Chủ nghĩa hiện thực khác với chủ nghĩa lãng mạn như thế nào

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC và CHỦ NGHĨA LÃNG mạn TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [215.64 KB, 20 trang ]

CHUYÊN ĐỀ MÔN NGỮ VĂN
GIÁO VIÊN THỰC HIỆN: HOÀNG THỊ HUYỀN TRANG
GIÁO VIÊN : NGỮ VĂN
TRƯỜNG THPT CHUYÊN THÁI NGUYÊN

CHUYÊN ĐỀ 2:

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH


CHUYÊN ĐỀ:

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Văn học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, ra đời đáp ứng nhu cầu
chuyển tải thông điệp về cuộc sống, với cuộc sống: cách cảm nhận về cuộc đời,
những rung động, niềm vui, nỗi buồn... của tác giả đến người đọc. Bởi vậy, văn
học là nhu cầu tinh thần tất yếu, được ra đời từ xa xưa và sống mãi tới ngàn đời
sau, cùng với những rung cảm trái tim của nghệ sĩ.
Văn học là tấm gương phản chiếu hiện thực cuộc sống, là con thuyền chở nặng
nỗi niềm của nhà văn. Tuy nhiên, cuộc sống muôn màu trong tác phẩm văn học
không phải là một bức ảnh chụp, nó không tĩnh tại và duy nhất. Cùng một bức
tranh đời sống, mỗi nhà văn có cảm nhận riêng, cách khai thác và kiến giải của
riêng mình về bức tranh ấy. Bức tranh thế giới trong văn học mang màu sắc
cảm nhận cá nhân sâu sắc, và được khúc xạ dựng lên theo cái cách mà nhà văn
tâm đắc...


1.2 Cùng với sự vận động của xã hội, văn học đã phát triển ngày càng đa
dạng, phong phú. Các tác giả đã có những quan điểm lí luận trong sáng tác và
đánh giá tác phẩm. Các phương thức, nguyên tắc... phản ánh hiện thực trong
văn học được hình thành, dần trở nên chặt chẽ, chi phối quá trình xây dựng tác
phẩm của nhà văn và cách thức khám phá, thẩm định văn chương của độc giả.
Các trào lưu, chủ nghĩa cũng xuất hiện trong đời sống văn học, tập hợp các tác
giả, tác phẩm theo từng nhóm, từng chặng đường, giai đoạn.
Có nhiều cách thức và phương pháp khác nhau trong cảm nhận hiện thực và
đưa bức tranh cuộc sống vào trong tác phẩm. Trong đó, lãng mạn và hiện thực
là hai phương thức phản ánh, cũng là hai trường phái, hai quan niệm thẩm mĩ,
hai kiểu tư duy và phản ánh, hai phương pháp sáng tác quan trọng và phổ biến
nhất. Vì thế, việc nghiên cứu về hai phương thức phản ánh, đặt trong sự đối
sánh, tìm ra điểm khác biệt sẽ giúp cho độc giả nói chung, giáo viên và học sinh
nói riêng, đặc biệt là trong đào tạo mũi nhọn, có được cái nhìn chủ động, sắc
sảo hơn trong đọc hiểu, cảm thụ và bình giá văn chương.
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Có được một nền lí luận vững chắc về phương thức phản ánh [ phương
pháp sáng tác, phương pháp nghệ thuât, nguyên tắc phản ánh] – nguyên tắc
chung trong thái độ sáng tạo của nghệ sĩ đối với hiện thực được nhận thức, tức
là nguyên tắc tái tạo, phản ánh hiện thực.


2.2 Có nhận thức rõ ràng về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn –
hai trường phái, trào lưu, hai quan niệm thẩm mĩ, hai phương thức tư duy, đồng
thời cũng là hai phương thức phản ánh cơ bản của văn học. Phân biệt sự khác
nhau của chúng trong cách thức phản ánh hiện thực của các tác giả.
2.3 Biết vận dụng những kiến thức lí luận vào thực tế văn học: những trào
lưu , phương thức phản ánh của văn học Việt Nam, vận dụng khám phá, thẩm
định các tác phẩm văn học cụ thể trong và ngoài chương trình ngữ văn THPT.


B. PHẦN NỘI DUNG
I.

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH.
1. VỀ KHÁI NIỆM “PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH”
Văn học là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn đề của đời sống xã hội
và con người. Phản ánh nghệ thuật có những đặc thù riêng, bởi nghệ thuật là
một hiện tượng tinh thần của con người, có bản chất xã hôi, mĩ học riêng trong
phản ánh hiện thực: Nghệ sĩ không miêu tả hiện thực mà tái tạo hiện thực –
không phản ánh bộ mặt khách quan của hiện thực mà phản ánh sự thăng hoa
của hiện thực. Như vậy, người nghệ sĩ cần sáng tạo bằng tài năng và bút pháp.
Sáng tạo nghệ thuật là sự phản ánh hiện thực theo cảm nhận riêng của nghệ sĩ,
theo một phương thức nhất định mà nghệ sĩ tâm đắc và lựa chọn.
Trong các tài liệu lí luận văn học, các cuốn sách chuyên ngành về nghiên
cứu, lí luận văn học đều không có một tiêu mục riêng cho khái niệm phương
thức phản ánh. Theo từ điển Tiếng Việt, phương thức là phương pháp và cách
thức. Phản ánh là thuật ngữ thuộc về phạm trù ý thức của con người: phản ánh
thế giới, phản ánh cuộc sống... Vậy phương thức phản ánh là cách thức, phương
pháp tái hiện, phản ánh đời sống vào trong văn học. Nó chính là khái niệm
phương pháp sáng tác.
Phương pháp sáng tác [phương pháp nghệ thuật] là một phạm trù được hình
thành vào những năm 20 của thế kỉ XX trong nghiên cứu văn học và nghệ thuật
học ở liên bang Xô viết; sau đó được thông dụng và trở thành một trong những
phạm trù của mĩ học chính thống tại các nước thuộc khối cộng đồng xã hội chủ
nghĩa và đã được luận chứng nhiều lần.
Những định nghĩa thông dụng nhất về phương pháp sáng tác là “phương
thức phản ánh hiện thực”, “nguyên tắc điển hình hóa hiện thực”, nguyên tắc
phát triển và đối chiếu các hình tượng thể hiện tư tưởng tác phẩm, nguyên tắc
xử lí các tình huống hiện thực”, là “hệ thống những nguyên tắc chỉ đạo quá

trình xây dựng tác phẩm nghệ thuật.” Các khái niệm “nguyên tắc”, “phương
thức” được nhấn mạnh ở chỗ: chúng không phải là những nguyên tắc hoặc
phương thức lo-gic trừu tượng, mà cần được hiểu như là những nguyên tắc
chung nhất trong thái độ sáng tạo của nghệ sĩ đối với cái hiện thực được anh ta
nhận thức, tức là những nguyên tắc chung nhất của việc tái tạo hiện thực.


Gắn phương pháp với quá trình xây dựng tác phẩm của người nghệ sĩ, người
ta lại đề xuất khái niệm “phương pháp riêng” để phân biệt với “phương pháp
chung”. Các nội hàm của “phương pháp riêng” rất gần với khái niệm “phong
cách”; các nội hàm của “phương pháp chung”rất gần với các khái niệm
“khuynh hướng”, “trào lưu”, “trường phái”. – chúng được xem như là hệ thống
các đặc điểm bền vững, lặp lại ở sáng tác của nhiều nhà văn, của từng trào lưu ,
trường phái và xu hướng văn học; tức là phương pháp được xem như cơ sở, như
hạt nhân bên trong của trào lưu , trường phái và khuynh hướng văn học.
Việc nghiên cứu, khám phá phương thức phản ánh – phương pháp sáng tác là
nỗ lực khảo sát xem cái logic bên trong của thế giới nghệ thuật được tạo ra
trong tác phẩm tương quan thế nào với các quy luật phát triển khách quan của
đời sống con người trong các điều kiện lịch sử và dân tộc cụ thể, tức là đi tìm
nguyên tắc khúc xạ toàn bộ và mỗi chi tiết của đời sống thực tại vào tác phẩm
nghệ thuật.
Phương pháp sáng tác với tư cách một phạm trù mĩ học, hiện còn chưa hoàn
toàn định hình. Tính xác định về lí thuyết của nó còn chưa hoàn toàn được xác
lập. Hệ thống loại hình lịch sử của nó còn chưa hình thành. Bên cạnh những
phương pháp riêng hết sức đa dạng và mang dấu ấn sâu sắc của ssangs tạo cá
nhân [rất dễ đồng nhất với “phong cách cá nhân] hiện chỉ mới nêu lên được một
số kiểu dạng “phương pháp chung” siêu cá nhân như: chủ nghĩa cổ điển, chủ
nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa hiện thực [với các dạng thức
lịch sử khác nhau, nổi bật nhất là chủ nghĩa hiện thực phê phán], chủ nghĩa hiện
thực xã hội chủ nghĩa. [Lại Nguyên Ân- 150 thuật ngữ văn học, tr270]

2. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
2.1. Khái niệm: Chủ nghĩa lãng mạn là trào lưu văn học, vừa là phương
pháp sáng tác, mang một nội dung lịch sử xã hội-cụ thể, được hình thành ở Tây
Âu sau Cách mạng tư sản Pháp năm 1789. Chủ nghĩa lãng mạn chia làm hai
khuynh hướng: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực, nhưng giữa chúng vẫn có
mối liên hệ qua lại khá phức tạp. Lãng mạn được hiểu theo nghĩa chiết tự là sóng
tràn bờ, chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên trên mọi ràng buộc. Xung quanh từ
lãng mạn có rất nhiều thuật ngữ khác nhau mà chủ nghĩa lãng mạn chỉ là một trong
số đó như: "phương thức lãng mạn", "hình thái lãng mạn", "tính chất lãng mạn"...
Tính chất lãng mạn là một thuộc tính thẩm mỹ biểu hiện chủ yếu ở chỗ vươn
lên trên thực tại và đã hình thành trong lịch sử sáng tác văn học. Lãng mạn cùng
với trữ tình là hai phạm trù nghệ thuật nằm trên những bình diện khác nhau: đối
lâp với lãng mạn là hiện thực, đối lập với trữ tình là tự sự. Trữ tình là kết quả của
việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và
khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Vì vậy, trữ tình và lãng
mạn dù khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau.
Ở phương Tây, điển hình nhất là ở Pháp, vào khoảng đầu thế kỉ XIX, khuynh
hướng văn học lãng mạn phát triển bồng bột thành một trào lưu văn học lớn thu hút
hàng loạt cây bút đày tài năng – Trào lưu văn học lãng mạn chủ nghĩa. Cơ sở tâm lí


của nó là sự tiêu tan ảo tưởng của một thế hệ nhà văn về những hứa hẹn đầy tinh
thần nhân văn chủ nghĩa của cuộc cách mạng tư sản cuối thế kỉ XVIII. Thực Tế xã
hội Pháp sau khi giai cấp tư sản lên cầm quyền đã làm tiêu tan ảo tưởng ấy. Các
nhà văn lãng mạn đã tỏ thái đọ bất hòa bất mãn với hiện thực xã hội bằng sự đắm
chìm vào những tình cảm buồn đau như là một thứ “bệnh thế kỉ”, đồng thời phát
huy trí tưởng tượng, tìm đến những thế giới đầy mộng mơ, hoặc thuộc quá khứ xa
xưa, hoặc ở những miền đất lạ, những xứ sở phương xa, trong đó thiên nhiên cũng
như tâm hồn con người chưa bị cuộc sống đô thị và đồng tiền làm cho vẩn đục.
Đây là thời kì ý thức các nhân thức tỉnh sâu sắc ở người cầm bút. Tình hình

phân hóa của các giai cấp cũng diễn ra hết sức phức tạp. Vì thế chủ nghĩa lãng mạn
cũng có nhiều dạng thức, do đó có nhiều các hiểu khác nhau. Người ta thống kê
được hàng trăm định nghĩa về chủ nghĩa lãng mạn. Có người nói ở Pháp không có
được hai người nói giống nhau về chủ nghĩa lãng mạn.
Tuy vậy, căn cứ vào những đặc trưng phổ biến nhất, có thể định nghĩa chủ
nghĩa lãng mạn trong văn học là một khuynh hướng cảm hứng thẩm mĩ được khởi
nguồn từ sự khẳng định cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm
xúc và trí tưởng tượng. Nó phản ứng với tính duy lí, tính quy phạm mực thước của
văn chương cổ điển. Nó thích hợp với công chúng thanh niên, vì tuổi trẻ nói chung
giàu nhiệt tình và mộng mơ, thích làm những điều mới lạ, độc đáo, khác thường.
2.2. Cơ sở ra đời của chủ nghĩa lãng mạn
2.2.1. Cơ sở xã hội :Cuộc Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, đánh đổ chế
độ phong kiến, là một bước ngoặt vĩ đại không chỉ đối với Pháp mà còn đối với
cả Châu Âu. Chính sự sụp đổ của chế độ phong kiến và sự hình thành quan hệxã
hội mới đã tác động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm của mọi tầng lớp trong xã hội.
Đối với lớp người thuộc ý thức hệ quý tộc [lớp người cũ], họ cảm thấy bất
mãn với trật tự xã hội mới [các đặc quyền, đặc lợi của họ trước kia hoàn toàn mất
sau cuộc cách mạng này], lo sợ trước các phong trào quần chúng, hoang mang vì
tương lai mờ mịt đồng thời luyến tiếc thời oanh liệt không còn nữa. Một bộ phận
tầng lớp tiểu tư sản bị phá sản khi cách mạng nổ ra nên họ có tâm trạng bi đát.
Đối với lớp người ủng hộ và đặt hy vọng vào cuộc cách mạng thì họ cảm
thấy thất vọng [cái họ chống đối không phải là lý tưởng cách mạng mà là thành
quả thực tế của cuộc cách mạng không như họ mong muốn].Chính những phản
ứng đối với xã hội thực tại của họ đã sản sinh ra chủ nghĩa lãng mạn.
Friedrich Engels cũng đã có nhận xét về giai đoạn này: "Vì những cơ cấu
mới tưởng như hợp lý hơn so với trước kia, thì lại hoàn toàn không hợp lý...
Phương châm bác ái được thực hiện bằng những trò lừa bịp, đố kị trong cạnh
tranh...". Sau Cách mạng Pháp, thế lực quý tộc cũ nổi dậy, tầng lớp dân chủ cấp
tiến vươn lên. Nên khuynh hướng lãng mạn tiêu cực ra đời sớm hơn khuynh hướng
lãng mạn tích cực.

2.2.2. Cơ sở tư tưởng: Chủ nghĩa lãng mạn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
xã hội không tưởng, nhưng chia làm hai khuynh hướng:


* Chủ nghĩa lãng mạn tiêu cực: Là sự phản ánh ý thức hệ của giai cấp bị
Cách mạng tư sản tước đoạt quyền lợi và đẩy ra khỏi đời sống chính trị. Những
nhà văn lãng mạn xuất thân từ tầng lớp quý tộc thường tìm tới thời Trung cổ, thời
hoàng kim của chế độ phong kiến, hướng tới lý tưởng về cuộc sống đẹp đẻ êm
đềm của thời xưa cũ. Khuynh hướng lãng mạn tiêu cực này mơ ước khôi phục lại
chế độ cũ và đức tin đối với nhà thờ để truyền bá thuyết Thần bí về thế giới. Chủ
nghĩa lãng mạn tiêu cực chịu sự tác động của
* Chủ nghĩa lãng mạn tích cực: Chủ nghĩa lãng mạn tích cực gắn liền với
tâm trạng quần chúng nhân dân đang bất mãn trước những hệ quả của cuộc Cách
mạng tư sản Pháp. Nhưng họ cũng mơ ước một tương lai tốt đẹp hơn thực tại mà
họ đang sống, nơi đó con người được giải phóng khỏi mọi áp bức bất công. Chủ
nghĩa lãng mạn tích cực chịu sự ảnh hưởng của hai nhà tư tưởng của chủ nghĩa xã
hội không tưởng, họ "nhìn vào chiều hướng của sự phát triển thực tại", nhưng thực
tế họ đã đi trước sự phát triển của thực tại.
2.3. Các nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn
2.3.1. Đề cao mộng tưởng: Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng chống lại
xã hội đương thời, con người muốn thoát li thực tế tìm đến một thế giới khác giúp
con người quên đi cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống làm
thỏa mãn "cái tôi" bị tổn thương cái tôi của con người, nên thế giới trong chủ nghĩa
lãng mạn là thế giới mộng tưởng. Tùy vào sự phản ứng khác nhau của hai khuynh
hướng tiêu cực và tích cực.
Đối với những người lãng mạn tiêu cực thì họ có thái độ bi quan trốn chạy
cuộc đời, họ thường tìm về quá khứ vào mộng ảo hay thu mình vào "cái tôi" bí ẩn,
thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái chết [Nỗi lòng chàng Werther của Johann
Wolfgang von Goethe].
Đối với những người lãng mạn tích cực thì họ không hòa hoãn thỏa hiệp với

thực tại mà họ mong muốn thiết lập nên một xã hội mới đảm bảo hạnh phúc cho
con người, họ thường vẽ nên một xã hội lý tưởng [Nhà thờ đức bà Paris, Những
người khốn khổ của Victor Hugo.
2.3.2. Đề cao tình cảm: Chủ nghĩa lãng mạn còn được gọi là chủ nghĩa tình
cảm, vì ở đây tình cảm của con người được biểu hiện rõ rệt nhất. Vì vậy, chủ nghĩa
lãng mạn chính là sự phản ứng chống lại chủ nghĩa cổ điển đề cao và tôn sùng lý
trí với những quy tắc tam duy nghiêm ngặt [không đề cập đến tình cảm của của
con người, không đưa thiên nhiên vào tác phẩm...] đã siết chặt tính sáng tạo và tình
cảm của con người. Nên trong chủ nghĩa lãng mạn tình yêu của con người được
khai thác ở mọi phương diện, thiên nhiên được phản ánh một cách sinh động nhất,
trở thành nơi phản ánh nội tâm và nuôi dưỡng tình cảm của con người.
2.3.3. Đề cao sự tự do: Vì đề cao mộng tưởng và tình cảm nên con người
muốn hướng đến một cuộc sống tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc. Ở chủ nghĩa lãng
mạn người nghệ sĩ được trả lại tất cả mọi quyền tự do để họ thỏa sức sáng tạo và


tưởng tượng. Nên đa số các tác phẩm của họ hướng đến cái khoáng đạt phi thường,
vì chủ nghĩa lãng mạn không chấp nhận những quy định nghiêm ngặt [đôi khi vô
lý], nên nó đã tự cho phép mình đạt đến sự tự do tuyệt đối.
2.4. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương
Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương được khởi đầu từ văn học lãng mạn
Pháp thế kỷ 19: Xã hội Pháp trước Cách mạng Pháp phân hoá làm 3 đẳng cấp [tu
sĩ, quý tộc, bình dân] đã tạo nên sự bất bình đẳng sâu sắc, bất hợp lý về cơ cấu kinh
tế, xã hội, văn hoá tinh thần, tư pháp, chính trị, giáo dục.Triều đình Louis XVI của
Pháp sống xa xỉ và phung phí đã dẫn đến khủng hoảng tài chính rồi khủng hoảng
chính trị. Cuộc Cách mạng Pháp với khẩu hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" là mơ
ước của nhân dân Pháp, nhưng họ đã hoàn toàn tan vỡ thất vọng khi phải chứng
kiến một thời kỳ dài đầy biến động liên tiếp. Chính những điều trên đã dẫn đến
hiện tượng phủ nhận thực tại sau cách mạng thể hiện qua nhiều thái độ khác nhau,
đây cũng là tiền đề lịch sử dẫn đến sự ra đời của văn học lãng mạn Pháp.

