Cưỡng chế thi hành án dân sự là gì năm 2024

- Yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định trong Luật này;

- Được thông báo về thi hành án;

- Thỏa thuận với người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án;

- Yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án;

- Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án;

- Không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án do Chấp hành viên thực hiện;

- Yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ;

- Ủy quyền cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình;

- Chuyển giao quyền được thi hành án cho người khác;

- Được miễn, giảm phí thi hành án trong trường hợp cung cấp thông tin chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và trường hợp khác theo quy định của Chính phủ;

- Khiếu nại, tố cáo về thi hành án.

1.2. Người được thi hành án có các nghĩa vụ sau đây:

- Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định;

- Thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú;

- Chịu phí, chi phí thi hành án theo quy định của Luật này.

2. Quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án

Điều 7a quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án sau đây:

2.1. Người phải thi hành án có các quyền sau đây:

- Tự nguyện thi hành án; thỏa thuận với người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án; tự nguyện giao tài sản để thi hành án;

- Tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật này;

- Được thông báo về thi hành án;

- Yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án;

- Chuyển giao nghĩa vụ thi hành án cho người khác theo quy định của Luật này;

- Yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ;

- Được xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án; được xét miễn, giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này;

- Khiếu nại, tố cáo về thi hành án.

2.2. Người phải thi hành án có các nghĩa vụ sau đây:

- Thi hành đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định;

- Kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó;

- Thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú;

- Chịu chi phí thi hành án theo quy định của Luật này.

3. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Theo Điều 7b Luật thi hành án dân sự:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có các quyền: Được thông báo, tham gia vào việc thực hiện biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà mình có liên quan; Yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án; Khiếu nại, tố cáo về thi hành án.

- Ngoài ra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú.

Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan thi hành án nhằm buộc đương sự [người phải thi hành án] phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tầu tán, hủy hoại tài sản.

Ảnh minh họa [nguồn: Internet]

Các biện pháp cưỡng chế thi hành án đó là: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định. Bài viết này nêu lên những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.

Thi hành án dân sự [THADS] là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế, hiệu quả của hoạt động THADS có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi, vì vậy, cơ quan THADS phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS để buộc các chủ thể thực hiện nghĩa vụ. Cưỡng chế THADS là hoạt động thường xuyên được thực hiện trong công tác THADS. Thực tiễn cho thấy, đối với những vụ việc có giá trị lớn, người phải thi hành án hầu như không tự nguyện thi hành, buộc cơ quan THADS phải tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật, song nếu tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS không đúng, không thành công sẽ gây ra nhiều hậu quả đối với xã hội. Mặc dù hành lang pháp lý về công tác THADS nói chung và cưỡng chế THADS nói riêng đã tương đối hoàn thiện, rõ ràng, nhưng việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong thực tế vẫn còn gặp không ít khó khăn, bất cập.

1. Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

Một là, đối với biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án

Theo quy định tại Điều 11 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 [sửa đổi, bổ sung năm 2014] các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm phối hợp, thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự và chấp hành viên. Tuy nhiên, việc thu thập thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án gặp nhiều khó khăn do hiện nay nước ta chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về tài khoản, tiền gửi khách hàng trong các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại. Ngoài ra, khi đã xác minh được tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án thì khó khăn vẫn chưa hết. Các tổ chức tín dụng sẽ viện dẫn Điều 14 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 để từ chối cung cấp thông tin về tài khoản của người phải thi hành án. Nếu cơ quan THADS, chấp hành viên kiên quyết xác minh thì các đơn vị này cung cấp một cách hạn chế. Sau khi đã thu thập thông tin về tài khoản của người phải thi hành án thì các ngân hàng lại viện lý do số tiền lớn, phải xin ý kiến của hội sở hoặc viện lý do bảo vệ khách hàng nên trì hoãn việc thực hiện quyết định cưỡng chế của cơ quan THADS, khiến vụ việc kéo dài, dẫn đến người được thi hành án bức xúc, khiếu nại cơ quan thi hành nhiều lần. Trường hợp số tiền phải thi hành án lớn nhưng lại bị trì hoãn nằm trong ngân hàng trong khi nhu cầu tái đầu tư của người được thi hành án cấp thiết sẽ là thiệt hại không nhỏ cho người được thi hành án. Trái lại, đối với ngân hàng khoản tiền đó lại là khoản lợi nhuận đáng kể.

