Đa dạng sinh học khu vực nam trung bộ và tây nguyên

[TN&MT] - Do tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu cùng với sự khai thác quá mức, đa dạng sinh học biển ở miền Trung đang bị suy giảm mạnh. Vì vậy,...

[TN&MT] - Do tác động của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu cùng với sự khai thác quá mức, đa dạng sinh học biển ở miền Trung đang bị suy giảm mạnh. Vì vậy, việc bảo tồn, gìn giữ nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học [ĐDSH] biển đang đặt ra nhiều thách thức.

Ven biển các tỉnh, thành khu vực miền Trung có hệ sinh thái và nguồn tài nguyên đa dạng

Suy giảm tài nguyên

Ven biển các tỉnh, thành khu vực duyên hải Nam Trung bộ ví như một tấm thảm được dệt bởi các hệ sinh thái và nguồn tài nguyên đa dạng. Song nơi đây đang phải đối mặt với nhiều vấn đề về tài nguyên và môi trường biển. Chất lượng nước ven bờ, đặc biệt là tại các vùng nước cửa sông, bến cảng, các khu đô thị và dân cư ven biển đang ô nhiễm. Hiện tượng bồi lấp và xói lở tại nhiều vùng cửa sông, ven biển và các khu vực cảng khá nghiêm trọng, làm thay đổi các hệ sinh thái ven biển… Bên cạnh đó, việc sử dụng lưới kéo đáy, sử dụng mìn đánh bắt hải sản phá vỡ rạn san hô, khiến cho nhiều loài sinh vật không có nơi cư trú, từ đó làm giảm sút ÐDSH hệ sinh thái rạn san hô.

Điển hình như tại Quảng Ngãi, qua khảo sát của các nhà khoa học, vùng biển này có trên 160 loài cá, tôm, nhuyễn thể sinh sống, trữ lượng thuỷ sản khoảng 68.000 tấn. Tuy nhiên, hiện đa dạng sinh học vùng cửa biển chỉ còn ở mức trung bình và đang có chiều hướng giảm dần. Ngư dân Lê Trung Thành ở xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, người nổi tiếng ở làng biển Sa Huỳnh với 4 con tàu đánh bắt cá giờ cũng chỉ còn 2 chiếc tàu vì phải bán bớt để bù đắp cho những chuyến biển thua lỗ. “Cách đây 5 - 7 năm, mỗi lần ra biển là tàu thuyền đầy cá, ngư dân phải lựa bỏ cá nhỏ nhưng giờ cá nhỏ cũng không còn nhiều. Rất ít chuyến ra khơi đạt được sản lượng, đa số là bị lỗ chiếm đến 50% - 60% các chuyến đi biển”, ngư dân Lê Trung Thành cho biết.

Theo khuyến cáo của nhiều chuyên gia, vịnh Đà Nẵng và khu Nam bán đảo Sơn Trà có các rạn san hô ven bờ là nơi sinh sống của các loại giống thủy sinh vật, nguồn lợi thủy sản của TP, tuy nhiên nếu phát triển du lịch quá mức ở khu vực này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và phát triển của rạn san hô.

/ Cá thể rùa biển quý hiếm được người dân Quảng Ngãi thả về tự nhiên

Theo ông Trần Văn Phúc- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn [NN&PTNT] tỉnh Bình Định, môi trường và đa dạng sinh học vùng ven biển của địa phương đang suy giảm nghiêm trọng. Hệ sinh thái san hô, thảm cỏ biển và nguồn lợi thủy sản dần mất đi do thác thủy sản mang tính tận diệt bằng chất nổ, chất độc hoặc lưới kéo. “Đáng quan ngại là ghe tàu khai thác của ngư dân, tàu du lịch neo đậu làm hư hại các rạn san hô, không còn chỗ cho các loài thủy sản quần tụ, sinh sôi”- ông Phúc lo lắng.

Tại xã Nhơn Hải [TP. Quy Nhơn], vấn đề này càng trở nên bức xúc khi 7ha mặt nước, bên dưới có rạn san hô rất đẹp nằm quanh Hòn Khô lớn được bảo tồn nguyên vẹn trong những năm qua, giờ đã được UBND tỉnh Bình Định giao cho Doanh nghiệp Tấn Phát làm du lịch. Do đơn vị quản lý không có biện pháp gìn giữ nên rạn san hô này đang bị tàn phá nghiêm trọng. Không chỉ vậy, 2 ha rạn san hô tại Hòn Khô nhỏ nằm sát bên cạnh cũng đang bị uy hiếp. Sự thể trên đã “phủi sạch” nỗ lực gìn giữ các rạn san hô trên vùng biển thuộc địa phương quản lý của chính quyền xã Nhơn Hải.