"Chủ nghĩa lãng mạn là phản ứng đầu tiên đối với Cách mạng Pháp và tư
tưởng khai sáng gắn liền với cuộc cách mạn đó." [Karl Marx]
"Chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng muốn thoát
ra khỏi thực tại đó." [Emile Faguet]
Bên cạnh đó, chủ nghĩa lãng mạn còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng ánh sáng
thế kỷ 18, Đây là thế kỷ của văn chương triết học,văn chương chính luận và bút
chiến; đặc biệt văn chương còn hướng về mục tiêu chống phong kiến, chống lại cơ
chế văn hóa tinh thần trung đại, cổ vũ cho một nền văn học mới với những mục
tiêu nhân bản mới.
2.5.Các phương diện của chủ nghĩa lãng mạn:
2.5.1. Đề tài : Không phân biệt đề tài cao cả hay thấp hèn, đẹp hay xấu. Nếu
trong chủ nghĩa cổ điển đề tài là cảnh sống giàu có, hành động đấu tranh cho lý
tưởng cao cả của những ông hoàng bà chúa hoàn toàn không đề cập đế những khía
cạnh đời sống của những tầng lớp dưới[những người bình dân]. Thì ở chủ nghĩa
lãng mạn mọi vấn đề của cuộc sống, mọi tầng lớp trong xã hội đều ngang nhau trở
thành đề tài cho văn học nghệ thuật.
2.5.2. Nhân vật: Mọi người dù ở bất kỳ tầng lớp xã hội nào cũng đều được
phản ánh qua các tác phẩm của chủ nghĩa lãng mạn, không phân biệt giai cấp, mọi
người đều có quyền bước chân vào văn học. Văn học lãng mạn đã thành công khi
thể hiện hình ảnh "đám đông" quần chúng với những kiếp người đau khổ. Vd:
Hình ảnh đám đông trong Nhà thờ đức bà Paris của Victor Hugo.
2.5.3. Thể loại : Chủ nghĩa lãng mạn trong văn học không có sự phân biệt thiếu
dân chủ [như trong chủ nghĩa cổ điển] không phân chia thể loại cao cả và thấp hèn,
nhưng thể loại thích hợp và được sử dụng nhiều hơn cả là thơ trữ tình và tiểu
thuyết.
2.5.4. Ngôn ngữ : Câu văn trở nên linh hoạt, thủ pháp nghệ thuật được sử dụng
nhiều hơn.


3.CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC

3.1. Khái niệm: Chủ nghĩa hiện thực là trào lưu nghệ thuật lấy hiện thực xã
hội và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng sáng tác. Chủ nghĩa hiện
thực hướng tới cung cấp cho công chúng nghệ thuật những bức tranh chân thực,
sống động, quen thuộc về cuộc sống, về môi trường xã hội xung quanh.
3.2. Cơ sở ra đời của chủ nghĩa hiện thưc: Trong văn học, những tác phẩm có
tính hiện thực và giá trị hiện thực tồn tại rất lâu trước khi chủ nghĩa này xuất hiện.
Thế nhưng chủ nghĩa hiện thực, với tư cách một trào lưu, một phương pháp, chỉ
xuất hiện vào thế kỉ 19 ở các quốc gia Pháp, Ý, Anh, Nga, sau đó ảnh hưởng tới
các nước khác. Từ "réalisme" xuất hiện lần đầu tiên ở Pháp vào năm 1826 trên tạp
chí Mercure de France, do nhà phê bình Champfleury sử dụng.[1] Với hội họa,
Pháp cũng chính là nơi ra đời của hội họa hiện thực. Trong suốt thế kỷ 18 và 19,
Pháp là trung tâm về nhiều mặt: xã hội, chính trị, văn hóa... Dù nhiều xu hướng hội
họa liên tiếp ra đời, chủ đề chính vẫn là tôn giáo, lịch sử, thần thoại với lối vẽ kinh
điển. Gustave Courbet đã xuất hiện và tổ chức cuộc triển lãm mang tên Chủ nghĩa
hiện thực của Gustave Courbet 1819 - 1877 vào năm 1855 tại Paris. Ông chính là
người đại diện cho hội họa hiện thực. Nghệ thuật của Courbet đã hưởng đến các
họa sĩ lớp sau và họ đã đi những bước đầu tiên để lập nên nền tảng cho hội họa
hiện đại sau này.
Cơ sở xã hội – lịch sử: Chủ nghĩa hiện thực thường phát triển mạnh trên cơ sở
mâu thuẫn xã hội gay gắt, phong trào đấu tranh dân chủ thu hút đông đảo quần
chúng tham gia. Bởi vì xét về mặt khuynh hướng tư tưởng, chủ nghĩa hiện thực nói
chung đều mang tinh thần dân chủ và tính nhân dân sâu sắc.
Về điều kiện văn hóa, các nhà văn hiện thực trực tiếp hay gián tiếp đều chịu ảnh
hưởng của những thành tựu khoa học trong nước và trên thế giới. Họ muốn vận
dụng tinh thần và phương pháp khoa học vào sáng tác văn chương.
3.3. Các phương diện của chủ nghĩa hiện thực:
3.3.1. Khuynh hướng cảm hứng: Chủ nghĩa hiện thực là một khuynh hướng
cảm hứng thẩm mĩ không tìm đến những thế giới xa lạ nào. Nó thường đi vào
những đối tượng quen thuộc, phổ biến của đời sống quanh ta, thậm chí là những
mảng đời tầm thường, nhàm chán. Vì nó muốn nói sự thật, muốn tìm hiểu cuộc đời

hiện thực.
3.3.2. Quan điểm phản ánh hiện thực: Nhưng chủ đích của các nhà văn hiện
thực không phải là phản ánh những hiện tượng bề ngoài mà ai cũng thường thấy
hàng ngày. Nó muốn phát hiện bản chất và quy luật khách quan của đời sống. Nó
muốn làm khoa học trong văn chương. Các nhà văn hiện thực đề cảm thấy hứng
thú đặc biệt trong việc nắm bắt hiện thực trong từng chi tiết chính xác của nó.
Lo lắng về tính chân thực của những điều mình muốn thuật tả, các nhà văn hiện
thực lớn thường bỏ nhiều công phu để điều tra sự thật, nghiên cứu các tư liệu có
liên quan đến đề tài của mình, và dùng nguyên mẫu trong đời sống thực tại để xây
dựng nên những nhân vật tiểu thuyết. Ban-dắc, L.Tôn- xtôi, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao thường xây dựng nhân vật từ nguyên mẫu ngoài đời.


3.3.3. Công cụ nghệ thuật: Công cụ của chủ nghĩa hiện thực dùng để phản ánh
bản chất và quy luật khách quan của đời sống là các điển hình – hoàn cảnh điển
hình, tính các điển hình. Đây là hình tượng có tính khái quát, giúp tóm bắt lấy bản
chất của một loại người nào đấy trong xã hội hoặc một loại tư tưởng nào đấy đang
chi phối đời sống. Những điển hình bất hủ thường có nhiều cấp độ điển hình, nghĩa
là phản ánh cùng một lúc nhiều phương diện của xã hội, nhiều phạm vi rộng hẹp
khác nhau của cuộc đời. Ở Việt Nam, thuộc trường hợp ấy, có thể kể đến các nhân
vật Xuân tóc đỏ [Số đỏ] của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo của Nam Cao... Điển hình
đạt phẩm chất nghệ thuật xuất sắc phải kết hợp được một các tự nhiên hai mặt:
Tính khác quan và tính cá thể, cá biệt độc đáo. Những nghị Hách [Giông tố], Xuân,
Phó Đoan, Cố Hồng [Số đỏ] của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo [Chí Phèo], Thứ
[Sống mòn] của Nam Cao có thể xem là đã đạt được phẩm chất đó.
3.3.4. Đề tài: Chủ nghĩa hiện thực tập trung hẳn về đề tài xã hội. Cho nên
người ta hay gọi các nhà văn hiện thực là những nhà văn xã hội.
3.3.5. Thể loại: Chủ nghĩa hiện thực, do yêu cầu của nó, tìm đến các thể loại
thích hợp nhất là phóng sự và tiểu thuyết, truyện ngắn. Thơ không có khả năng thể
hiện đầy đủ những đặc trưng của nó.

3.3.6. Các khuynh hướng của chủ nghĩa hiện thực: Trong giới nghiên cứu
khoa học, người ta thường nói đến những khái niệm: Chủ nghĩa hiện thực cổ điển
hay truyền thống, chủ nghĩa hiện thực hiện đại, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo...
Chủ nghĩa hiện thực truyền thống chủ trương phản ánh hiện thực dưới hình
thức của bản thân hiện thực. Ấy là chủ nghĩa hiện thực trong văn học phương Tây,
đặc biệt là ở Pháp và Nga thế kỉ XIX với những tên tuổi lớn như Xtăng-đan, Bandắc, Phlô- bê, Mô- pát-xăng [Pháp], Gô-gôn, Tôn-xtôi, Đốt-xtôi-ép-xki, Sê-khốp
[Nga].
Văn học hiện thực ở nước ta giai đoạn 1930 - 1945 cũng thuộc phạm trù chủ
nghĩa hiện thực truyền thống.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán là khái niệm đưa ra nhằm đặt tên cho chủ nghĩa
hiện thực không thuộc ý thức hệ vô sản, nghĩa là để phân biệt nó với chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa, một khái niệm phương pháp sáng tác văn học do hội
nhà văn Liên Xô đặt ra.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán thiên về phê phán, phủ định hiện thực xã hội tư
sản, thực dân, phong kiến. Nó cũng khẳng định, ngợi ca những lực lượng xã hội
tiến bộ, ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động dưới quyền thống trị của
tư sản, thực dân, phong kiến. Tuy nhiên, chủ đề chính vẫn là phủ định. Nhân vật
chính của phần lớn các tác phẩm văn học hiện thực phê phán là các nhân vật phản
diện thuộc các tầng lớp thống trị bóc lột.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thì thiên về khẳng định, ca ngợi con
người mới, tức là các chiến sĩ và quần chúng cách mạng. Chủ nghĩa hiện thực phê
phán noí chung, nhìn quần chúng nhân dân như những nạn nhân bất lực đối với
hoàn cảnh xã hội đè nén mình. Còn chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thì nhìn
nhận quần chúng như lực lượng chủ chốt có khả năng cải tạo xã hội cũ bằng cách
mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Chủ nghĩa hiện thực phê phán, nói
chung, bi quan về lối thoát của xã hội Trái lại, chủ nghĩa hiện thực XHCN tràn đầy
tinh thần lạc quan tin tưởng ở sự chiến thắng cuối cùng của cách mạng.


4. SỰ KHÁC BIỆT

Đi sâu tìm hiểu về hai phương thức phản ánh lãng mạn và hiện thực, ta nhận
thấy những điểm khác biệt cơ bản sau:
4.1.Về chủ trương, quan điểm sáng tác: Chủ nghĩa hiện thực là trào lưu nghệ
thuật lấy hiện thực xã hội và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng
sáng tác. Nó chủ trương phản ánh hiện thực dưới hình thức của bản thân hiện thực,
phản ánh đời sống như vốn có trong thực tế, tức là dùng chi tiết chân thực lấy
trong đời sống [tất nhiên, được chọn lọc và nghệ thuật hóa] để xây dựng tác phẩm.,
hướng tới cung cấp cho người đọc những bức tranh chân thực, sinh động, quen
thuộc về cuộc sống, môi trường xã hội xung quanh. Chủ nghĩa hiện thực thường
phát triển mạnh trên cơ sở mâu thuẫn xã hội gay gắt, phong trào đấu tranh dân chủ
thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Bởi vì xét về mặt khuynh hướng tư tưởng,
chủ nghĩa hiện thực nói chung đều mang tinh thần dân chủ và tính nhân dân sâu
sắc.
Chủ nghĩa lãng mạn là một khuynh hướng cảm hứng thẩm mĩ được khởi nguồn
từ sự khẳng định cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí
tưởng tượng. Nó phản ứng với tính duy lí, tính quy phạm mực thước của văn
chương cổ điển. Nó thể hiện thái độ bất hòa bất mãn với hiện thực xã hội bằng sự
đắm chìm vào những tình cảm buồn đau như là một thứ “bệnh thế kỉ”, đồng thời
phát huy trí tưởng tượng, tìm đến những thế giới đầy mộng mơ, hoặc thuộc quá
khứ xa xưa, hoặc ở những miền đất lạ, những xứ sở phương xa, trong đó thiên
nhiên cũng như tâm hồn con người chưa bị cuộc sống đô thị và đồng tiền làm cho
vẩn đục.
4.2 Về đề tài:
Chủ nghĩa hiện thực tập trung hẳn về đề tài xã hội, hướng tới cung cấp cho
người đọc những bức tranh chân thực, sinh động, quen thuộc về cuộc sống, môi
trường xã hội xung quanh. Cho nên người ta hay gọi các nhà văn hiện thực là
những nhà văn xã hội.
Chủ nghĩa lãng mạn dễ có cảm hứng trước ba đề tài: Thiên nhiên, tình yêu và
tôn giáo. Ba đề tài ấy giúp nó khơi những nguồn tình cảm đắm say và kích thích
mạnh trí tưởng tượng. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, đau buồn, sầu não được coi là

những tình cảm đẹp. Vì thế nó khích thích những cảnh sông dài, trời rộng và hoang
vắng, dễ gợi nỗi cô đơn, thích những đêm trăng lạnh, những buổi chiều tà, những
cảnh gió mưa, những đêm đại dương dông tố hãi hùng... văn học lãng mạn thường
viết say sưa về những chuyện thất tình, về những trái tim tan vỡ vì tình yêu tuyệt
vọng... Nó viết về tôn giáo, không hẳn vì tôn giáo, mà chủ yếu vì tôn giáo thích
hợp với những cảm hứng lãng mạn. Nó xáo trộn tình yêu với tín ngưỡng, xáo trộn
đạo với đời. Nó coi tình yêu cũng thiêng liêng như một tôn giáo vậy.
4.3. Về thể văn, bút pháp:
Chủ nghĩa lãng mạn sử dụng rộng rãi các thể văn trữ tình dù là tiểu thuyết,
truyện ngắn hay bút kí, tùy bút. Đặc biệt nó phát triển mạnh mẽ ở thơ trữ tình.
Cũng do nội dung ấy nên chủ nghĩa lãng mạn có thiên hướng sáng tạo những hình
tượng khác thường, có tính biệt lệ. Nó cũng sử dụng rộng rãi bút pháp đối lập để


