường./.
Khoa XN và CĐHA Nguồn tin : tuyenlab.com
|