Hai là, đối với biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

Khó khăn lớn nhất của biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án và nhận thức, trách nhiệm của cơ quan liên quan. Nhiều trường hợp, người đang thi hành án chuyển chỗ ở, chuyển nơi công tác khiến cơ quan THADS mất thời gian thông báo đến nơi ở, nơi công tác mới và các thủ tục phải bắt đầu lại từ đầu; chưa kể trường hợp người phải thi hành án cố tình trốn tránh nghĩa vụ, công tác THADS gặp nhiều khó khăn. Các cơ quan như Ủy ban nhân dân các cấp, bảo hiểm xã hội và người sử dụng lao động chưa có sự phối hợp với cơ quan THADS. Cơ quan bảo hiểm xã hội không thực hiện việc chuyển tiền lương hưu, trợ cấp của người phải thi hành án cho cơ quan THADS theo quyết định cưỡng chế của người có thẩm quyền thi hành án. Người sử dụng lao động kiên quyết từ chối cơ quan THADS vì lý do bảo vệ cho người lao động của mình hoặc đơn giản chỉ vì chưa có tiền lệ. Bên cạnh đó, tại Điều 78 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 [sửa đổi, bổ sung năm 2014] và Điều 11 Nghị định 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định khi áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập không quá 30% đối với tiền lương, không quá 50% với các thu nhập khác nhưng phải đảm bảo thu nhập tối thiểu cho người phải thi hành án. Những bất cập này làm cho không ít hồ sơ thi hành án tồn đọng, không thi hành được mặc dù người phải thi hành án có tiền lương hưu, tiền trợ cấp hàng tháng tại bảo hiểm xã hội, dẫn đến người dân mất lòng tin vào cơ quan thực thi pháp luật, cho rằng các cơ quan này chưa làm hết trách nhiệm trong việc thi hành án, gây nhiều bức xúc trong xã hội.

Ba là, đối với biện pháp kê biên một phần quyền sử dụng đất có diện tích đất nhỏ trong tổng diện tích đất của người phải thi hành án

Luật Thi hành án dân sự quy định biện pháp cưỡng chế biên tài sản là quyền sử dụng đất để thi hành nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định của Tòa án. Nếu giá trị của quyền sử dụng đất tương ứng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ thi hành án thì việc kê biên tương đối dễ dàng. Vấn đề đặt ra ở đây là nếu quyền sử dụng đất có giá trị lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án thì người có thẩm quyền thi hành án thì xử lý thế nào?

Theo quy định, nếu quyền sử dụng đất lớn hơn giá trị nghĩa vụ phải thi hành thì cơ quan THADS vẫn tiến hành cưỡng chế kê biên một phần diện tích đủ thực hiện nghĩa vụ và chi phí cưỡng chế. Tại khoản 1 Điều 111 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 [sửa đổi, bổ sung năm 2014] thì “khi kê biên quyền sử dụng đất, chấp hành viên yêu cầu người phải thi hành án, người đang quản lý giấy tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ đó cho cơ quan thi hành án dân sự”. Sau khi có được giấy tờ về quyền sử dụng đất, chấp hành viên đến Ủy ban nhân dân có thẩm quyền tiến hành tách thửa đất để thi hành án nhưng cơ quan này từ chối với lý do diện tích đất nhỏ, không đủ diện tích tối thiểu mà pháp luật đất đai yêu cầu để cấp giấy tờ, do đó, việc thi hành án chỉ nằm trên giấy tờ mà không đem lại hiệu quả trên thực tế. Bên cạnh đó, khi diện tích đất đủ để tách thửa, thì vấn đề xác định vị trí của thửa đất bị kê biên sẽ xác định như thế nào, nếu hai bên không thống nhất được thì sẽ giải quyết như thế nào, hiện pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc kê biên trong thực tế bị kéo dài.