kích thích mạnh vào tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng của người đọc: đói lập
giữa bóng tối và ánh sáng, cái đẹp và cái thô kệch, cái cao cả và cái thấp hèn...
Ở chủ nghĩa hiện thực, các nhà văn hiện thực trực tiếp hay gián tiếp đều chịu
ảnh hưởng của những thành tựu khoa học trong nước và trên thế giới. Họ muốn
vận dụng tinh thần và phương pháp khoa học vào sáng tác văn chương. Chủ nghĩa
hiện thực, do yêu cầu của nó, tìm đến các thể loại thích hợp nhất là phóng sự và
tiểu thuyết, truyện ngắn. Thơ không có khả năng thể hiện đầy đủ những đặc trưng
của nó. Các nhà văn hiện thực, bên cạnh lối tả chân quen thuộc, cũng sử dụng
nhiều thủ pháp nghệ thuật khác như: liên tưởng, nghịch dị, xáo trộn thời gian
không gian, tư duy kì ảo dân gian…
4.4. Sự giao thoa, ảnh hưởng qua lại:
Tuy nhiên, trên thực tế sự phân biệt hai phương thức phản ánh: Chủ nghĩa hiện
thực và chủ nghĩa lãng mạn, không hề đơn giản. Ranh giới giữa chúng có thể bị
mờ nhòe, xâm thực, khó phát hiện. Bởi lẽ, lãng mạn và hiện thực là hai khuynh
hướng cảm hứng thẩm mĩ đáp ứng hai nhu cầu tự nhiên của tâm hồn con người.
Cho nên hai khuynh hướng này thường tồn tại song song hầu như trong mọi nền

văn học của mọi thời. Chẳng hạn đời Đường ở Trung Quốc, thơ Lí Bạch giàu chất
lãng mạn, nhưng thơ Đỗ Phủ lại giàu tính hiện thực.
Nhiều nhà văn sáng tác theo cả hai khuynh hướng thẩm mĩ này. Nguyễn Công
Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Tuân... là những trường hợp như thế. Có nhà văn
rất khó phân biệt là lãng mạn hay hiện thực, như trường hợp Thạch Lam, Thanh
Tịnh, Hồ Dzếnh... có những tác phẩm chứa đựng cả hai khuynh hướng cảm hứng
đó như Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Đoạn tuyệt của Nhất Linh, Giông tố của
Vũ Trọng Phụng chẳng hạn. Đối với người đọc cũng vậy, không hề có sự đối lập
hai khuynh hướng này. Nghĩa là người ta có thể cùng một lúc thích Mấy vần thơ
của Thế Lữ, Thơ thơ của Xuân Diệu, vừa thích Chí Phèo của Nam Cao, Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng... Hai niềm thích thú không loại trừ nhau.
II. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM 1930 – 1945.
1. CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC TRONG VĂN HỌC 1930-1945.
Khuynh hướng cảm hứng hiện thực đã có từ lâu trong nền văn học nước ta. Có
thể kể từ thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, truyện kí của Nguyễn Dữ [Truyền kì mạn
lục], Phạm đình Hổ [Vũ trung tùy bút], Lê Hữu Trác [Thượng kinh kí sự] cho đến
thơ của Hồ Xuaan Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương của những thế kỉ trước.
Nhưng chủ nghĩa hiện thực với đầy đủ đặc trưng của nó thì phải đến khoảng
những năm 20 của thế kỉ XX mới thực sự xuất hiện. Không phải chỉ vì đến thời
gian này nó mới có đủ cơ sở xã hội, văn học, tư tưởng mà còn vì vào thời điểm đó
nền văn xuôi quốc ngữ mới phát triển đến độ trưởng thành nhất định,cũng như thể
văn phóng sự và tiểu thuyết hiện đại mới có điều kiện ra đời nhờ tác động của văn
học phương Tây qua một lớp nhà văn Tây học đầu tiên như Hồ Biểu Chánh, Trọng
Khiêm, Phạm Duy Tốn... Khong có hai thể văn này, chủ nghĩa hiện thực không thể
thực hiện yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật của nó.


Từ đầu những năm ba mươi, văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ
hơn, thành một trào lưu thực sự, với đầy đủ đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực. Các

nhà nghiên cứu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945 đã có thể so
sánh Nguyến công Hoan với Mô-pát-xăng, Vũ Trọng Phụng với E.Dô-la, Nam Cao
với Sê-khốp hay lỗ Tấn... mà không đến nỗi cảm thấy quá khiên cưỡng.
Quá trình vận động phát triển của văn học hiện thực phê phán 1930- 1945
Trào lưu văn học hiện thực phê phán vận động phát triển qua ba chặng đường
rõ rệt:
1.1. Chặng đường 1930-1935
Những năm 1930- 1935, văn học lãng mạn với Thơ Mới và tiểu thuyết tự lực
văn đoàn chiếm ưu thế. Tuy vậy, đã xuất hiện một số cây bút hiện thực đầy tài
năng, dần thu hút được cảm tình của độc giả: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Tam Lang , Tú Mỡ với các tác phẩm truyện ngắn, phóng sự, thơ trào
phúng...
Xét về góc độ phương thức phản ánh, các tác giả hiện thực chặng đường này đã
có cái nhìn sắc sảo về hiện thực, song tầm bao quát còn hẹp và chưa sâu. Thế giới
nhân vật của họ thường là các tầng lớp dân nghèo thành thị như phu xe, người ở,
lưu manh, gái điếm, kép hát, me Tây mạt hạng... Viết về những cong ngườ ấy, các
nhà văn hiện thực muốn phê phán tính chất bất công của xã hội và tỏ lòng thương
xót cho những nạn nhân của sự bất công đó. Nhưng tác phẩm chưa đặt ra được
những vấn đề xã hội và tư tưởng lớn, tính chiến đấu chưa cao, nền tảng nhân đạo
chủ nghĩa chưa vững. Đối với nạn nhân của chế độ thực dân, họ chỉ thấy là hèn
kém bất lực và dễ dàng bị lưu manh hóa. Chưa có tiểu thuyết hiện thực với những
điển hình có tầm khái quát rộng lớn.
1.2. Chặng đường 1936-1939
Đây là thời gian mà tình hình chính trị, xã họi rát thuaatj lợi cho sự phát triển
của trào lưu văn học hiện thực phê phán. Do sách lược mềm dẻo của các Đảng
cộng sản các nước dưới sự chỉ đạo thống nhất của quốc tế cộng sản, nhằm cô lập
bọn phát xít đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế giới lần 2, phong trào
dân chủ phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới. Do áp lực của phong trào này, ở
Pháp, một chính phủ tiến bộ lên cầm quyền, gọi là chinhd phủ mặt trận bình dân do
một Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp làm thủ tướng. Sự kiện này đã có ảnh hưởng

lớn đến tình hình nước ta: quyền dân chủ của nhân dân thuộc địa sđược nới rộng.
Đảng Cộng sản được hoạt động công khai, chế đọ kiểm duyệt sách báo bị bãi bỏ.
Sách vơ, báo chí tiến bộ và cách mạng phát triển khắp Trung Nam Bắc. Nhiều cuộc
biểu tình, mít tinh của quần chúng đông đảo không bị đàn áp trắng trợn như trước.
Hàng loạt tù chính trị được thả tự do...
Đây là thời cơ đặc biệt giúp cho văn học hiện thực phê phán phát triển rầm rộ
và có phần lấn át trào lưu lãng mạn chủ nghĩa. Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, vốn xuất hiện từ trước, nay tài năng càng nở rộ. Hàng trăm truyện ngắn với
tính chiến đáu cao hơn, hàng loạt tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa của Nguyễn
Công Hoan, Các tác phẩm bất hủ của Vũ Trọng Phụng ra đời. Tú Mỡ tiếp tục viết
dòng nước ngược, Ở chặng này, trào lưu hiện thực phê phán có thêm hai cây bút
mới: Ngô Tất Tố với các cuốn tiểu thuyết: Tắt đèn, lều chõng, các phóng sự Tập án
cái đình, việc làng; Nguyên Hồng sáng tác tiểu thuyết Bỉ vỏ, hồi kí những ngày thơ


ấu, nhiều truyện ngắn sau này in trong các tập Bảy Hựu, Miếng bánh. Cũng phải kể
đến ở đây nhiều truyện ngắn hiện thực chủ nghĩa của Thạc Lam, Thanh tịnh, Hồ
Dzếnh. Ngoài ra, nhà văn lãng mạn Lan Khai chuyển cảm hứng, cho ra đời cuốn
tiểu thuyết hiện thực Lầm than [1938], Vi Huyền Đắc với kịch Kim Tiền, Trọng
Lang với các phóng sự về nạn mại dâm, nạn trộm cắp và lang bâm...
So với chặng thứ nhất, văn học hiện thực phê phán ở chặng thứ hai này ddax
bao quát và phát hiện hiện thực ở phạm vi rộng hơn và tầm nhìn sâu hơn nhiều.
Một tác phẩm Giông tố của Vũ Trọng Phụng chẳng hạn, hầu như cả xã hội Việt
Nam thu nhỏ: Nông thôn, thành thị, nông dân, địa chủ, tư sản, trí thức, quan lại ta
và Tây, lưu manh, gái điếm, thôn nữ, gái tân thời, mật thám, phóng viên báo chí,
các nhà hoạt động chính trị đủ các xu hướng, từ quốc gia đến đệ nhị, đệ tam quốc
tế...
Chiều sâu của tác phẩm thể hiện ở sự khám phá những mâu thuẫn giai cấp
quyết liệt giữa nông dân với địa chủ, quan lại, giữa công nhân với bọn tư sản Tây
và ta, giữa các tầng lớp dân nghèo và xã hội của những kẻ có tiền có quyền... Đặt

nhân vật trong quan hệ xung đột ấy, các tác giả đã phát hiện được bản chất của bọn
thống trị bóc lột cũng hư các tầng lớp nhân dân lao động.
Một dặc sắc nổi trội của văn học hiện thực phê phán ở chặng đường này là
tính chiến đấu cao, đồng thời hết sức hoà nhập với không khí xã hội, chính trị sôi
động của đất nước. Nhiều cây bút dường như đã dưa hẳn những sự kiện chính trị,
xã hội có tính chất thời sự nóng hổi vaò trong tác phẩm của mình như Vũ Trọng
Phụng, Ngo Tất Tố, Nguyễn Công Hoan...
Thành tựu của văn học hiện thực phê phán giai đoạn này phát triển phong
phú trên nhiều thể loại khác nhau. Đặc sắc nhất là truyện ngăn, phóng sự và tiểu
thuyết. Nhiều cuốn sách đã sáng tạo được những nhân vật điển hình xuất sắc: chị
Dậu trong Tắt dèn của Ngô Tất Tố, anh Pha trong Bước đường cùng của Nguyễn
Công hoan, Nghị Hách trong Giông tố, Xuân, Phó Đoan, cố Hồng trong Số đỏ của
Vũ Trọng Phụng.
1.3 Chặng đường 1940-1945
Cuối 1939, Mặt trận dân chủ Đông Dương chấm dứt, cách mạng bị khủng bố
ráo riết. Nhật vào Đông Dương. Hai tên đế quốc Pháp và Nhật cùng ra sức bóc lột
nhân dân, đàn áp cách mạng. Chế độ kiểm duyệt laịh trở lại, sách bóa tiến bộ bị
ngăn cấm. 1941, Hồ Chí Minh về nước, lãnh đạo cách mạng, cuối cùng nắm lấy
thời cơ, giành thắng lợi trong tổng khởi nghĩa tháng Tám. 1945, giải phóng đất
nước.
Hoàn cảnh lịch sử trên khiến bộ phận văn học công khai có sự phân hóa rất
phức tạp. Nhiều cây bút hoang mang tột đọ. Tuy vậy, dòng văn học hiện thực phê
phán vẫn phát triển với những đặc sắc mới.
Ở chặng đường cuối cùng này, một số cây bút ở chặng đường trước, không
tiếp tục có mặt: Vũ Trọng Phụng mất 1939, Nguyễn Công hoan hoang mang, Ngô
Tất Tố chuyển sang khảo cứu, dịch thuật... Tuy nhiên một laotj cây bút trẻ đầy tài
năng xuất hiện: Tô Hoài viết nhiều truyện ngắn và cuốn tiểu thuyết Quê người, O
chuột, Dế mèn phiêu lưu kí. Mạnh Phú Tư có Làm lẽ, Sống nhờ. Nguyễn Đình
Lạp, Bùi Hiển, Kim Lân, và đặc biệt là Nam Cao, cây bút trẻ đầy nội lực, tiêu biểu
cho phương thức phản ánh hiện thực phê phán giai đoạn này. Ông viết hàng loạt



truyện ngắn về đề tài người trí thức tiểu tư sản và người nông dâ nghèo, trong đó
Chí phèo có thể xem như một kiệt tác. Bên cạn đó, tiểu thuyết Sống mòn của Nam
Cao được viết với một bút pháp độc đáo, cũng là tác phẩm lớn của ông.
Văn học hiện thực phê phán chặng đường 1940-1945 có sự thay đổi về đề tài
và nội dung xã hội trực tiếp. Nó thường ddi vào truyện phong tục, chuện đời tư,
đời thường mà ít đề cập đến những vấn đề xã hội rroongj lớn, hầu như không nói
đến đấu tranh giai cấp và ít chú ý xây dựng những nhân vật phản diện thuộc tầng
lớp thống trị bóc lột với thái độ lên án quyết liệt như những Giông tố, Số đỏ, tắt
đèn, Bước đường cùng... những năm trước. Văn học hiện thực chặng đường này
cũng ít gắn với không khí thời sự của đất nước, không có những cuộc biểu tình, mít
tinh, những cuộc đấu tranh giai cấp, những nhân vật hoạt động chính trị trong tiểu
thuyết. Chế đọ kiểm duyệt gắt gao và sự khủng bố của chính quyền thực dân không
cho phép các nhà hiện thực viết về những đề tài ấy.. Có một số nhà nghiên cứu văn
học, giai đoạn sau, vì thế đã đánh giá văn học hiện thực phê phán chặng đường này
rơi vào tình trạng suy thoai, bế tắc.
Tuy nhiên, xét về chủ đề tư tưởng, văn học hiện thực phê phán giai đoạn
1940- 1945 lại có những chiều sâu mới. Qua những tác phẩm của Nguyên Hồng,
Nam Cao, Tô Hoài, người ta thấy từ những chuyện vụn vặt đời thường, các nhà
văn đã đề xuất những tư tưởng sâu sắc về thân phận con người, về tương lai đất
nước, về vấn đề cải tạo xã hội... Những tư tưởng ấy tất nhiên phải đưa ra một cách
kín đáo mà người đọc phải tinh ý mới nhận ra... Những yếu tố mới lạ đó về tư
tưởng của nhiều nhà văn hiện thực giai đoạn 1940-1945 không phải ngẫu nhiên mà
có. Đó là tiếng dội chung của phong trào Việt Minh, là ảnh hưởng của tổ chức văn
hóa cứu quốc đã tập hợp được họ trong tinh thần của Đề cương văn hóa của Đảng
ra đời năm 1943.
Do tình hình chính trị của đất nước, vă học hiện thực phê phán giai đpạn này
thiên về hướng nội, thiên về tính trữ tình. Các nhà văn thường phát biểu những
nghiền ngẫm, suy tư của mình về cuộc sống, về thân phận con người, về tương lai

của đan tọc và nhân loại. Vì thế, văn học chặng đường này có màu sắc trữ tình triết lí và tính hấp dẫn riêng.
Đóng góp đặc sắc nhất của văn học hiện thực phê phán 1940- 1945 là thể loại
truyện ngắn và tiểu thuyết. Với Nam Cao, truyện ngắn Việt Nam đã đạt tới độ hoàn
thiện. Do nhu cầu hướng nội, tiểu thuyết hiện thực 1940- 1945 thiên về tính tự
truyện, hoặc hồi kí.
2. CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC 1930 - 1945
Chủ nghĩa lãng mạn đã có mầm mống ở nước ta từ cuối thế kỉ XIX với thơ,
văn, từ khúc của Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, Dương Lâm, Đào Tấn...
Đến đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện khá đầy đủ những đặc trưng
của nó trong thơ Tản Đà và trong văn của Hoàng Ngọc Phách [tiểu thuyết Tố
Tâm], Tương Phố [Giọt lệ thu- một thứ tùy bút trữ tình]...
Tản Đà là nhà thơ của sầu và mộng, của những mối tình vẩn vơ. Trí tưởng
tượng hết sức phóng túng giúp ông tạo nên những giác mơ khá ngông cuồng. Ông
làm văn tế khóc nàng Chiêu Quân đời Hán bên Tàu, ông mơ gánh thơ lên bán chợ
Trời và thực hiện một cuộc du hành ở cõi trời từ Âu sang Á... Tố Tâm viết về một


mối tình đầy nước mắt của một đôi giai nhân tài tử thời hiện đại. Còn Giọt lệ thu là
trái tim đau đớn và tiếng nức nở của một thiếu phụ khóc chồng.
Đến giai đoạn văn học 1930 – 1945, với lớp nhà văn Tây học trẻ tuổi, cái tôi cá
nhaan cá thể mới thực sự được thể hiện sâu sắc. Chủ nghĩa lãng mạn do đó phát
triển rầm rộ mạnh mẽ thành trào lưu với đầy đủ đậc trưng của nó trên các thể loại:
Thơ, bút kí, tiểu thuyết, truyện ngắn và cả kịch nói nữa...
2.1. Phong trào Thơ mới 1932 – 1945
2.1.1 Khái niệm Thơ Mới:
Khi phong trào Thơ mới ra đời, người ta quan niệm Thơ mới là thơ tự do. Tự do
đối với niêm luật và mọi phép tắc của thơ cổ điển, thơ truyền thống [luật về vần,
thanh, đối, bố cục, số câu, số chữ trong bài.... Các thi sĩ Thơ mới buổi đầu có ý
thức phá bỏ những phép tắc ấy. Có người còn cho thể từ khúc [lời của những điệu
hát cổ Trung Hoa gồm những câu dài ngắn không đều nhưng cố định] là Thơ mới.