Khai thác bền vững

Sự suy giảm về ĐDSH biển đang ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế nói chung mà sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống, đời sống của người dân ven biển miền Trung, đặc biệt là những ngư dân kiếm sống nhờ nguồn lợi thủy, hải sản. Vì vậy, việc khai thác, bảo tồn đa dạng sinh học các vùng biển miền Trung đang đặt ra nhiều thách thức đối với các nhà quản lý và cộng đồng người dân.

Bà Nguyễn Hoàng Yến - Chi cục trưởng Chi cục Biển & Hải đảo tỉnh Quảng Nam cho biết, trước nguy cơ suy giảm ĐDSH, địa phương đang thực hiện đồng loạt các giải pháp như tăng cường giám sát đánh bắt gần bờ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường đối với các hoạt động có nguy cơ và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường biển. Đặc biệt là các khu đô thị, khu công nghiệp, cơ sở nuôi trồng và chế biến thủy sản, các hoạt động thương mại, dịch vụ du lịch dọc theo bờ biển, trên các đảo. Riêng Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm đã chọn khu vực Bãi Bấc, đảo Hòn Lao và các đảo Hòn Dài, Hòn Lá... với 30% diện tích là phân vùng nghiêm ngặt biển để thiết lập, quản lý, bảo vệ khu vực sinh sản và sinh cư của rùa biển. Theo kế hoạch, sẽ thực hiện chuyển dời ít nhất 10 tổ trứng rùa trong 1 năm từ Vườn quốc gia Côn Đảo về tổ chức quản lý, ấp nở và thả rùa con về biển tại Cù Lao Chàm. Nhiệm vụ này thực hiện trong 3 năm, mỗi năm 1 đợt vào tháng 6 hoặc tháng 7 với tổng số trứng di dời khoảng 3.000 trứng.

Hệ sinh thái cỏ biển tại các vùng ven biển tỉnh Quảng Ngãi đã được khai thác, bảo vệ bền vững.

Để bảo tồn đa dạng sinh học biển, tỉnh Quảng Ngãi đã thành lập Khu bảo tồn biển Lý Sơn với tổng diện tích 7.925 ha, trong đó diện tích mặt nước biển là 7.113 ha, nhằm duy trì, bảo vệ tài nguyên biển, đa dạng sinh học và cải thiện sinh kế cho người dân. Đối tượng bảo tồn là hệ sinh thái rạn san hộ, hệ sinh thái rong, cỏ biển, bãi giống, bãi đẻ và các loài thủy sinh vật sinh sống trong khu vực. Khu bảo tồn đi vào hoạt động sẽ góp phần lợi quản lý, sử dụng bền vững nguồn lợi thủy sản, không sử dụng thuốc nổ và các loại lưới lớn để khai thác, đồng thời tạo cảnh quan sinh thái thu hút khách du lịch, tạo sinh kế cho người dân.

Song song, các cơ quan chức năng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân trên địa bàn; vận động nhân dân không tham gia các hoạt động xâm hại tài nguyên, môi trường biển...  Qua đó, nâng cao trách nhiệm bảo vệ, khai thác bền vững tài nguyên biển trong cộng đồng. Ông Nguyễn Phú Lâm - Trung tâm Bảo tồn văn hóa biển tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, để việc bảo tồn đa dạng sinh học biển hiệu quả, thì nhất thiết phải gắn liền với giải quyết sinh kế cho người dân trong vùng. Bởi nếu không gỡ được điều này thì dù có khu bảo tồn, hệ sinh thái vẫn cứ bị xâm hại, nguồn lợi vẫn cứ cạn kiệt vì người dân bất hợp tác.

Ông Trần Văn Phúc - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bình Định cho hay: Sở sẽ tiếp tục phối hợp với các ngành tuyên truyền về bảo vệ môi trường, bảo vệ các loài động vật biển quý hiếm và bảo vệ tài nguyên biển cho du khách, cho cộng đồng dân cư để cùng góp phần bảo vệ phát triển khu du lịch bền vững trong 04 khu bảo tồn thiên nhiên, đồng thời thực hiện hiệu quả dự án “Tăng cường khả năng phục hồi của cộng đồng ngư dân quy mô nhỏ và hệ sinh thái biển tại khu bảo tồn cấp địa phương”.