Bốn là, vấn đề định giá tài sản kê biên phức tạp

Điều 98 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 [sửa đổi, bổ sung năm 2014] đã mở rộng thẩm quyền tự định đoạt giá trị tài sản của đương sự, theo đó, “ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thỏa thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá”. Tuy nhiên, khi thỏa thuận giá, đương sự lại thỏa thuận quá cao so với thực tế, dẫn đến tài sản không bán được. Đồng nghĩa với việc người có thẩm quyền thi hành án ra quyết định giảm giá để tiếp tục bán đấu giá, mỗi lần giảm giá không quá 10% giá trị tài sản lúc khởi điểm cho đến khi giá khởi điểm thấp hơn nghĩa vụ thi hành án. Như vậy, việc thi hành án sẽ bị kéo dài, án tồn đọng ngày càng nhiều. Một vấn đề nữa là việc xác định tài sản kê biên theo giá cả thị trường là vấn đề hết sức khó khăn và luôn gây nhiều tranh cãi. Cho nên, bên cạnh việc cơ quan nhà nước cần có khung giá phù hợp với giá cả thị trường thì việc định giá phải thấp hơn giá cả thị trường để làm cơ sở đưa ra giá khởi điểm thì cơ quan thi hành án dân sự mới có thể thi hành được.

Năm là, đối với biện pháp cưỡng chế buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ không khả thi trong thực tế

Trong các biện pháp cưỡng chế quy định tại Điều 71 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 [sửa đổi, bổ sung năm 2104], thì biện pháp cưỡng chế buộc chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ là một trong những biện pháp không phức tạp nhưng lại rất khó khăn khi áp dụng điều luật này vào thực tiễn. Đó là vấn đề thu hồi giấy tờ có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản của đối tượng phải thi hành án sau khi cưỡng chế thi hành án mà không thu hồi được.

Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 [sửa đổi, bổ sung năm 2104] quy định khi bản án tuyên trả giấy tờ mà người phải thi hành án không tự nguyện thực hiện thì xử lý như sau: “Chấp hành viên ra quyết định cưỡng chế buộc người phải thi hành án trả giấy tờ cho người được thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án không thực hiện thì chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó trả giấy tờ để thi hành án. Trường hợp xác định người thứ ba đang giữ giấy tờ phải trả thì Chấp hành viên yêu cầu người đó giao giấy tờ đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện giao thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó giao giấy tờ để thi hành án”. Tuy nhiên khi thực thi trên thực tế thì việc cưỡng chế gần như không đạt được mục đích, đa phần người phải thi hành án che dấu hoặc hủy hoại giấy tờ, người có thẩm quyền thi hành án không thể nào lấy được giấy tờ trả lại cho người được thi hành án. Trong trường hợp này Chấp hành viên giải quyết các bước tiếp theo:

- Đối với giấy tờ không thể thu hồi được nhưng có thể cấp lại: Trường hợp này thì Chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới cho người được thi hành án [khoản 2 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014]. Giải pháp này đã khắc phục được tình trạng bất hợp tác của người phải thi hành án nhưng lại gặp phải một khó khăn khác đó là yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới chấp hành viên không được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận. Bởi vì chính quyền địa phương sẽ căn cứ khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 6 Điều 87 Nghị định số 43/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều Luật Đất đai năm 2013: “Việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân đã được thi hành”. Như vậy, chấp hành viên giải quyết theo đúng pháp luật THADS nhưng lại mâu thuẫn với các văn bản pháp luật khác. Do đó, quy định này chưa đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án trên thực tế.

- Đối với giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được: Trường hợp này thì thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án và hướng dẫn đương sự khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết [khoản 2 Điều 116 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014]. Tuy nhiên, vì giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản bao gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; giấy đăng ký mô tô, xe máy; giấy đăng ký xe ô tô... không phải là giấy tờ có giá theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 nên người dân có khởi kiện Tòa án cũng không thụ lý giải quyết. Với quy định của pháp luật như vậy, vụ việc cưỡng chế trả lại giấy tờ gần như bế tắc, quyền và lợi ích của người được thi hành án sẽ không được khôi phục.

2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

Để nâng cao hiệu quả công tác THADS nói riêng, phát huy tính khả thi của các biện pháp cưỡng chế nói chung, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ nhất, các bản án, quyết định của Tòa án cần tuyên rõ ràng, cụ thể, có thể thi hành trên thực tế

Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS gặp nhiều khó khăn, kéo dài một phần do nhiều bản án, quyết định của Tòa án các cấp tuyên không rõ ràng, khó thi hành trên thực tế. Có trường hợp, chấp hành viên được giao giải quyết vụ việc khi tiếp nhận phát hiện ra và phải làm văn bản đề nghị Tòa án giải thích làm kéo dài việc thi hành án. Thậm chí, có trường hợp phức tạp hơn khi tổ chức cưỡng chế mới phát sinh vướng mắc, không thi hành được do Tòa án tuyên không rõ, đặc biệt là các vụ án về tranh chấp thừa kế, tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, cổ phần trong doanh nghiệp… Vấn đề này vừa gây khó khăn cho cơ quan THADS, vừa kéo dài vụ việc gây thiệt hại cho người được và người phải thi hành án, giảm lòng tin của nhân dân với pháp luật và chính quyền. Vì vậy, khi quyết định nghĩa vụ của đương sự, Tòa án phải nêu cụ thể, chi tiết, thi hành được; đặc biệt phải làm rõ hậu quả pháp lý các nghĩa vụ này phát sinh [như: Giấy tờ đăng ký quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng, giấy phép, giấy chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ…].