Nhưng đến những giai đoạn sau của Thơ mới, người ta lại thấy các thi sĩ trở về
với nhiều thể thơ truyền thống như thất ngôn, ngũ ngôn, lục bát. Ngay cả lối thơ
tám chữ là sáng tạo của Thơ mới cũng bắt nguồn từ thể hát nói đã phát triển mạnh
từ thời Nguyễn Công Trứ.
Vậy thì Thơ mới không phải là thơ tự do. Nó là thơ được đổi mới cả nội dung
và hình thức, nhưng cái chính là nội dung, là phần hồn của nó. Hoài Thanh gọi đó
là “tinh thần của thơ’. Theo Hoài Thanh, thơ Việt Nam đi từ thời cổ điển đến thời
hiện đại là đi từ chữ ta đến chữ tôi- cái tôi được hiểu theo nghĩa cá nhân cá thể, với
những giá trị của nó, số phận của nó, nó chỉ trông cậy vào bản thân nó mà thôi.
Như vậy, Thơ mới thực sự là thơ của cá nhân cá thể, để phát biểu tiếng nói của
chính mình, để diễn tả những cảm nghĩ của chính mình, cái tôi thơ mới tất phải phá
bỏ hệ thống ước lệ có tính phi ngã của thơ cũ. Thơ mới nhìn đời bằng cặp mắt của
chính nó, tươi mới, xanh non, biếc rờn.. nên cuộc sống hiện ra với nhiều vẻ mới lạ,
hấp dẫn.
2.1.2 Quá trình hình thành và vận động của Thơ mới.
Những “tín hiệu” đổi mới trước thời Thơ Mới.
Chặng đường văn học 1900 - 1930 đã có những “mầm mống”, những dấu
hiệu ban đầu đổi mới thi ca: Năm 1917, trên tờ Nam Phong tạp chí số 5, Phạm
Quỳnh cho thơ cũ là phiền phức, ràng buộc, khắc nghiệt không khác gì hình luật.
Năm 1928, trên tờ Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã mạnh dạn hơn, lớn tiếng đả
kích một cách táo bạo luật lệ thơ cũ, cho đó là sự trói buộc, hãm đà phát triển thơ
ca.Ngoài ra, các bài thơ, bài tranh luận rải rác trên các báo Trung Bắc tân văn, Phụ
nữ tân văn những năm 1928, 1929 cũng cảm thấy luật thơ Đường là quá gò bó
“buộc người ta phải làm theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi
dào” nên lên tiếng đả kích. Như vậy, yêu cầu đổi mới thi ca đã được đặt ra từ
những năm 20 của thế kỉ XX và nhu cầu tìm đến một mô hình thơ ca mới đã trở
thành một yêu cầu bức thiết của thời đại.
Sự “bùng nổ” của phong trào Thơ Mới: Cuộc tranh luận Thơ cũ Thơ
mới.
Phôi thai từ những năm 1917, song tạm lắng lại do không tìm được hướng

đi, vấn đề Thơ mới - Thơ cũ… lại trở lại, vô cùng sôi nổi, quyết liệt trên thi đàn
từ những năm 1932. Cuộc tranh luận đã kéo dài trong nhiều năm, thu hút phần


lớn các tờ báo đương thời vào cuộc bút chiến, gây nên không khí sôi nổi trên văn
đàn khắp ba kỳ: Phong hóa, Tiếng dân, Công luận, Hà Nội báo, An nam tạp chí,
Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay...Thơ Mới và Thơ cũ là vấn đề mô hình thể loại,
nhưng thực chất nó phản ánh sự đấu tranh giữa ý thức hệ phong kiến với ý thức
hệ tư sản, giữa cái cũ và cái mới trong nghệ thuật.
Để làm rõ tính chất gay gắt, phức tạp của cuộc tranh luận có ý nghĩa văn học
sử quan trọng này, chúng tôi xin được bổ sung những tư liệu khác với mong muốn
làm rõ hơn quan điểm của những người bênh vực Thơ Mới trong khoảng thời gian
1932 - 1936, giai đoạn mà thơ Mới đang hình thành và giành quyền chiếm lĩnh thi
đàn.
Tháng 1.1933, Việt Sinh- Nhất Linh đăng bài Chế giễu các ông làm thơ cũ.
Phong hóa số 31, ngày 12.1.1933.
Phong hóa số Tết [24.1.1933] đăng lại bức thư của Lưu Trọng Lư gửi Phan
Khôi và các bài thơ mới của Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Tân Việt và sau đó tiếp tục
đăng Thơ Mới của Tứ Ly, Thế Lữ, Nhất Linh, Nguyễn Văn Kiện, Vũ Đình Liên,
Đoàn Phú Tứ, Huy Thông...
Tháng 5.1933, Lưu Trọng Lư có bài Một cuộc cải cách về thi ca in trong tập
Người sơn nhân, sau đó đăng lại trên Phụ nữ tân văn số 216, ngày 15.9.1933.
26.7.1933, cô Nguyễn Thị Kiêm đăng đàn tại Hội Khuyến học Sài gòn tán
dương Thơ Mới. Phụ nữ tân văn số 210, ngày 3.8.1933 đăng bài Nghe cô Nguyễn
Thị Kiêm diễn thuyết của Bà Nguyễn Đức Nhuận ca ngợi cô Nguyễn Thị Kiêm.
Bài diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm đăng trên Phụ nữ tân văn số 211, ngày
10.8.1933 và số 212, ngày 24.8.1933.
Tháng 7.1933, An Diễn có bài Lối thơ mới khẳng định "Lối thơ mới là một
cái khuynh hướng đương phát triển trong văn giới An nam". Phụ nữ tân văn số
207, ngày 6.7.1933.

Tháng 12.1933, Nguyễn Thị Kiêm có bài Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là
ghét bỏ lối thơ mới đăng trên Phụ nữ tân văn số 228, ngày14.12.1933.
Tháng 6.1934, Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại nhà Học hội Quy Nhơn. Bài
diễn thuyết được đặt tên Phong trào Thơ Mới được trích đăng trên Tiểu thuyết thứ
bảy số 27, ngày 1.12.1934.
Tháng 12.1934, Hoài Thanh có bài Thơ Mới khẳng định "Thơ Mới không
những có, mà lại có những tay thi sĩ có tài sản xuất nhiều tác phẩm rất giá trị nữa".
Tiểu thuyết thứ bảy số 31, ngày 29.12.1934.
Tất nhiên là các học giả bênh vực thơ cũ cũng tranh luận rất quyết liệt để
bảo vệ thơ cũ, bài xích thơ mới. Các ông Tân Việt, Tản Đà, Hoàng Duy Từ,
Nguyễn Văn Hanh, Tường Vân và Phi Vân, Thái Phỉ, Huỳnh Thúc Kháng… đều
đã có bài viết hoặc diễn thuyết bày tỏ quan điểm bênh vực thơ cũ của mình.
Tuy vậy, trước sự bành trướng mãnh liệt của Thơ Mới, trước những sự hô
hào rầm rộ của những người trong phái Thơ Mới, dù làng thơ cũ đã có phản ứng,
cũng không sao cứu vãn được tình thế. Cuộc đấu tranh đã đến hồi không ngang
sức. Thơ Mới đã thắng thế. Năm 1936, Lê Tràng Kiều, trong lời đề tựa Những áng
văn hay đã đề nghị nên xóa bỏ hai chữ “Thơ Mới” vì “Cuộc cách mệnh về thi ca
nay đã yên lặng như nước hồ thu”, thơ ca đã định hình theo lối mới. Còn tác giả
của Thi nhân Việt Nam, khi tổng kết “Một thời đại trong thi ca” năm 1941, đã gọi


cuộc tranh luận ấy là “cuộc đại náo trong làng thơ” và nhận định tình hình: “Thơ
Mới đã đấu tranh gắt gao với thơ cũ, một bên giành quyền sống, một bên giữ
quyền sống. Cuộc đấu tranh kéo dài cho đến ngày Thơ Mới toàn thắng… Bước
sang năm 1936 sự toàn thắng của Thơ Mới đã rõ rệt ”.
Có thể nói, các bài viết, các bài diễn thuyết về quan điểm, quan niệm thơ đã
tạo nên một đời sống văn học vô cùng sôi động, một không khí thi đàn nóng bỏng
trong những năm tháng này. Và không còn nghi ngờ gì nữa, nó góp phần quan
trọng vào việc tìm ra một lối đi, một thế đứng cho Thơ Mới, đồng thời cũng hỗ trợ
sáng tác, góp phần không nhỏ vào thắng lợi của Thơ Mới - một xu thế tất yêú của

thi ca thời đại, trong sự vận động chung của văn học trước những biến động dữ dội
của đời sống xã hội.
Từng bước vận động, hoàn chỉnh và tổng kết Thơ mới..
Từ 1936, Thơ Mới được nhận định là đã hoàn toàn thắng thế, dường như
cuộc đấu tranh Thơ mới - thơ cũ đã kết thúc. Không bận tâm về sự tranh cãi để tự
khẳng định nữa, các nhà thơ mới đua nhau học hỏi kinh nghiệm, tìm tòi và sáng
tạo.. Đây là giai đoạn Thơ mới phát triển phong phú với nhiều phong cách đa dạng.
Xét về “phần hồn”, Thơ mới giai đoạn này mới thực sự là mới, nghĩa klaf cái tôi cá
nhân cá thể thể hiện hết mình, không dè dặt nữa. Ở giai đoạn thứ hai này, Thế Lữ
phải nhường ngôi “đệ nhất thi sĩ cho Xuân Diệu” – nhà thơ được côi là “mới nhất
của phong trào Thơ mới”. Xuân Diệu – nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với
đời, của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, một trái tim sôi nổi, bồng bột, thiết tha, là
đại diện tiêu biểu, đầy đủ và sinh động nhất cho trao lưu lãng mạn, cho phương
thức phản ánh lãng mạn của văn học lãng mạn Việt Nam thời kì 1930- 1945. Bên
cạnh đó là hàng loạt các thi sĩ, các xu hướng, quan điểm lí luận thơ ca chặng đường
này, minh chứng cho sự thăng hoa của Thơ mới. Có thể kể đến: Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên với Trường thơ Loạn, Thơ “điên” Nhóm “Xuân Thu nhã tập” và quan
niệm thơ thuần tuý, Siêu thực: Thơ gắn liền với Đạo. Nhóm Dạ đài và phái thơ
Tượng trưng…Cuối năm 1941, Hoài Thanh và Hoài Chân viết xong cuốn Thi nhân
Việt Nam. Thi nhân Việt Nam là sự ngưng kết và thăng hoa của mười năm Thơ
Mới đi kèm với những lời bình tài hoa, xứng tầm với những bài thơ được chọn lựa.
Tác giả đã phân tích nguyên nhân sâu xa của phong trào Thơ Mới, quá trình hình
thành và phát triển, đặc điểm thi pháp và các khuynh hướng thơ… Là một người
gắn bó với phong trào, kể từ bài viết đầu tay nhan đề Thơ Mới năm 1934 cho đến
công trình Thi nhân Việt Nam có ý nghĩa văn học sử quan trọng này, có thể coi ông
là một thành viên của Thơ Mới, một đại diện xuất sắc của văn chương đương thời
đã có công dựng một tượng đài lộng lẫy, bất tử cho Thơ Mới.
Thơ Mới, qua sự tổng kết của Hoài Thanh về mười năm phát triển, đã hiện
lên một cách đầy đủ, toàn cảnh, với diện mạo trọn vẹn và những thành tựu nổi bật
của nó, suốt cả quá trình từ giai đoạn phôi thai, xuất hiện cho đến chặng đường

trưởng thành và phát triển của hiện tượng văn học này.
2.2. Xu hưởng tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn.
2.2.1. Khái niệm xu hướng tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn:
Tự lực Văn đoàn là tổ chức của một nhóm nhà văn đứng đầu là Nhất Linh
[Nguyến Tường Tam] thành lập năm 1933, gồm Nhất linh, Khái Hưng, Hoàng


Đạo, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thế Lữ, Tú Mỡ… Nhóm này có phát biểu về một
tôn chỉ thống nhất. Sự gặp gỡ về quan điểm chính trị, xã hội, văn học chung quanh
cơ quan ngôn luận là tờ báo Phong hóa và ngày nay.
Tuy nhiên, về khuynh hướng thẩm mĩ họ không hoàn toàn thống nhất.
Xu hướng thiểu thuyết Tự lực Văn đoàn là xu hướng, lối viết cuarieeng ba
cây bút Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo trong Tự lực Văn đoàn. Tiểu thuyết
của họ được xây dựng theo một phương thức, mô hình hết sưc thống nhất: từ đề tài
chủ yếu là về tình yêu, chủ đề là ca ngợi tư tưởng, văn hóa, văn minh phương Tây,
đấu tranh cho chủ nghĩa cá nhân, cho tình yêu và hôn nhân tự do, chống lễ giáo
phong kiến, đề cao lối sinh hoạt của pương Tây hiện đại, cổ vũ cho phong trào Âu
hóa trong tư tưởng, văn chương nghệ thuật, đến y phục và cachshwowngr thụ đòi
sống vật chất. Nhân vật lí tưởng cho các tiểu thuyết này, dù có thay tên đổi
hojtrong các truyện khác nhau, thì cũng vẫn là những chàng” và “nàng” tri thức
Tây học trẻ tuổi xinh đẹp và đa tình thuộc tầng lớp trưởng giả. Họ cũng có tinh
thần dân tộc và dân chủ, cũng tỏ ra biết xót thương người nghèo khổ, nhưng tư
tưởng và sinh hoạt rất xa cách với đại đa số dân nhèo lao động. Nói chung họ đều
rất “vui vẻ trẻ trung”. Cách hành văn của các tiểu thuyết này khá hiện đại. Lời văn
trong sáng giản dị, ít dùng chữ Hán, nhưng là lối văn ít chất sống, thiếu đi cái khỏe
khoắn, góc cạnh, gân guốc của cuộc sống bình dân. Cảm hứng chủ đạo của tiểu
thuyết tự lực văn đoàn là cảm hứng lãng mạn. Nhưng cũng có những tác phẩm viết
theo cảm hứng hiện thực, dựng nên được những bức tranh hiện thực khá sắc sảo
bên cạnh những trang văn đầy lãng mạn.
2.2.2. Sự ra đời và quá trình vận động, biến chuyển của xu hướng tiểu

thuyết Tự lực Văn đoàn.
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nhóm Tự lực Văn đoàn là Hồn bướm mơ tiên của
Khái Hưng, ra đời 1933.Truyện về đôi trai gái thành thị tình cờ gặp và yêu nhau
giữa cảnh thiên nhiên thơ mộng, dưới bóng từ bi Phật Tổ, chủ trương một tình yêu
thuần khiết, không hôn nhân là câu chuyện lãng mạn thi vị trong cái không khí
ngột ngạt của xã hội đương thời. Sau đó là các tiểu thuyết Gánh hàng hóa, Nửa
chừng xuân, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng của Khái Hưng và Nhất Linh. Chúng được
tầng lớp thanh niên nhiệt liệt đón nhận vì nó mang đến một tinh thần dân chủ, nhân
đạo, nhân danh văn minh tiến bộ chống lại lễ giáo phong kiến, đấu tranh cho giải
phóng phụ nữ và tự do luyến ái, hôn nhân. Với một thái độ dứt khoát, không khoan
nhượng.
Đến giai đoạn 1936- 1939, Mặt trận dân chủ hoạt động mạnh mẽ, không khí
dân chủ rõ rệt hơn, vấn đề đấu tranh giải cải thiện đời sống dân cày được đặt lên
hàng đầu. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn lập tức thay đổi đề tài. Vấn đề người dân
cày nổi lên ở vị trí chủ đạo. Những “chàng” và “nàng” được đặt vào không gian
nông thôn, trong mối quan hệ với người nông dân nghèo, vạch ra một lí tưởng xã
hội cao cả và viển vông, hão huyền, nhưng chân thật và đẹp đẽ trong tâm hồn lãng
mạn của các nghệ sĩ. Tống mái, Gia đình, Hai vẻ đep, Con đường sáng… là các tác
phẩm như thế.
Giai đoạn thứ ba của xu hướng tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn là khi Mặt trận dân
chủ chaams dứt, đại chiến thế giới lần hai bùng nổ. cuộc sống ngột ngạt, tàn bạo,
bế tắc… Thời thế đã làm lung lay dữ dội đến những ngọn tháp ngà cao nhất và yên


tĩnh nhất của văn chương lãng mạn. Những ảo tưởng cải cách xã hôi, đấu tranh cho
hạnh phúc cá nhân… của Tự lực Văn đoàn cũng tan thành mây khói. Các tiểu
thuyết của họ thời kì này là Bướm trắng, Thanh đức đã tỏ ra hết sức bi quan, chán
nản, bế tắc, thậm chí phản động. Từ 1942, 1943 trở đi, họ ngừng sáng tác, chuyển
sang hoạt động chính trị phản động. Tự lực văn đoàn có thể coi là chấm dứt.
2.2.3. Một số đóng góp nghệ thuật của tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn.