Bài & ảnh: Lan Anh – Quỳnh Anh

Cập nhật vào: Thứ ba - 25/06/2019 09:56 Cỡ chữ

 

Nhìn nhận thực trạng phát triển dược liệu của vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ; tình hình nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học kỹ thuật trong phát triển dược liệu; vấn đề khai thác, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên dược liệu và bảo tồn đa dạng sinh học trong lĩnh vực dược liệu; các giải pháp đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ phát triển dược liệu của vùng;… là những vấn đề chính được các đại biểu tập trung thảo luận tại Hội nghị “Khoa học và công nghệ phục vụ phát triển dược liệu vùng Tây Nguyên và các tỉnh Nam Trung Bộ” diễn ra sáng ngày 21/6, tại Thành phố Đà Nẵng.

Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng phát biểu tại Hội nghị.

Hội nghị do Bộ Khoa học và Công nghệ [KH&CN], Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng phối hợp tổ chức với sự có mặt của trên 200 đại biểu tham dự gồm các nhà quản lý, các nhà khoa học, các cơ quan viện trường và đặc biệt là sự tham gia của trên 30 doanh nghiệp đến từ các tỉnh thành trong và ngoài vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.

Kho tàng vô giá phát triển dược liệu

Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thứ trưởng Bộ KH&CN Trần Văn Tùng cho biết, vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ là Vùng có tiềm năng to lớn về phát triển dược liệu. Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu của Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã xác định: Tây Nguyên và Nam Trung Bộ là 2 vùng phát triển dược liệu trọng điểm. Trong những năm gần đây, các địa phương trong Vùng cũng đã có nhiều quan tâm, chú trọng đến công tác phát triển dược liệu. Nhiều tỉnh đã triển khai, thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu, đánh giá tiềm năng, lợi thế của địa phương, xây dựng quy hoạch, chương trình, thông qua nghị quyết về phát triển dược liệu để phát triển kinh tế địa phương. Nhờ đó, đã tạo ra được nhiều sản phẩm dược liệu mới phục vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng.

Chia sẻ về tiềm năng phát triển dược liệu vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, PGS.TS. Lê Việt Dũng - Phó Viện trưởng Viện Dược liệu, Bộ Y tế cho biết, đây là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển dược liệu. Với tổng diện tích lớn, địa hình đa dạng từ địa hình cao nguyên, vùng núi cao, núi thấp, thung lũng [vùng Tây Nguyên], vùng đồng bằng ven biển, vùng núi thấp [tại Nam Trung Bộ]. Khí hậu của Vùng có hai mùa rõ rệt và tạo ra các tiểu vùng khí hậu tương ứng với các loại địa hình khác nhau. Đất đai, thổ nhưỡng thuận lợi cho phát triển nông - lâm nghiệp nói chung và phù hợp với nhiều loại cây dược liệu nói riêng. Đó thực sự là những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển các vùng dược liệu trọng điểm có quy mô lớn phục vụ nhu cầu thị trường.

Cùng với đó cộng đồng các dân tộc sinh sống nơi đây có trên 50 dân tộc khác nhau nên người dân có nhiều kinh nghiệm trong sử dụng các loài cây cỏ làm thuốc. Vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ là nơi có nguồn tài nguyên động thực vật phong phú và đa dạng, trong đó có nhiều cây thuốc có giá trị y tế và kinh tế cao. Theo kết quả thống kê gần đây, ở Tây Nguyên có tới 1.657 loài cây thuốc và trên 1.000 loài được ghi nhận ở vùng Nam Trung Bộ. Đây thực sự là kho tàng vô giá và tiềm năng lớn để khai thác và phát triển phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe và phát triển kinh tế xã hội.

Tuy nhiên theo Thứ trưởng Trần Văn Tùng, thực tiễn phát triển trong thời gian qua cho thấy, ngành dược liệu của Vùng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, giá trị tạo ra chưa nhiều. Nhiều loại dược liệu quý chưa được quy hoạch, phát triển chuỗi giá trị dẫn đến hiệu quả thấp, có nguy cơ cạn kiệt. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong phát triển dược liệu còn hạn chế; chưa có chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển ngành dược liệu; chưa có sự liên kết chặt chẽ trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ dược liệu; công tác xây dựng và quảng bá thương hiệu dược liệu của các tỉnh trong Vùng còn yếu.