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về THADS và các văn bản pháp luật có liên quan

Để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS trước hết chúng ta cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS nói chung và các quy định cưỡng chế nói riêng như: Xây dựng, ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật; ban hành các thông tư liên tịch phối hợp các ngành liên quan; các quy chế phối hợp liên ngành... Đặc thù của hoạt động THADS liên quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực, nhất là việc cưỡng chế đòi hỏi tham gia của nhiều lực lượng phối hợp. Nếu có hành lang pháp lý quy định rõ ràng trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan sẽ dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, tất cả đổ dồn lên đầu cơ quan THADS và chấp hành viên. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp luật khác liên quan cũng cần hoàn thiện thống nhất, tránh chồng chéo để cơ quan THADS thuận lợi khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế như: Luật Nhà ở, Luật Công chứng, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Đất đai…

Thứ ba, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo THADS các địa phương

Luật Thi hành án dân sự và nghị định hướng dẫn của Chính phủ quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Ban chỉ đạo THADS ở địa phương nhằm tập trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho cơ quan THADS và phối hợp tổ chức cưỡng chế những vụ án phức tạp. Tuy nhiên, nhiều địa phương do thiếu sự quan tâm của Trưởng Ban chỉ đạo THADS nên hoạt động của Ban không thường xuyên, mang tính hình thức. Do đó, nhiều vụ việc phức tạp, đòi hỏi có sự vào cuộc tích cực của các ban, ngành địa phương chưa được đôn đốc kịp thời, cơ quan THADS chưa tổ chức cưỡng chế theo đúng quy định, việc thi hành án kéo dài. Thậm chí có nơi do sự thiếu quyết đoán của Ban chỉ đạo nên khi cơ quan THADS đưa ra họp bàn phối hợp cưỡng chế, các đơn vị khác đều kêu khó, trì hoãn nhiều năm trời, gây thiệt hại cho đương sự và bức xúc dư luận. Vì vậy, mỗi địa phương cần quan tâm duy trì hoạt động của Ban chỉ đạo THADS đi vào thực chất, chỉ đạo quyết liệt thi hành các vụ án phức tạp, có giá trị lớn, cưỡng chế với các vụ án đương sự chống đối, kéo dài nhiều năm hoặc có liên quan đến cán bộ địa phương.

Ở cấp trung ương, các Bộ liên quan cần tăng cường phối hợp với Bộ Tư pháp về lĩnh vực THADS thông qua việc ký kết các Quy chế phối hợp liên ngành nhằm tháo gỡ khó khăn khi tổ chức cưỡng chế. Trong đó, giữa Bộ Tư pháp và các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an cần thường xuyên trao đổi thông tin, giải quyết kịp thời những phát sinh trong THADS nói chung và cưỡng chế nói riêng, tránh tình trạng né tránh, nể nang kéo dài việc THADS. Hiện nay, giữa các đơn vị này đã ký kết Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT ngày 26/7/2010, số 14/2011/TTLT ngày 11/7/2011, số 03/2012/TTLT ngày 30/3/2012, Quy chế phối hợp liên ngành số 14/2013/QCLN ngày 09/10/2013… Tuy nhiên, để các quy định này được áp dụng thuận lợi, mỗi địa phương cần ban hành quy chế phối hợp cụ thể giữa các đơn vị nhằm phù hợp với đặc điểm thực tiễn THADS trên địa bàn mình. Bên cạnh đó, các cơ quan THADS cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác, như đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền pháp luật về thi hành án dân sự để nhân dân hiểu và tự giác chấp hành, hạn chế việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế; nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức cán bộ, công chức ngành thi hành án; xử lý nghiêm những hành vi tham nhũng, tiêu cực khi thi hành công vụ...

Chủ Đề