Nghệ thuật của tiểu thuyết Tự lực Văn đoàn ngày nay đã bị vượt qua. Tuy nhiên
vào thời đó, nó đã có đóng góp rất lớn vào cuộc cách tân, hiện đại hóa tiểu thuyết
Việt Nam. Cụ thể là nhân vât, tính cách và nội tâm nhân vật được chú ý khai thác.
Các tiểu thuyết đã biết tôn trọng quy luật tự nhiên của cuộc sông, dựng được
những bức tranh đẹp về non sông đất nước mình. Lời văn xuôi quốc ngữ trong
sáng giản dị.. khác lối văn cổ nặng nề nhiều điển tích uyên bác. Đương thời, những
trang văn diễn tả tâm lí nhân vất tinh vi, sâu sắc, những chân dung thiếu nữ đẹp
hiện đaịh và tình tứ, những quan điểm sống tự do mới mẻ và chủ động của họ, đã
làm chấn động co9ng chúng độc giả, nhất là tầng lớp thanh niên thành thị. Sau này,
nghê thuật của Tự lực Văn đoàn đã nhanh chóng bị vượt qua, song nếu khồng kế
thừa những sáng tạo, cách tân của Tự lực Văn đoàn, thì các tác giả hậu thế cũng
khó có thể thành công.


C. KẾT LUẬN
1. NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA ĐỀ TÀI
Trong khuôn khổ một đề tài nhỏ, chúng tôi đã cố gắng đưa ra một các giản
dị nhất các vấn đề lí luận cơ bản về phương thức phản ánh, phương pháp sáng
tác- đó là những nguyên tắc chung trong thái đô sáng tạo của nghệ sĩ , là cách
thức tái hiện, phản ánh đời sống trong văn học. Đây là nền tảng mà mỗi giáo
viên và học sinh cần nắm vững trên con đường tiếp nhận và khám phá vẻ đẹp
của tác phẩm văn học.
Phản ánh nghệ thuật có những đặc thù riêng, người nghệ sĩ không phải miêu
tả hiện thực mà tái tạo hiện thực, theo cảm nhận của riêng mình và những
phương thức, nguyên tắc của nghê thuật. Hiện thực trong tác phẩm là sự khúc
xạ cuộc sống qua lăng kính người nghệ sĩ, là sự thăng hoa của hiện thực ngổn
ngang đời thường. Quá trình sáng tạo, thăng hoa ấy, có yếu tố của tài năng, xúc
cảm, những tích lũy vốn sông... và quan điểm nghệ thuật, nền tảng phương thức
phản ánh. Hai phương thức phản ánh cơ bản, quan trọng nhất là Lãng mạn và
hiện thực. Chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghiã hiện thực vừa là trường phái sáng

tác, trào lưu văn hoc, vừa là quan niệm thẩm mĩ, phương thức của tư duy... Hiểu
và phân biệt các nội hàm của hai vấn đề này không đơn giản, bởi nó có cả một
quá trình hình thành, phát triển và phân hóa phức tạp, cho đến nay quan điểm
nhìn nhận của các học giả, các nhà nghiên cứu còn có chỗ chưa nhất quán.
Chúng tôi đã cố gắng trình bày đầy đủ nhất ở mức có thể về hai vấn đề này,
phân biệt và soi chiếu chúng trên từng khía cạnh.
Cũng trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi muốn liên hệ tới hai trào lưu, hai
dòng văn học cùng song song tồn tại, tỏa sáng ở một chặng đường của văn học
Việt Nam, mang những nét đặc trưng tiêu biểu của hai phương tức phản ánh
đang tìm hiểu. Hi vọng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về vấn
đề đang nghiên cứu và về giai đoạn văn học 1930 -1945.
2. NHỮNG ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Trong thời gian hạn chế và kiến thức còn hữu hạn, đề tài không tránh khỏi
những thiếu sót, nhược điểm. Rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp chân
thành của các đồng nghiệp để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn
đề tài này. Xin trân trọng cảm ơn.



SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC và CHỦ NGHĨA LÃNG mạn TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH [2]

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [252.24 KB, 29 trang ]

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
PHẦN MỞ ĐẦU
Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội đặc thù luôn vận
động, biến chuyển. Diễn tiến của văn học như một hệ thống chỉnh thể với sự hình thành,
tồn tại, phát triển qua các thời kì lịch sử. Bởi vậy có thể nói văn học là con đẻ của thời
đại, mang nhịp đập, dáng dấp, hơi thở của thời đại. Nó là một phần da thịt của lịch sử.
Nếu ví văn học như một dòng sông uốn mình theo chiều dài của lịch sử dân tộc thì
những biến động từ bối cảnh lịch sử đã làm cho dòng sông ấy cuộn sóng, trào dâng lên
những dòng chảy khác nhau và những dòng chảy ấy người ta gọi là Trào lưu văn học.n
Đó như là những dòng lũ bề thế dâng lên với một tập hợp những tác giả, tác phẩm gần
gũi về cảm hứng, tư tưởng, nguyên tắc miêu tả hiện thực... diễn ra, nổi lên trong một
thời diểm nhất định của lịch sử rồi lại “ rút” đi.
Ở Việt Nam, các trào lưu văn học lần đầu tiên xuất hiện vào khoảng những năm
30 của thế kỉ XX. Trong giai đoạn 1930 – 1945 đã xảy ra biết bao sự kiện của lịch sử,
xã hội thay đổi dẫn đến sự biến đổi sâu sắc trong ý thức và tâm lí con người. Giai đoạn
này cuộc sống con người bị đẩy vào “bước đường cùng”, nén chịu bao nỗi quằn quại
dưới sự chà đạp của xã hội thực dân phong kiến. Xã hội đã dồn con người vào bế tắc,
cùng quẫn. Chính bối cảnh ấy đã thúc đẩy văn học vươn mình, mang cho nó nhiều dạng
vẻ, hương sắc. Và rồi nảy sinh nhiều trào lưu văn học khác nhau, nổi bật lên đó là các
trào lưu văn học lãng mạn, văn học hiện thực, văn học cách mạng.
Lịch sử giai đoạn 1930 – 1945 đầy biến động, sau nhiều phong trào cách mạng
không thành, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên
lớn lên không có lí tưởng để phụng sự. Con đường yêu nước bế tắc, họ thoát li trong
những tình cảm cá nhân. Trào lưu văn học lãng mạn bắt đầu từ đấy. Đặc điểm chính của
trào lưu này là sự đào sâu vào cái tôi nội cảm, diễn tả ước mơ, khát vọng của cá nhân,
đề cập đến những số phận cá nhân với thái độ bất hòa, bất lực trước hiện thực tầm
thường, tù túng. Đối với hiện thực xã hội, thái độ của nhà văn là thái độ chủ quan, họ
nhìn đời qua lăng kính của mình, qua những khát vọng, những mộng tưởng của bản
thân. Họ muốn thoát li đời sống, vượt ra khỏi thực tại thỏa sức dùng trí tưởng tượng bay
bổng để đối lập hiện thực với ước mơ, lí tưởng nhằm chối bỏ thực tại.


Bên cạnh đó, văn học hiện thực như một lưỡi cày sâu, lật lên mặt trái của xã hội
đương thời. Hiện thực cuộc sống với những lầm than cơ cực đã được phơi bày dưới
những cây bút lực lưỡng như Ngô Tất Tố với tập phóng sự “Việc làng” ở đó ta thấy
được những hủ tục nặng nề của nông thôn Việt Nam. Với “Tắt đèn”, người đọc thấy
được một thứ tai họa khủng khiếp ỏ nông thôn, đó là những người dân bần cố nông phái
điêu đứng, quằn quại trong sự đè nén vì sưu thuế. Đó còn là Vũ Trọng Phụng với tiếng
cười châm biếm sắc sảo, sâu cay trong các tác phẩm như “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ
đê”... “Cạm bẫy người”, “Kĩ nghệ lấy Tây”... bộ mặt xã hội Việt Nam cả thành thị lẫn
nông thôn đã hiện lên một cách rõ nét.
“Sự khác biệt giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong phương thức
phản ánh” là một hướng tiếp cận tuy không mới nhưng luôn có nhiều tranh luận. Trong
chuyên đề này, chúng tôi chỉ chủ yếu đề cập tới phương thức phản ánh trên các phương


diện: đề tài, chủ đề, cảm hứng, nhân vật của văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê
phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

PHẦN NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Chủ nghĩa lãng mạn – Lịch sử hình thành và đặc trưng cơ bản:
Chủ nghĩa lãng mạn là một khái niệm mang tính lịch sử. Từ rất lâu nó đã được sử
dụng với tư cách là một trào lưu tư tưởng, thủ pháp biểu hiện và loại hình văn học.
Nhưng chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu thì phải chờ tới cuối thế kỉ 18
đến những năm 30, 40 của thế kỉ 19, đầu tiên hình thành ở Đức, sau đó lan sang Anh,
Pháp, Nga… nhanh chóng phát triển thành phong trào văn học rộng khắp châu Âu, tạo
ra rất nhiều tác giả, tác phẩm có ảnh hưởng lớn. Chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là loại
hình văn học chủ yếu chỉ chủ nghĩa lãng mạn ở thời kì này.
Thời kì hưng thịnh nhất của chủ nghĩa lãng mạn là vào trước sau cuộc đại cách
mạng tư sản Pháp, tức là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ 18 đến những năm 30
của thế kỉ 19. Sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa lãng mạn trong thời kì này hiển nhiên

là do điều kiện chính trị xã hội lúc đó quyết định. Năm 1789 giai cấp tư sản Pháp lật đổ
chính quyền phong kiến chuyên chế, lập nên sự thống trị của giai cấp tư sản, điều này
làm dâng lên phong trào cách mạng dân chủ tư sản và phong trào giải phóng dân tộc ở
khắp châu Âu. Đi liền với phong trào này là sự bấp bênh, hỗn loạn của hiện thực xã hội,
lí tưởng của chủ nghĩa Khai sáng bị hủy diệt, sự thất vọng ăn sâu lan rộng trong xã hội.
Cùng với nó, mong ước về một xã hội lí tưởng chân chính cũng trở thành tâm lí xã hội
phổ biến, những điều này dẫn đến sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, mặc
dù lí luận chủ nghĩa xã hội không tưởng với đại biểu là Xanh Ximong và Owen tuy
không phải là lí luận khoa học, hoàn thiện nhưng tư tưởng xã hội tiêu biểu của nó là
mong ước không tưởng về một xã hội giải phóng chân chính, cũng trở thành cơ sở của
chủ nghĩa lãng mạn.
Sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn cũng có cội nguồn từ kinh nghiệm lịch sử và
đấu tranh trong bản thân văn học. Văn học cảm thương chủ nghĩa Anh thế kỉ 18, yêu
cầu giải phóng cá tính, chủ trương tự do tình cảm, quay trở lại tự nhiên thuần phác của
Rousseau, nhấn mạnh cá tính, sắc thái tình cảm mãnh liệt trong phong trào cách tân với
đại biểu là Goethe, nghiên cứu về tính bi kịch, ngợi ca, vẻ đẹp đăng đối của Kant,
Schiele; sự thưởng thức nghệ thuật bắt đầu bằng việc đặt nghệ thuật trong dòng phát
triển lịch sử của Herder, Hegel… tất cả đã kích hoạt tư tưởng của con người, làm cho
cảm nhận, lí giải của con người đối với nghệ thuật trở nên sâu sắc hơn, từ đó yêu cầu
nghệ thuật biểu hiện tinh thần vĩ đại và tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc…Tất cả
những điều này đều có vai trò quan trọng đối với sự hình thành chủ nghĩa lãng mạn.
Ngoài ra, chủ nghĩa cổ điển trước đó có khuynh hướng giáo điều lí tính khô cứng, tạo
thành những giới luật hà khắc đối với tự do biểu hiện tư tưởng của nhà văn, dẫn đến sự
phản đối mãnh mẽ của một số nhà văn, điều này cũng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa
lãng mạn.
Từ lãng mạn [romanticism, romantisme] xuất phát từ tình ca [romances] của thời
trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng, về những
vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng... hoặc những bài ca mà người hát rong



[trabadour] thường sử dụng trong ca diễn của mình. Nó xuất hiện sớm nhất ở Đức. Vậy
lãng mạn là gì? Biélinski trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa: "Chủ nghĩa
lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim". Có
thể nhìn qua những nét chính thể hiện trong những tác phẩm lãng mạn để nhận ra rằng
chủ nghĩa lãng mạn là thứ nghệ thuật ở đó nổi trội chất trữ tình. Đối lập với hiện thực là
lãng mạn, đối lập với tự sự là trữ tình. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc,
tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người
nên thường vươn lên trên thực tại. Hai phạm trù nghệ thuật này tuy khác nhau nhưng
thường đi đôi với nhau. Trữ tình chính là sự mở rộng chủ nghĩa cá nhân, hệ tại ở những
hiện tượng cảm tính như tình cảm, cảm xúc về tình yêu, hi vọng, tuyệt vọng, hận thù,
thiện cảm, ưu phiền... Georges Duhamel nhận xét: "Phát xuất từ tâm hồn cá nhân, thơ
trữ tình tỏa ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ tình không chỉ là đặc
tính của một loại thơ, đối với tính nhạy cảm của con người hiện đại, nó là thực chất, là
điều kiện cần và đủ của thơ ca". Nói như V. Hugo, lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong
văn chương. Chính vì sự đòi hỏi tự do mà phong trào lãng mạn đề cao cá nhân, phá bỏ
những ràng buộc, qui luật chặt chẽ trong nghệ thuật, thoát khỏi những khuôn mẫu câu
thúc. Bút pháp phóng khoáng, vần điệu đa dạng, từ ngữ được chọn lựa tùy theo mức
cảm hứng, hành xử theo con tim dễ nhạy cảm và đam mê với giọng điệu thiết tha, đôi
khi đạt đến tính nhân bản sâu sắc...
Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn là tinh thần hướng về lí tưởng. Rất khác
so với tinh thần chú trọng hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật, trung thành với hiện thực
của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn luôn hướng về và truy tìm lí tưởng với tinh
thần vượt lên trên hiện thực, dùng lí tưởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan, dốc
toàn lực để biểu hiện một viễn cảnh cuộc sống mà con người nên có. Schiller nói sáng
tác của mình là “lấy lí tưởng đẹp đẽ để thay thế hiện thực thiếu thốn”[ Schiller bình
truyện. Nxb Nhà văn, 1955, tr55]. George Sand nói sáng tác của mình là “cảm thấy tất
yếu phải dựa theo hi vọng của tôi đối với nhân loại, dựa vào cái mà tôi tin là nhân loại
nên có để viết về nó”[ George Brandes: Nhà văn Pháp bình truyện. Nxb Phụ vụ văn hóa
quốc tế, 1951, tr2]. Nhà tiểu thuyết người Đức Jean Paul nói: “Nếu như nói thơ là lời dự
đoán, thì thơ lãng mạn chủ nghĩa chính là dự cảm tương lai, vĩ đại hơn sự bao dung của

thế gian con người. Hoa của chủ nghĩa lãng mạn đã từng trôi dạt quanh chúng ta, giống
như trước khi một đại lục mới được tìm thấy, giống như một loại hạt mà tất cả chúng ta
chưa từng nhìn thấy sớm được nước biển đưa từ châu Mĩ đến bờ biển Na Uy”[ Jean
Paul: Nhập môn mĩ học. Xem: Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về Chủ nghĩa hiện thực và
chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc,1981, tr354]. Chủ nghĩa lãng mạn
không truy tìm chân thực cuộc sống, chân thực chi tiết, mà dốc toàn lực biểu hiện lí
tưởng. Như Michael trong tác phẩm Nữ hoàng Mab đã miêu tả một thế giới tuyệt đẹp
với sự hòa thuận, thân ái, bình đẳng…, điều mà tác giả muốn biểu hiện chính là một thế
giới lí tưởng. Trên một ý nghĩa nào đó, chủ nghĩa lãng mạn phù hợp hơn với bản chất
của văn học, thỏa mãn hơn nhu cầu tranh đấu tự do, hướng tới hạnh phúc, truy tìm lí
tưởng của con người.
Vì hướng tới biểu hiện hiện thực xã hội lí tưởng nên hình tượng nhân vật của chủ
nghĩa lãng mạn cũng là hình tượng nhân vật lí tưởng. Ví dụ như Quasimodo lương
thiện, cao thượng dưới ngòi bút của V.Hugo; Jean Valjean vì lương tâm nhân tính mà
bao lần không quản hiểm nguy cứu người, bao lần sáng tạo nên kì tích biến nguy thành
an; Tôn Ngộ Không dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân có thể lên trời xuống biển, nhìn


thấu ma quỷ, đối đầu với thần, truy đuổi yêu tinh, hô mưa gọi gió, làm theo ý mình,
thượng đế long vương không biết phải làm như thế nào… tất cả đều là những hình
tượng nhân vật lí tưởng. Van Tieghem nói về hình tượng nhân vật lí tưởng của chủ
nghĩa lãng mạn như sau: “không nắm bắt tình huống nhiều hơn, đem so sánh loại hình
tượng văn học này với hình tượng văn học xưa kia và đương thời trên vũ đài văn học là
không chính xác…. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn và những điều nó nói là một điển
phạm nhưng không như nói là một điển hình; nó hướng tới thức dậy sự tán thành, hứng
thú của độc giả chứ không phải là đưa ra đối tượng cần mô phỏng”[ Lucien LevyBruhl: Lịch sử văn học Pháp thế kỉ 19. Nxb Nhân dân Thượng Hải, 1997, tr 26].
Cuộc sống lí tưởng mà chủ nghĩa lãng mạn hướng đến, truy tìm và nhân vật lí
tưởng trong hiện thực cuộc sống đương thời là không tồn tại, nó đều xuất phát từ tâm
hồn chủ quan của nhà văn. Bielinxki đã nói: “Trên ý nghĩa bản chất nhất, hẹp nhất, chủ
nghĩa lãng mạn chính là thế giới nội tâm chủ quan của con người, là cuộc sống bí mật