Đẩy mạnh ứng dụng KH&CN phát triển dược liệu

Theo PGS.TS. Lê Việt Dũng, để góp phần đem lại nguồn lợi kinh tế, KH&CN là một trong những khâu tạo đột phá trong phát triển dược liệu. Với chủ trương của Đảng và Nhà nước, công tác phát triển dược liệu đã được quan tâm và chú trọng. Đầu tư nghiên cứu và ứng dụng KH&CN đã được các đơn vị trên cả nước tập trung nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế của các địa phương và hướng tới xây dựng các vùng trồng dược liệu tập trung, phát triển các sản phẩm từ dược liệu phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe và phát triển kinh tế xã hội.

Tại Tây Nguyên và Nam Trung Bộ đã triển khai nhiều nhiệm vụ KH&CN các cấp như: Nghiên cứu xây dựng quy trình trồng Sa nhân tím, Đảng sâm, Vàng đắng, Nấm linh chi, Nấm đông trùng hạ thảo, Nghiên cứu trồng Đảng sâm, Ngũ vị tử, Giảo cổ lam, Xuyên khung theo GACP ở tỉnh KonTum. Tại Đắc Lắc đã trồng thử nghiệm cây Sachi, Hà thủ ô đỏ, Sâm cau, Viễn chí lá nhỏ ở  tỉnh Đắk Nông, Nghiên cứu sơ chế và bảo quản các dược liệu Nghệ, Đinh lăng… Ứng dụng KH&CN trong sản xuất Tỏi đen, Nghiên cứu, lưu giữ, bảo tồn và phát triển nguồn gen Quế bản địa Trà Bồng, Ba kích, Đảng sâm ở Quảng Nam; xây dựng mô hình trồng, chế biến và tiêu thụ Nghệ dưới tán rừng Keo mới trồng; xây dựng chỉ dẫn địa lý Tỏi Lý Sơn; nghiên cứu gây trồng cây Sa nhân tím tại tỉnh Quảng Ngãi. Tại Khánh Hòa có nhiệm vụ KH&CN về bảo tồn và khai thác có hiệu quả một số loài cây thuốc có giá trị cao của Khánh Hòa, nghiên cứu thử nghiệm trồng Sâm Ngọc Linh tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà, xây dựng mô hình trồng cây Củ mài. Tại Ninh Thuận là trồng thử nghiệm Đinh lăng theo tiêu chí GACP… 

Theo báo cáo của Viện Dược liệu, hiện nay, ứng dụng KH&CN được tập trung vào sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nhiều công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến như: Viễn thám, định vị vệ tinh được ứng dụng để đánh giá thực trạng nguồn tài nguyên dược liệu. Tại vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ đã triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học công nghệ để phát triển sản phẩm dược liệu, trong đó tiêu biểu như: Hoàn thiện quy trình sản xuất piperine và tích hợp công nghệ thu tinh dầu trong quán trình chế biến tiêu trắng tại tỉnh Đăk Nông; nghiên cứu công nghệ tách chiết sản xuất viên nang và trà hòa tan hỗ trợ bệnh cao huyết áp và mỡ máu từ đài hoa Bụp giấm; nghiên cứu chiết tách phân đoạn kháng oxy hóa từ quả me rừng; sản xuất cao khô từ lá dâu tằm….

Tại Hội nghị, báo cáo về việc nghiên cứu chế phẩm từ cây thuốc vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ phục vụ chữa bệnh và nâng cao sức khỏe cộng đồng, GS. Phạm Gia Khánh, Học viện Quân y cho biết, từ đặc thù về cơ cấu bệnh tật và khí hậu của Tây Nguyên, kết hợp nguồn dược liệu sẵn có tại khu vực Tây Nguyên, Học viện Quân y đã nghiên cứu tạo 5 sản phẩm có tác dụng chống say nóng, say nắng, đột quỵ, bổ gan, hoạt huyết, hạ mỡ máu đó là các sản phẩm Crakontum, Cyanakontum, Kardi Q10, cao chống đột quỵ định chuẩn, cao chống say nóng. Các sản phẩm của đề tài đều từ nguồn dược liệu quý của Tây Nguyên là các sản phẩm có giá trị trong điều trị và phòng một số bệnh thường gặp ở Tây Nguyên. Mục đích của nghiên cứu này không chỉ nhằm khai thác nguồn dược liệu Tây Nguyên để tạo ra các sản phẩm dược phục vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, mà muốn qua kết quả nghiên cứu này chuyển giao các kỹ thuật công nghệ đã đạt được cho các cơ sở dược ở Tây Nguyên. Thông qua nghiên cứu này, góp phần thúc đẩy sự phát triển công nghệ dược ở Tây Nguyên, để Tây Nguyên có thể tự khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn dược liệu đa dạng, phong phú và quý hiểm ở địa bàn.