của tâm hồn anh ta. Trong trái tim và tâm lí con người tiềm ẩn ngọn nguồn bí mật của
chủ nghĩa lãng mạn”[Bielinxki bàn về văn học. Nxb Văn nghệ mới 1958, tr153].
Marilyn Butler – nhà lịch sử văn học người Anh nói: “nghệ thuật nhìn từ trường phái
lãng mạn chủ nghĩa là một ngọn đèn, hình tượng mà nó phát sáng không phải có nguồn
gốc từ thế giới mà có nguồn gốc từ nhà thơ. Nghệ thuật trở thành nghệ thuật của chủ
quan phi khác quan, xuất phát từ cảm ứng trực giác chứ không phải là từ quy hoạch lí
tính”[ Marilyn Butler: Trường phái lãng mạn, kẻ phản nghịch và phái phản động. Nxb
Nxb Giáo dục Liêu Ninh, 1958, tr153]. Người mở đầu cho thơ ca trường phái hiện đại
Pháp Baudelare nói: “Chủ nghĩa lãng mạn vừa không phải là đề tài tuyển chọn vừa
không phải là chân thực chuẩn xác mà là phương thức cảm nhận”. “Họ tìm kiếm ở bên
ngoài, nhưng thực chất chỉ có ở trong mới có thể tìm kiếm
được”[ Sharon 1846. xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981, tr184]. Vì thế, giống như Chu
Quang Tiềm chỉ ra: “cái nổi bật nhất, đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa lãng mạn là
tính chủ quan”[Lịch sử mĩ học phương Tây. Quyển hạ, Nxb Văn học nhân dân, 1964, tr
727]. Chủ nghĩa lãng mạn mang sắc thái chủ quan sâu sắc, tập trung vào lí tưởng của
chủ thể, chú trọng truyền đạt cảm nhận chủ quan, biểu hiện tâm hồn chủ quan, thể hiện
tình cảm chủ quan của cá nhân. Nhà viết lịch sử văn học người Pháp Ranson nói: “Chân
lí phổ biến về trật tự lí tính và trí tuệ của tài năng suy lí, suy tư sâu sắc là hai thứ mà chủ
nghĩa lãng mạn không quan tâm. Tâm lí học và khoa học, nghệ thuật suy sét, nghệ thuật
suy lí, phương pháp chính xác, logic chặt chẽ đều không phải là cái mà chủ nghĩa lãng
mạn quan tâm”[ Ranson: Lịch sử văn học Pháp. Xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về
chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981,
tr240]. Bielinxki khi bàn về Cường đạo của Schiller đã chỉ ra Cường đạo giống như
“tụng ca thô kệch về ngọn lửa dung nham phun ra từ tâm hồn đầy sinh lực của thanh
niên” “trong câu nói này không phải là nhân vật mà là tác giả; trong toàn bộ tác phẩm
không hề có sự chân thực của cuộc sống, nhưng lại có sự chân thực của cảm nhận,
không có hiện thực, không có kịch nhưng lại có thơ vô tận, tình thế là không có thật,
tình tiết là không tự nhiên, nhưng tình cảm là chân thực, tư tưởng là sâu sắc; tóm lại,
vấn đề nằm ở: chúng ta tất yếu không coi Cường đạo của Schiller là kịch, là sự biểu

hiện cuộc sống, mà là thơ trữ tình trường thiên mang hình thức kịch, là thơ trường thiên
hừng hực, sục sôi”[Tuyển tập Bielinxki, tập 1, Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1979, tr156157]. Vì nhấn mạnh tính chủ quan nên chủ nghĩa lãng mạn khi miêu tả đời sống nội tâm


của nhân vật thường vượt lên trên sự phản ánh thế giới khách quan, sự dồi dào tình cảm
trở thành hạt nhân, chủ thể của một tác phẩm, sự kiện, nhân vật và hành động nhân vật,
ngôn ngữ và kết cấu tác phẩm… đều có thể tổ chức, sắp xếp vì sự biểu hiện tình cảm,
tình điệu cảm thương, sầu muộn, kích động, vội vã thậm chí bao phủ toàn bộ câu chữ
của tác phẩm.
Hết sức ca ngợi đại tự nhiên cũng là một đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Trong
lịch sử phát triển, cảm tình của con người đối với tự nhiên là sản phẩm của thời kì văn
minh, nó muộn hơn cảm tình đối với nghệ thuật. Văn học Hi Lạp phong phú và có giá
trị, nghệ thuật Athens cũng hết sức huy hoàng, nhưng trong những tác phẩm của những
dân tộc mà nghệ thuật kịch và điêu khắc đạt đến đỉnh cao thì cảm tình đối với tự nhiên
cũng không thực sự phát triển, cho nên trong sử thi Homer cũng rất ít miêu tả tự nhiên,
tự nhiên rất ít đi vào kịch Hi Lạp. “Trời đất tự nhiên này phải đợi đến chủ nghĩa lãng
mạn thế kỉ 19 mới có được sự khai thác phong phú và chi tiết. Byron, William
Wordsworth, Goethe là những người đầu tiên đưa biển lớn, sông dài, núi cao vào trong
tác phẩm của mình”[Listowel: Bình thuật lịch sử mĩ học cận đại. Nxb Dịch văn Thượng
Hải, 1980, tr186]. Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa đề xuất khẩu hiệu “quay trở lại với
tự nhiên”, dùng nó để thể hiện sự bi phẫn đối với việc hình thành văn hóa thành thị và
văn hóa công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa và ước muốn trở về với tự nhiên thuần
phác. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao cảnh sắc tráng lệ của đại tự nhiên, lấy đại tự nhiên
làm đối tượng biểu hiện chủ yếu, miêu tả và ca ngợi vẻ đẹp của đại tự nhiên, núi cao
hùng vĩ, biển rộng mênh mông, phong cảnh điền viên thuần phác, yên tĩnh, tình điệu
riêng biệt ở đất khách quê người, tất cả đều xuất hiện dưới ngòi bút của nhà văn lãng
mạn chủ nghĩa, hơn nữa, vẻ đẹp tự nhiên này đều đối chiếu rõ rệt với sự độc ác của hiện
thực. Trong Just. Harold của Byron tràn ngập phong cảnh tự nhiên mềm mại ở phía
nam địa trung hải, cảnh sắc rực rỡ ở Tây Ban Nha, di tích lịch sử hùng vĩ ở Hi lạp La
mã, tạo nên sự khác biệt một trời một vực với hoàn cảnh đầy tội ác của chủ nghĩa tư

bản.
Tưởng tượng mãnh liệt, khoa trương đặc biệt là thủ pháp biểu hiện chủ yếu của chủ
nghĩa lãng mạn. Để làm nổi bật lí tưởng và biểu hiện tình cảm chủ quan, chủ nghĩa lãng
mạn cũng có nét đặc sắc trên thủ pháp biểu hiện nghệ thuật và hình thức nghệ thuật, nó
vận dụng thủ pháp biểu hiện nghệ thuật khoa trương khác thường và trí tưởng tượng
mãnh liệt, lấy tình tiết vượt lên hiện thực, sắc thái đậm đà, ngôn ngữ mĩ lệ, đem truyền
thuyết lịch sử, cổ tích thần thoại, kì quan tự nhiên, phong cảnh ở nơi xa lạ…kết hợp lại,
tổ chức nên một thế giới lí tưởng phi thường, nhân gian, tiên cảnh, thiên đường địa
ngục, thần tiên ma quỷ, mưa gió sấm chớp, thảo mộc hoa lá muông thú côn trùng…đều
có thể mặc sức để nhà văn lãng mạn điều khiển, bối cảnh có thể không ngừng thay đổi,
không gian có thể thoải mái kéo dài. Trong Faust của Geothe, bối cảnh câu chuyện từ
thư phòng chật hẹp đến thành quách sáng láng, lại đến cửa quan huy hoàng, tình tiết của
nó cũng là thời gian nghiên cứu học vấn, thời gian giao kèo với quỷ, thời gian nói
chuyện tình ái với cô nương thành thị, thời gian nhận được nhiều hủ bại của vương
triều, thời gian đến bờ biển dự định cải tạo tự nhiên, cuối cùng là các thiên sứ cùng
nâng đỡ linh hồn Faust bay lên không trung.
Như vậy,văn học lãng mạn là một khuynh hướng thẩm mĩ lấy việc khẳng định cái
tôi cá nhân cá thể làm nguồn cảm hứng chủ đạo. Một cái tôi không thỏa mãn với thực
tại, tìm cách tự giải thoát khỏi thực tại bằng mộng tưởng và bằng đắm mình vào đời
sống nội tâm tràn đầy tình cảm , cảm xúc. Giải phóng trí tưởng tượng và tình cảm, cảm


xúc ra khỏi sự trói buộc của lí trí, của chủ nghĩa duy lí, là đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa lãng mạn. Nó yêu tự do , thích sự độc đáo phi thường, có hứng thú giãi bày những
cảm xúc mãnh liệt, đặc biệt là nỗi buồn đau, lòng sầu xứ, tình yêu say đắm , sự ngưỡng
mộ tạo hóa và thượng đế. Chủ nghĩa lãng mạn rất gần gũi với tuổi trẻ vì tuổi trẻ giàu
tình cảm , dễ đắm say, đặc biệt trong tình yêu. Tuổi trẻ luôn hướng về cái mới lạ. họ
thích táo bạo , độc đáo , khác thường.
2. Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam:
Sau ngày17/06/1930, khi cuộc nổi dậy của Nguyễn Thái Học thất bại ở Yên Bái,

Pháp đẩy mạnh việc đàn áp, khủng bố, bắt bớ, tù đày các nhà ái quốc nhằm dập tắt các
cuộc khởi nghĩa từ trong trứng nước để củng cố nền đô hộ. Các phong trào tạm thời
lắng xuống, các tổ chức ái quốc bị dao động mạnh buộc phải tạm ngưng các hoạt động
rút vào bóng tối nhằm bảo toàn tổ chức và nhân sự. Cuộc khủng bố qui mô toàn quốc
những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong tầng lớp thanh niên và
trí thức. Chỉ trong hai năm 1930 và 1931 riêng ở Bắc Kỳ, chính phủ bảo hộ Pháp đã mở
21 phiên tòa đặc biệt gọi là Hội Đồng Đề Hình xét xử tất cả 1094 vụ án chính trị, trong
đó có 164 bản án tử hình, 114 khổ sai chung thân, 420 lưu đày biệt xứ. Đây là thời kỳ
thoái trào của các hoạt động cách mạng chống Pháp dành độc lập cho đất nước.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 từ Pháp tràn về Đông Dương thuộc
địa như một thiên tai khiến cuộc sống xã hội trở nên khó khăn. Hàng hoá rẻ mạt nhưng
lại không kiếm ra tiền, các xí nghiệp kinh doanh thi nhau phá sản, sa thải nhân công.
Ngân quĩ nhà nước bảo hộ thất thâu không đủ khả năng tuyển dụng thêm công chức,
nạn trí thức thất nghiệp là mối lo âu chung của những người được Pháp đào tạo. Trộm
cướp, thuốc phiện, bài bạc, đĩ điếm trở thành những vấn đề nan giải. Cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới càng tăng thêm bi quan cho bàu không khí u ám, buồn thảm vốn đang
căng thẳng, ngột ngạt.
Trong khung cảnh đó những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng
tiêu cực muốn thoát ly khỏi những vấn đề bức xúc của cuộc tranh đấu dành độc lập. Họ
có thái độ chán nản, xa lánh chính trị. Thái độ này được củng cố trên cơ sở mối bất hòa
tuyệt vọng giữa họ và hoàn cảnh xã hội đương thời. Sự ra đời của trào lưu văn chương
lãng mạn giải quyết được bế tắc, đáp ứng được nhu cầu cho giới trí thức trong bối cảnh
xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lốt
thoát trong sạch, nơi trú ẩn tinh thần tương đối an toàn có thể gửi gấm tâm sự, và cũng
là phương cách bày tỏ lòng yêu nước.
Chủ nghĩa lãng mạn đề cao tự do cá nhân đã đáp ứng được khát vọng giải phóng
bản ngã, khát vọng tự do yêu đương cho hạnh phúc cá nhân, cho quyền sống cá nhân.
Điều này giải thích được quan điểm mỹ học nghệ thuật vị nghệ thuật của những người
trong trào lưu văn chương lãng mạn thuộc giai đoạn 1932-1945 của văn học Việt Nam.
Tất nhiên để có một trào lưu văn học thì bao giờ cũng cần có một hay nhiều người

khởi xướng với sự tham gia tích cực của văn giới, và được đón nhận đông đảo của độc
giả. Từ 1932 đến 1935 đã nổ ra hàng loạt các cuộc tranh luận văn học sôi nổi được
tham gia của nhiều tờ báo và các nhà văn, nhà thơ: tranh luận về thơ mới thơ cũ, tranh
luận về bỏ cũ theo mới, tranh luận về hôn nhân và gia đình, tranh luận về nghệ thuật
phục vụ cái gì. Các cuộc tranh luận này phản ảnh cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong
kiến với tự do cá nhân, giữa khuôn sáo và tư tưởng gò bó với cảm xúc cá nhân được tự
do bày tỏ. Hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay do Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn
chủ trương là cơ quan ngôn luận cổ võ mạnh mẽ cho sự thay cũ đổi mới và là nơi qui tụ


văn chương của các nhà văn, nhà thơ trong trào lưu văn học lãng mạn gồm có Nhất
Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Vũ Đình
Liên, Đoàn Phú Tứ. Sự thành công của trào lưu văn chương lãng mạn cũng phải kể đến
các tờ Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tao Đàn, Thanh
Nghị với sự tham gia của các tác giả như Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,
Phạm Huy Thông, Bích Khê, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Sanh,
v.v. Sự toàn thắng của phong trào thơ mới cũng là tiếng trống khải hoàn cho trào lưu
văn học lãng mạn, chấm dứt hoàn toàn lối thơ văn cũ từ thời Đông Dương Tạp Chí và
Nam Phong trở về trước.
Như vậy, trào lưu lãng mạn trong văn học Việt nam đầu thế kỷ XX có một số đặc
điểm như sau:
- Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh thuộc địa, nhà văn bị hạn chế về nhiều
mặt: tự do tư tưởng , tầm văn hóa – tri thức, điều kiện vật chất,…
- Một số nhà văn nhà thơ cũng có tuyên ngôn này khác [Thế Lữ, Xuân Diệu, Nhóm
thơ Bình Định, Xuân thu nhã tập, Tự lực văn đoàn,..] nhưng nói chung không lí thuyết
nhiều, không đẩy lên thành chủ nghĩa này, trường phái khác một cách cực đoan.
- Thành tựu có tính kết tinh nhất và có giá trị thẩm mĩ lâu dài hơn cả là thơ trữ tình,
truyện ngắn, một số thể kí.
- Nội dung tư tưởng: Chủ nghĩa lãng mạn nói chung là sự thể hiện trên lĩnh vực mĩ
học thái độ bất hòa bất mãn với xã hội, với thực tại. Khao khát dân chủ tự do, văn

minh, tiến bộ, tỏ thái độ bất hòa bất mãn với chủ nghĩa thực dân tàn bạo, hống hách và
với những tập tục phong kiến hủ bại. Vì thế tuy chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn học
Pháp- đất nước của kẻ xâm lược- VHLM VN vẫn cắm rễ rất sâu vào cội nguồn dân tộc.
Nó đã đi tiên phong và có đóng góp quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa văn học dân
tộc trên cơ sở truyền thống văn học VN. Hoài Thanh hiểu sâu sắc tấm lòng của những
cây bút lãng mạn ấy họ yêu vô cùng tiếng mẹ đẻ. Họ viết văn , làm thơ để mong đóng
góp được chút gì trong hoàn cảnh mất nước, vào việc giữ gìn và phát triển tiếng nói và
văn chương dân tộc. Họ khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên , đất nước và con người VN
từ hình thức đến tâm hồn. Họ nói dùm nỗi buồn đau của người dân Việt Nam “ Thiếu
quê hương” ngay trên mảnh đất đã sinh ra mình.
Nếu như những tâm hồn lãng mạn phương Tây, chủ yếu tỏ thái độ khinh bạc đối
với lối sống gọi là buôcgioa [ tư sản] phàm tục trên quan điểm thẩm mĩ thì những cây
bút lãng mạn VN, bên cạnh thái độ ấy, còn đối lập trên tinh thần dân tộc, đối với lối
sống nô lệ, bằng lòng, thậm chí thoả mãn đối với thực tại của xã hội thực dân. Lòng yêu
nước ấy, sau này sẽ đưa họ hầu hết đến với cách mạng và giúp họ theo đuổi hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đến cùng.
Các chặng đường phát triển: VHLMVN phát triển từ đầu thế kỉ XX đến 1945 qua
hai bước, phù hợp với quá trình hiện đại hóa văn học:
- Bước thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỉ đến khoảng năm 1930
+ Thơ Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Trần Tuấn Khải
+ Văn xuôi: Đông Hồ [ Linh Phượng kí] , Tương Phố [ giọt lệ thu], nhất là Hoàng
Ngọc Phách [ Tố Tâm]
- Bước thứ hai: diễn ra khoảng từ 1930- 1945. Thành tựu của văn học LMVN ở
bước này rất phong phú
+ Phong trào thơ Mới: mà tác giả là những cây bút rất trẻ , đầy tài năng, thấm
nhuần tư tưởng và văn hóa của phương Tây hiện đại. Họ đã sáng tạo ra các thể thơ mới,


hoặc làm mói các thể thơ truyền thống. Dặc biệt cái mới không ở hình xác câu thơ mà là
ở tinh thần của nó. Áy là cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm , cảm xúcvà

trí tưởng tượng. Nó phá bỏ hệ thống ước lệ có tính chất phi ngã của thơ cũ để trực tiếp
quan sát hoặc diễn tả thế giới [ bao gồm cả ngoại cảnh và nội tâm] bằng con mắt tươi
mới , xanh non của mình. Nó có nhiều khám phá mới lạ, tinh tế và đầy tài hoa về thiên
nhien về tình yêu. Nó đêm đến cho thơ một chất trẻ trung hấp dẫn không có trong thơ
cổ.
Tác giả tiêu biểu: Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu , Huy Cận, Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên , Nguyễn Bính
+ Về văn xuôi:
- Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn:
Nhất Linh , Khái Hưng, Hoàng Đạo với mô hình tiểu thuyết ái tình mà nhân vật lí
tưởng là đôi thanh niên nam nữ Âu hóa từ y phục đến tâm hồn. Đó là những nhân vật trí
thức Tây học thuộc những gia đình giàu có và sang trọng trong xã hội cũ. Họ đấu tranh
cho hạnh phúc cá nhân, cho luyến ái tự do và cho một phong trào Âu hóa. Những tác
phẩm tiêu biểu ủa các nhà văn này thường là những tiểu thuyết luận đề: chống lễ giáo
phong kiến [ Nửa chừng xuân. Đoạn tuyệt, Lạnh lùng,..]; những cải cách xã hội có tính
chất không tưởng [ con đường sáng , Gia đình,…]; sự khủng hoảng sâu sắc về tinh thần
[ Đẹp , Bướm trắng , Thanh Đức]
- Truyện ngắn: Thạch Lam, Xuân Diệu , Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh , Hồ Dzếnh,…
3. Chủ nghĩa hiện thực – Lịch sử hình thành và đặc trưng cơ bản:
Chủ nghĩa hiện thực phê phán có ở Anh, Nga và cả ở phương Đông sau này, nhưng
hình thành một cách tiêu biểu và đầu tiên trong văn học Pháp vào khoảng năm 1830.
Lịch sử nước Pháp nửa đầu thế kỉ XIX là lịch sử hình thành và phát triển mâu thuẫn
giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là hai lực lương cơ bản trong xã hội lúc bấy giờ.
Trước đó, được chi phối bởi chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa lãng mạn [tích
cực] tuy cũng kết tinh những phản ứng của tầng lớp dân chủ cấp tiến đối với những bất
công của xã hội tư bản, nhưng họ còn đặt hi vọng vào những nhà tư sản tốt bụng. Giờ
đây, các nhà văn chân chính hoàn toàn thất vọng với chế độ tư bản, quay về nhìn thẳng
vào hiện thực để vạch trần những tội ác của chúng. Đây là nguyên nhân sâu xa nhưng
căn bản giải thích quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiện
thực trong văn học Pháp thời kì ấy.

Nhà văn hiện thực thế kỉ XIX nhờ có “một trình độ tri thức nhất định về thế
giới”, kết tinh từ những thành tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.
Khác với chủ nghĩa cổ điển và chủ nghĩa lãng mạn thường bị chi phối bởi một vài
nguồn ý thức tư tưởng, chủ nghĩa hiện thực có tham vọng phản ánh cuộc sống một cách
toàn diện, cho nên nó phải khơi nguồn ở nhiều phương diện khác nhau- tất nhiên cuối
cùng phải được kết tinh lại thành một nguyên tắc nhất quán.
Về mặt xã hội học, các nhà xã hội không tưởng như Xanh Ximông, Sáclơ Phuriê,
Rôbe Owen đã chỉ ra một cách đúng đắn về mâu thuẫn và áp bức giai cấp trong xã hội
tư bản.
Về mặt sử học, các tác phẩm của Ghido, Minhe, Chieri đã chứng minh rõ ràng sự
thắng lợi của giai cấp tư sản đối với giai cấp phong kiến quý tộc là một tất yếu lịch sử.
Họ đã vạch ra quy luật đấu tranh giai cấp như một phương diện quan trọng trong động
lực phát triển lịch sử.


Tất cả những đặc điểm về tình trạng xã hội và những thành tựu về các ngành
khoa học nói trên đã kết tinh thành nguyên tắc lịch sử- cụ thể. Nguyên tắc lịch sử- cụ
thể này đã thay thế cho nguyên tắc lí tính đã ngự trị trong khoa học và cả trong văn học
nghệ thuật của bao thế kỉ trước đó.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán không phải là không có những nhân vật chính
diện, qua đó bộc lộ cảm hứng ca ngợi khẳng định của mình. Đó là những con người,
vốn xuất thân từ những thành phần khác nhau [quý tộc, tiểu tư sản...], vốn có những thái
độ khác nhau với chế độ tư bản nhưng một khi đã lăn mình vào xã hội đó đều thấm
nhuần đạo đức và triết lý tôn thờ “con bê vàng” như trong các sáng tác của Bandắc.
Những nhân vật trung tâm phản diện này quyết định cảm hứng chủ đạo phải là
phê phán, và chính vì thế chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX được mệnh danh là chủ nghĩa
hiện thực phê phán. Điều đó cũng hợp với một quy luật phát triển của văn học, bởi vì:
“Văn học của tất cả các thời đại, nhất là trong thời đại càng gần với thế hệ chúng ta, thì
thái độ phê phán, bóc trần và phủ nhận thực tại càng mạnh thêm” [M.Goocki]. Điều này
cũng là một đặc điểm khác nhau quan trọng giữa chủ nghĩa hiện thực phê phán với

những nhân vật trung tâm phản diện, nhưng vai trò và tỉ lệ của cảm hứng ca ngợi qua
các nhân vật chính diện lí tưởng là khác nhau.
Các nhà văn hiện thực phê phán quan niệm được “con người xã hội”. Có nghĩa là
khi có được tư duy lịch sử- cụ thể, họ sẽ đặt con người trong một hoàn cảnh xã hội cụ
thể rồi triển khai sự phát triển tính cách của nó theo sự diễn biến của hoàn cảnh đó.
Nguyên tắc lịch sử- cụ thể được phát huy cao độ với chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Tính cách điển hình là sự thống nhất hài hòa cao độ giữa tính riêng sắc nét và
tính chung có ý nghĩa khái quát cao, là “người lạ mà quen” như ý kiến của Bêlinxki. Nó
không chỉ có sự thống nhất giữa tính riêng và tính chung, vì đó vốn là tính chất thông
thường của bất kì sự vật hay hiện tượng nào. Chỉ khi nào cái riêng thật sắc nét, cái chug
lại phải thật khái quát cao, nhưng không phải kéo dài theo hai cực đối lập nhau, mà phải
thống nhất nhau, hơn nữa lại phải hài hòa cao độ thì lúc đó mới có điển hình. Nó là kết
quả sự xuyên thấm thật nhuần nhuyễn của cả hai mặt cá thể hóa và khái quát hóa đều ở
mức độ cao.
Hình tượng nhân vật trong chủ nghĩa cổ điển nặng về cái chung mà nhẹ về cái
riêng. Chủ nghĩa lãng mạn thì lại nhấn mạnh cái riêng đến chỗ phi thường ngoại lệ,
nhưng nhẹ về mặt tiêu biểu khái quát. Loại hai chỗ yếu- cũng có nghĩa đồng thời đã kế
thừa hai chỗ mạnh của chủ nghĩa hiện thực phê phán đã đem lại sự kết tinh mới. Trong
thư gửi cho Mina Caoxki, Ăngghen lại nhấn mạnh: “Mỗi nhân vật là một điển hình,
nhưng đồng thời lại là một cá nhân hoàn toàn cụ thể”.
Trong chủ nghĩa hiện thực phê phán, cá nhân tự nó là đối tượng trực tiếp của sự
miêu tả; cái điển hình toát ra từ tính cách của con người cụ thể. Cá tính cao độ của nhân
vật sẽ làm cho nó trở lên sinh động. Nhân vật trong tác phẩm mỗi người một vẻ, không
ai giống một ai. Họ đều hiện ra với những cá tính sinh động, từ lí lịch, dáng vẻ, tác
phong, tâm tư, hành động, ngôn ngữ, làm cho người đọc như đang tiếp xúc được với
những con người cụ thể ở ngoài đời.
Quan hệ giữa tính chung và tính giai cấp của điển hình phải được hiểu một cách
biện chứng, chúng có mối liên hệ hữu cơ không tách rời nhau- tính chung phải có tính
giai cấp nhưng không đồng nhất với tính giai cấp- tùy theo đề tài, ý đồ và trình độ khái

quát của nhà văn mà tính chung sẽ có thể “nhỏ hơn” hoặc “lớn hơn” tính giai cấp.


Với nguyên tắc lịch sử- cụ thể, với quan niệm “con người xã hội”, chủ nghĩa hiện
thực phê phán xây dựng được những hoàn cảnh điển hình. Đó là những hoàn cảnh của
nhân vật được tái hiện vào trong tác phẩm, phản ánh được bản chất hoặc một vài khía
cạnh bản chất trong những tình thế xã hội với một quan hệ giai cấp nhất định.
Cũng như tính cách điển hình, ý nghĩa tiêu biểu khái quát của hoàn cảnh điển
hình phải thông qua tính chất cụ thể riêng biệt của nó. Cái hiện lên trước mắt người đọc
chính là những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt này. Có điều qua những nét cụ thể riêng biệt
đó, người đọc cảm thấy được những vấn đề xã hội rộng lớn. Hoàn cảnh điển hình phải
bao gồm những sự kiện, những quan hệ do chính những tính cách tạo nên.
Khi đã xây dựng được hoàn cảnh như vậy, thì tính cách chính là con đẻ của hoàn
cảnh, được giải thích bởi hoàn cảnh. Chính vì thế mà những tính cách trong chủ nghĩa
hiện thực, cho dù có li kì, nhưng hoàn toàn có thể có thể giải thích được. Là con đẻ của
hoàn cảnh điển hình, tính cách điển hình trở nên rất phong phú và đa dạng. Số lượng
tính cách mà chủ nghĩa hiện thực tái hiện được nhiều chưa từng có, lấy nguyên mẫu
trong cuộc sống để tái hiện.
Mặt khác, khi đặt nhân vật vào hoàn cảnh, mà hoàn cảnh xã hội bao giờ cũng
phức tạp, cho nên tính cách nhân vật, mặc dù bao giờ cũng có thể nổi lên vài ba nét chủ
đạo, nhưng châu tuần chung quanh đó còn có những biểu hiện đa dạng gần như chính
con người thật ngoài cuộc đời. Bên cạnh đó, hoàn cảnh cuộc sống đứng yên chỉ là tạm
thời, còn luôn luôn tiệm tiến và đột biến, cho nên tính cách của nhân vật luôn luôn phát
triển. Các nhân vật của chủ nghĩa hiện thực phê phán đều có quá trình phát triển cũng
như cuộc sống vậy.
Với việc “tái hiện tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình” mà một hệ quả
trực tiếp của nó là tính cách trở thành con đẻ của hoàn cảnh, lần đầu tiên trong lịch sử
văn học, chủ nghĩa hiện thực phê phán có được khái niệm “lôgic nội tại của tính cách”.
Khi xây dựng nhân vật, nhà văn phải tuân theo quy luật khách quan của nó. Tính cách
nhân vật giờ đây phụ thuộc vào hoàn cảnh điển hình, nó vẫn chịu sự chi phối của chủ

quan nghệ sĩ nhưng là một thứ chủ quan đã nắm bắt được chân lí khách quan.
Bất kì nhân vật cụ thể nào của chủ nghĩa hiện thực, mặc dù có nguyên mẫu hoặc
do hư cấu, có thể vốn có hoặc vốn không có ở ngoài đời, nhưng kiểu loại nhân vật đó
dứt khoát đã tồn tại ở ngoài đời trong một hoàn cảnh nhất định với tính cách và vận
mệnh khách quan của nó. Muốn tái hiện chân thật nó, không có con đường nào khác,
trước hết nhà văn phải tuân theo lôgic khách quan của nó.
Một hệ quả nữa của tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hoàn cảnh điển
hình là hiện tượng “nhân vật nổi loạn” trong chủ nghĩa hiện thực. Nói đến “nhân vật nổi
loạn” có nghĩa là hướng đi về sau của nó mâu thuẫn với dự kiến chủ quan ban đầu, chứ
vẫn hoàn toàn phù hợp với sự thay đổi về sau trong nhận thức của nhà văn. Có điều này
là do khi sáng tác nhà văn có dự kiến ban đầu là kết quả của sự thai nghén ấp ủ lâu
ngày, nhưng khi tiếp xúc với cuộc sống, nhà văn phát hiện thêm những khía cạnh mới
buộc phải thay đổi nhưng vẫn sẽ còn lưu giữ lại những ấn tượng da diết nào đó.
Nếu có đối lập giữa chủ nghĩa hiện thực phê phán với chủ nghĩa lãng mạn tiêu
cực, thì cũng có sự gần gũi giữa nó với chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Có lúc cả hai cùng
đứng trên một trận tuyến để chống lại tàn dư của chủ nghĩa cổ điển đương thời; chủ
nghĩa hiện thực phê phán tiếp thu chủ nghĩa lãng mạn tích cực về một vài phương diện
thi pháp là điều dễ hiểu.


Trước hết là việc mở rộng thêm đề tài. Với cảm hứng chủ đạo là phê phán, chủ
nghĩa hiện thực thế kỉ XIX đã mở rộng, đưa toàn bộ những cái hàng ngày, kể cả mọi cái
hèn kém, xấu xa vào nghệ thuật. Bên cạnh đó, chủ nghĩa hiện thực cũng chú trọng khai
thác đề tài trong lịch sử dân tộc mình.
Chủ nghĩa hiện thực hướng về những vấn đề xã hội rộng lớn nhưng cũng rất đề
cao chất trữ tình trong văn học nghệ thuật. Bởi vì nói cho cùng, lòng người, nhân tâm
cũng chính là một phương diện khác của cuộc đời, của thế sự.
Nếu khoa học chủ yếu là biện luận qua những luận điểm, luận cứ, luận chứng thì
trong văn học chủ yếu là mô tả, đan dệt bằng những chi tiết. Chi tiết là đơn vị nhỏ nhất
có thể chia ra được tùy theo những tương quan và yêu cầu nhất định. Nó có thể là một

dáng hình, một lời nói, một cử chỉ, một nét sinh hoạt, một khâu quan hệ. Chi tiết chân
thực là những cái có thật hoặc có thể có thật về người. Văn học là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan cho nên bất kì phương pháp sáng tác nào cũng đều ít nhiều có
chi tiết chân thực.
Chủ nghĩa hiện thực tuân theo nguyên tắc khách quan, phát huy đến cao độ kiểu
sáng tác tái hiện. Nghệ thuật như một tấm gương xê dịch trên một con đường lớn mà
nhà văn coi mình là người thư kí trung thành, tái hiện hiện thực cuộc sống. Chính vì thế
mà chi tiết chân thực dồi dào chưa từng có ở chủ nghĩa hiện thực. Sứ mệnh chủ yếu của
chi tiết chân thực trong chủ nghĩa hiện thực là ở chỗ góp phần tái hiện chân thực tính
cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chính bởi vậy bản thân chi tiết cũng phải
được điển hình hóa.
Sự dồi dào về chi tiết chân thực nói trên chỉ có thể thực hiện tối đa ở thể loại tự
sự mà tiêu biểu nhất là tiểu thuyết. Ở đây có sự giao tiếp giữa thể loại và phương pháp
sáng tác. Nếu chủ nghĩa cổ điển thích hợp với thể loại kịch, chủ nghĩa lãng mạn với thơ
trữ tình thì chủ nghĩa hiện thực với tiểu thuyết. Chủ nghĩa hiện thực có tham vọng phản
ánh cuộc đời này một cách toàn diện, sẽ không hoàn thành sứ mệnh đó nếu chủ yếu chỉ
sử dụng những thể loại quy mô nhỏ hoặc vừa; và tiểu thuyết là thể loại thích hợp nhất
để nhà văn hiện thực lựa chọn.
Tiểu thuyết vốn là thể loại đã có từ trước nhưng khi nó đã trở thành thể loại chính
của chủ nghĩa hiện thực thì biến thành thể loại tiểu thuyết xã hội. Tiểu thuyết xã hội dễ
thấy là quy mô rộng lớn của nó, phản ánh nội dung xã hội rộng lớn, toàn diện và tỉ mỉ,
sâu sắc. Xét về mặt nào đó, tiểu thuyết hiện thực là một thể loại tổng hợp, trong đó có
chứa đựng những yếu tố của trữ tình, tự sự, kịch và kí.
4. Trào lưu hiện thực phê phán trong văn học Việt Nam
Trong văn học, những tác phẩm văn học có tính chất hiện thực và giá trị hiện thực
đã xuất hiện từ lâu trước khi có CNHT. CNHT hết sức chú ý đến những tư liệu, dữ
kiện có thật ở trong đời sống và đã dùng chúng như những chất liệu nghệ thuật để xây
dựng cốt truyện, các nhân vật, các tính cách, các hiện tượng tâm lí, với nghệ thuật khái
quát và điển hình hoá cao và nghệ thuật phân tích tư tưởng, tâm lí sâu sắc. Nhiều nhà
văn hiện thực đã sáng tạo ra được những nhân vật điển hình mang dấu ấn rất đậm của