Trong nội dung chia sẻ kinh nghiệm của các doanh nghiệp Hàn Quốc về nghiên cứu giải pháp công nghệ chế biến dược liệu áp dụng tại Việt Nam, TS. Kum Dongwha, Viện trưởng Viện VKIST đã nhấn mạnh về quy trình sản xuất dược liệu. Theo TS. Kum Dongwha, tất cả nghiên cứu tập trung vào nền công nghiệp và doanh nghiệp, do vậy nên đưa các giải pháp về nghiên cứu ra thị trường với giá trị cao hơn. Về nghiên cứu cần tập trung vào 4 hướng: gắn liền với nhu cầu thị trường và tiếp cận thị trường, tập trung vào phát triển kỹ thuật, đa dạng hóa lĩnh vực R&D và mở rộng đổi mới, mạng lưới và hợp tác toàn cầu.

Hội nghị diễn ra trong không khí trao đổi cởi mở, thẳng thắn dưới góc nhìn nhận các vấn đề từ viện, trường, các nhà khoa học. Đặc biệt là sự vào cuộc của các doanh nghiệp trong và ngoài vùng với các tham luận giới thiệu về các mô hình đã được triển khai đang thu được kết quả từ đầu tư của doanh nghiệp. Hội nghị đã nhận được sự đồng thuận cao về sự quyết tâm cũng như mong muốn phối hợp giữa các nhà quản lý với các doanh nghiệp, giữa các tỉnh trong Vùng để triển khai các hoạt động cụ thể đối với phát triển dược liệu, hướng đến sự phát triển, tạo ra sự khác biệt về năng suất chất lượng và chủng loại sản phẩm.

Theo các đại biểu, để phát triển dược liệu của Vùng thực sự bền vững, vai trò của các doanh nghiệp sẽ là nhân tố đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định trong việc dẫn dắt người dân tham gia và cũng là nơi triển khai trực tiếp đầu tư sản xuất kinh doanh, nhất là khâu chế biến tiêu thụ sản phẩm. Theo đó, ngoài việc tiếp tục rà soát đưa ra những chính sách khả thi từ các địa phương, cần tập trung tạo hành lang, cơ chế và sự ưu đãi để thu hút được các doanh nghiệp lớn tham gia đầu tư vào khu vực này. Đồng thời, có giải pháp cụ thể để bảo tồn cây thuốc quý tại Vùng; xây dựng được nhiều vùng dược liệu tập trung với quy mô đủ lớn phục vụ cho chế biến, tập trung vào phát triển các loài dược liệu đã được xác định thuộc nhóm chủ lực của Vùng; xây dựng được hệ thống cơ sở chế biến, có các nhà máy sản xuất dược phẩm được đầu tư theo chiều sâu, có khả năng đa dạng hóa sản phẩm đạt các tiêu chuẩn quốc tế; hướng đến phát triển các nhà máy sản xuất thuốc đông y đạt chuẩn GMP; sản xuất nguyên liệu làm thuốc, nguyên liệu hóa dược vô cơ, tá dược, thảo dược... gắn với phát triển vùng trồng cây dược liệu phù hợp;…

Về phía Bộ KH&CN, Thứ trưởng Trần Văn Tùng cho biết, Bộ sẽ có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ ngành và các địa phương, nhất là với Bộ Y tế, Bộ NN&PTNT, sẽ cùng cụ thể hóa các nội dung trong Chương trình phối hợp đã ký kết, trong đó có nội dung thúc đẩy phát triển dược liệu tại Vùng. Bộ cũng sẽ đồng hành với các địa phương xem xét các vấn đề về KH&CN, trước mắt ưu tiên xem xét các nội dung để hỗ trợ triển khai các nhiệm vụ KH&CN cả ở cấp tỉnh và cấp Trung ương nhằm phát triển một số sản phẩm dược liêu theo chuỗi giá trị.

Các đại biểu thăm quan gian hàng trưng bày tại Hội nghị.

Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN; Vụ Phát triển KH&CN địa phương

Video liên quan

Chủ Đề