xã hội và thời đại đương thời.
Trong văn học Việt Nam, những tác phẩm như "Truyện Kiều", "Chinh phụ ngâm",
"Cung oán ngâm khúc", "Lục Vân Tiên", thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú
Xương đều tiêu biểu cho khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa. Đó là những vấn đề nóng


bỏng của cuộc sống ở các thời đại, chứa đựng những hi vọng và ước mơ của con người
trong cuộc đấu tranh cho tự do, hạnh phúc, phơi bày một cách chân thật hiện thực
khách quan của cuộc sống. Khoảng 1930 cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945,
khuynh hướng hiện thực mà thời ấy gọi là "tả chân" hay "tả thực" mới hình thành và
phát triển thành một trào lưu trong văn học. Tuy xuất hiện chậm nhưng văn học hiện
thực phê phán Việt Nam cũng có mặt mạnh. Đại bộ phận các nhà văn theo trào lưu này
đều có tinh thần dân tộc. Mặc dù chế độ kiểm duyệt của thực dân Pháp rất khắt khe,
các tác phẩm của họ cũng đã vạch ra được nỗi thống khổ và nhục nhã của những người
dân nghèo nông thôn và thành thị sống dưới ách bóc lột, áp bức của bọn thực dân, quan
lại, cường hào, tư sản. Những nhà văn hiện thực như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Trần Tiêu, Bùi Hiển, Vi Huyền Đắc... đã
để lại những tác phẩm được ngày nay đánh giá cao. Chí Phèo, Xuân tóc đỏ, Nghị Hách,
chị Dậu, anh Pha... là những nhân vật nổi tiếng trong văn học hiện thực phê phán Việt
Nam.
Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945 có một số đặc điểm nổi bật:
- Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đặc biệt: xã hội thực dân
nửa phong kiến, có những xung đột, mâu thuẫn giai cấp đòi hỏi phải được giải quyết.
- Phản ánh hiện thực một cách chân thực, cụ thể như những gì vốn có, đang diễn
ra trong đời sống hàng ngày, từ những gì nhỏ nhặt, vụn vặt nhất.
- Thừa nhận giá trị của thực tế khách quan.
- Thể loại chủ yếu: truyện ngắn, tiểu thuyết.
- Xây dựng thành công những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chú
trọng các chi tiết nghệ thuật, nghệ thuật miêu tả, phân tích diễn biến tâm lý nhân vật.
Văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930- 1945 có thể chia ra gồm 3 thời kì

phát triển:
- Thời kì 1930-1935: Xu hướng văn học phê phán có từ trước 1930 đến thời kì này
phát triển hơn và xác định rõ ràng hơn về phương pháp thể tài.
- Thời kì 1936-1939: Văn học hiện thực phê phán phát triển mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu xuất sắc:
+ Vấn đề nông dân, nông thôn được đặt ra trong tác phẩm hiện thực phê phán:
Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của
Ngô Tất Tố...
+ Vấn đề phong kiến thực dân được nêu lên một cách gay gắt trong các tác phẩm
hiện thực phê phán: Số đỏ, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố...
Tác phẩm hiện thực phê phán không dừng lại ở truyện ngắn, phóng sự mà phát triển
mạnh mẽ thể tài tiểu thuyết. Ðây chính là một thành công lớn của văn học hiện thực phê
phán thời kì này.
- Thời kì 1939-1945: Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa:
+ Có nhà văn thì chết [Vũ Trọng Phụng];
+ Có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa chuyển sang khảo cứu dịch thuật như Ngô
Tất Tố.


+ Có nhà văn mắc phải sai lầm như Nguyễn Công Hoan viết tiểu thuyết Thanh
Ðạm.
+ Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Mạnh Phú
Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển... Nhà văn hiện thực vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống
tăm tối của người nông dân Chí Phèo, lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh Phú
Tư. Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng được các nhà hiện
thực đề cập một cách sâu sắc Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao. Các nhà
văn nêu lên mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp nhân dân lao động.
II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ CHỦ NGHĨA
LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
1. Về đề tài, cảm hứng:

1.1 Trong văn học lãng mạn:
Dĩ nhiên khó mà thâu tóm tất cả tính chất bao hàm trong các tác phẩm của những
nhà lãng mạn. Tuy nhiên về đại thể, chúng ta có thể đúc kết một vài nét đặc thù làm nên
những thuộc tính, những chủ đề của chủ nghĩa lãng mạn. Trong văn học phương Tây,
các nhà nghiên cứu xác nhận những chủ đề cơ băn như sau:
Sự khẳng định và thăng hoa cái tôi
Nỗi buồn lãng mạn:
Tình yêu thiên nhiên:
Sự hoài niệm quá khứ
Thế giới đường xa xứ lạ
Sự hư ảo, quái dị, siêu nhiên
Sự siêu phàm
Sự dấn thân
Đêm tối
Trong văn học Việt Nam, những đề tài, nguồn cảm hứng ưa thích của chủ nghĩa
lãng mạn là nỗi buồn đau, thiên nhiên, tình yêu và tôn giáo, chống lại lễ giáo phong
kiến…
Nói đến chủ nghĩa lãng mạn là nói đến cái buồn, nỗi đau. Đối với chủ nghĩa lãng
mạn, đau thương, sầu mộng thuộc phạm trù thẩm mĩ [ Hãy lịm người trong thú đau
thương- Lưu trọng Lư]. Họ ca ngợi cái đẹp buồn của cảnh, của người. Ấy là những cảnh
trời rộng , sông dài, cảnh đồng hoang bãi vắng, núi cao, rừng sâu biển xa, cảnh trùng
khơi mịt mùng bão táp… Ấy là những cảnh chiều tà , thu muộn, hoặ những đêm trăng
lạnh…Nói chung chúng thơ mộng nhưng đượm buồn và dễ gợi nỗi cô đơn , sự chia li,
lòng sầu xứ , sự tàn tạ và cái chết…
Văn học lãng mạn Việt Nam có những mặt yếu của nó. Nó không nói đến những
vấn đề nóng bỏng trước mắt. Nó né tránh nỗi khổ nhục của dân tộc, những đau đớn của
kẻ nghèo, những bất công giữa cảnh bần cùng với cảnh xót xa hơn. Nó quên đi và làm
cho mọi người cùng quên đi, dâu trong phút chốc, những đen tối nghiệt ngã của đời
sống. Lật nhiều trang sách, đọc nhiều bài thơ lãng mạn, người ta thấy trong cuộc đời
hình như không có nỗi đau khổ nào đáng sợ bằng nỗi đau của tình yêu bị ngăn cấm hay

bị phụ bạc. Từ trên rừng xuống biển, văn học lãng mãn không cho người ta nhìn thấy
những cảnh chen chúc vật lộn để kiếm sống, để sống của con người, mà đâu đâu cũng
chỉ là một sự hài hòa đẹp đẽ của thiên nhiên từ cảnh rừng già với giọng nguồn hét núi
đến cảnh trăng nên thơ một trên biển Đồ Sơn, những lũy tre xanh êm đềm rủ bóng


những sườn đồi chênh vênh, nhưng hang sâu động thẳm thường làm cái nền cho những
cuộc tình éo le và cảm động. Cái chất thi vị hóa đời sống ấy phổ biến trong tác phẩm
lãng mạn đến nỗi nhà văn hiện thực Nam Cao từng phải kêu lên: Nghệ thuật không cần
phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dôi…. Muốn thoát li khỏi xã hội,
văn học lãng mạn đưa người đọc vào vũ trụ của cá nhân, mà mỗi trang sách, mỗi câu
thơ là một sự khám phá vào cái tôi vô tận vô cùng của nó. Cái tôi đam mê, cái tôi chán
chường, cái tôi hào hứng, cái tôi phản kháng, cái tôi cam chịu, cái tôi thắm tươi, cái tôi
tật bệnh….bao nhiêu là khía cạnh của cái tôi, đồng thời hay lần lượt hiện ra, lên tiếng
dời chỗ đứng của mình dưới mặt trời như một cái gì thật khẩn thiết. Chưa bao giờ trong
văn chương Việt Nam, cá nhân con người được nói đến một cách tập trung và quyết liệt
như thế. Hình như, không có gì chính đáng bằng, đáng quan tâm bằng số phận của cá
nhân, hạnh phúc và khổ đau của cá nhân. Cá nhân là tất cả và tuyệt đối, hưởng thụ cá
nhân là chính đáng và cần kíp. Xuân Diệu kêu gọi:
Mau với chư, vội vàng lên với chư
Em, em ơi, tình non đã già rồi
[Giục giã]
Văn học lãng mạn tìm đến hướng thoát nhưng trước hết là đến với tình yêu. Tình
yêu lúc ấy hầu như trở thành một thứ tôn giáo. Ngọc, trong Hồn bướm mơ tiên của Khải
Hưng, đưa tình yêu đến trước phật đài để tôn thờ nó bất vọng bất diệt trong cõi vĩnh
hằng. Một nhân vật trong truyện ngắn Trên sông Hương, cũng của Khải Hưng, thì nói:
Ngoài em ra, ngoài ái tình của đôi ta, anh không còn cần một thứ gì khác nữa. Tình yêu
của chủ nghĩa lãng mạn là tình yêu tan vỡ, tình yêu không thỏa, là Nửa chừng xuân , Lỡ
bước sang ngang, Xa cách…. Nhưng, trong cái xã hội ngày ấy, nhà văn lãng mạn đi đâu
cho thoát khỏi sự bế tắc của đời sống? Chung quy lại vẫn là bóng tối, vẫn là cái tẻ nhạt

và vô nghĩa của đời sống. Sống là phải buồn và cần phải chia sẻ. Từ cái buồn thoáng
qua, vô cớ thời Thế Lữ, của Lưu Trọng Lư, cái buồn trở nên mênh mông, một nỗi sầu
vạn cổ với Huy Cận, và càng trở nên bi thương, điên loạn với Chế Lan Viên ,Hàn Mạc
Tử …Đọc thơ lãng mạn, người đọc chìm ngập trong nỗi buồn! Nhưng nếu tất cả chỉ có
thế thôi, văn học lãng mạn đâu đáng được tồn tại suốt mười lăm năm như thế và được
một lớp người đọc khá đông, không phải là những kẻ mù lòa, ưu ái và ủng hộ đến như
thế.
Đầu tiên, thái độ thoát li xã hội, xét cho thấu đáo, có mặt tích cực của nó. Văn học
lãng mạn không hòa giọng vào cái hợp xướng hoàn ca của những thứ gọi là văn
chương, ca ngợi một cách vô liêm sỉ nước Đại Pháp và sự văn minh khai hóa của nó
trên đất nước Việt Nam này. Nỗi buồn lâm li của văn học lãng mạn ít ra cũng giúp
người ta biết buồn nếu chưa biết làm gì khác trong cuộc sống nô lệ ngày ấy. Cái tâm
trạng phủ nhận hết thảy. Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau của Chế Lan viên cũng đáng
được thông cảm. Trong những hành động phiêu lưu đầy chất anh hùng cá nhân của một
anh chàng Dũng trong Đoạn tuyệt và Đôi bạn của Nhất Linh, người đọc có thể tìm thấy
một thái độ không an phận, một tiếng vỗ cánh bay lên của một con chim biết chán
chường những thức ăn béo bổ trong cái lồng son dành cho mình. Một bài thơ thường
được nhắc tới nhiều của thơ lãng mạn, bài Nhớ Rừng của Thế Lữ, đã nói không ít đắng
cay của cuộc đời nôi lệ và một khát vọng [ dẫu là bất lực] về một cuộc đời tự do:
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi
…Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!


Trong không khí oi bức ngột ngạt của xã hội thực dân phong kiến ngày ấy, văn học
lãng mạn đã cố gắng tìm được một lối thoát phù hợp với sức vóc của mình: chống lễ
giáo phong kiến. Có thể nói: nhờ nhiều tác phẩm của nhóm Tự lực văn đoàn, người đọc
hiểu và cảm thông được tính chất phi lí tàn bạo, cái đần độn, man rợ, của nhiều thứ lễ
giáo cho đến lúc ấy vẫn được coi là bất khả xâm phạm. Đó là thứ quan niệm hôn nhân
môn đăng hộ đối không đếm xỉa gì đến quyền sống con người, mù quáng đến phi lí vô

nhân đạo [như Nửa chừng xuân của Khải Hưng], là thứ chủ trương vừa tàn nhẫn vừa
giả dối đến khôi hà: cấm người quả phụ tái giá [như trong Lạnh Lùng của Nhất Linh].
Thái độ của các nhà văn lãng mạn đối với lễ giáo phong kiến là khồng hòa hoãn. Với
họ, lễ giáo phong kiến đã hết thời rồi, và sự tồn tại của nó không chỉ là việc có hại mà
còn hoàn toàn lố bịch. Chống lại lễ giáo, văn học lãng mạn ca ngợi tình yêu. Chưa bao
giờ trong văn học Việt Nam, đặc biệt là trong thơ, tình yêu - một tình cảm đẹp của con
người - lại được nói đến vơi đầy đủ cung bậc như thế. Sự phong phú của chủ đề tình
yêu trong văn học lãng mạn may ra chỉ có văn học dân gian [chủ yếu là ca dao] mới
đuổi kịp. Trong thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh có thơ của 45 nhà thơ thì hầu như
chỉ có một người không nói đến tình yêu! Cho đến ngày nay, những câu thơ, những bài
thơ tình ngày ấy không phải không còn làm rung lên nơi người đọc những tình cảnh đẹp
và trong sáng, hoặc mộc mạc như:
Nắng mưa là chuyện của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
[Nguyễn Bính]
Hoặc đắm say mà hoài nghi như:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây mây khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
[Hàn Mặc Tử]
Với văn học lãng mạn, thiên nhiên không chỉ là một phương tiện mà là một chủ
thể, một nguồn cảm hứng lớn, một đối tượng miêu tả chủ yếu. Có thể nói, quan văn học
lãng mạn, người đọc biết mở mắt ra để chiêm ngưỡng thiên nhiên. Người ta rung động
vì đẹp một mái cong trướng tam quan một ngôi chùa vùng Kinh Bắc, vẻ thướt tha nơi
rặng liễu ven Hồ Tây một sớm mùa thu, vẻ xanh tươi của một ngôi vườn xứ Huế, vẻ
mộc mạc của một giậu mồng tơi, một thôn xóm đồng bằng, hay là một đồi chè thoai
thoải ở vùng Trung châu…Bao người, chỉ nhờ đọc văn học lãng mạn mà biết được và
yêu mến một bến đò Trung Hà, một ngôi chùa Long Giáng, một con đê Yên Phụ, một
làng xanh Vĩ Dạ, một con đường đi chùa Hương thơ mộng như đường đến cõi tiên…Ta

cũng nên nhớ rằng, trong bối cảnh xã hội ngày ấy, tình yêu thiên nhiên, thiên nhiên Việt
Nam, không phải không gắn liền ít nhiều với một niềm tự hào dân tộc chính đáng. Giữa
lúc không ít kẻ hễ mở miệng chỉ nói đến Tây, ca ngợi cảnh Tây, thì tình yêu thiên
nhiên, sự ca ngợi thiên nhiên và con người Việt Nam, dẫu có lúc thi vị hóa hay qua
đáng đi nữa, cũng là một sự trở về cội nguồn.
Nhà văn lãng mạn còn hướng tới những cái phi thường có tính biệt lệ, chẳng hạn,
trong Chữ người tử từ [Nguyễn Tuân], đó là một không khí thiêng liêng khác thường,
con người cũng tài hoa, dũng liệt một cách rất đỗi nghệ sĩ như Huấn Cao. Xây dựng
những hình tượng con người vượt lên thực tại của đời sống của hoàn cảnh, hướng tới
một cái gì tốt đẹp và thánh thiện hơn hiện thực. Có khi đó chỉ là những khát vọng dẫu


mơ hồ nhưng cũng đủ để niềm tin của con người có điểm tựa, như khát vọng chờ
chuyến tầu đêm qua phố huyện nghèo chính là được viết theo cảm hứng lãng mạn bay
bổng ấy. Hai chị em Liên đợi tầu không xuất phát từ nhu cầu vậ chất. Hai đứa trẻ chờ
tầu bởi nhu cầu tinh thần, chuyến tầu đêm là cả một niềm vui lớn. Con tầu mang đến
phố huyện một luồng ánh sáng rực rỡ và những âm thanh sôi động xua đi không khí
tĩnh lặng của phố huyện nghèo. Bên cạnh đó, con tầu khiến chị em L như trở về với quá
khứ tươi đẹp, con tầu chạy tới từ Hà Nội, chạy tới từ tuổi thơ đã qua. Hai chị em đã có
thời sống ở Hà Nội xa xăm, tươi đẹp, huyên náo, hai chị em từng được đi chơi bờ hồ,
được ăn những thức quà ngon, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Con tầu đã đánh
thức dậy một miền kí ức tuổi thơ tươi đẹp để cân bằng lại cuộc đời không mấy niềm
vui, hp nơi phố huyện nghèo. Vì vậy khi tầu đến, Liên và An đứng cả dậy hướng về
phía con tầu và khi con tầu đi rồi Liên vẫn lặng theo mơ tưởng.
Đôi khi, các đề tài cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn vẫn được kết hợp nhuần
nhuyễn với chất hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng của văn xuôi lãng mạn. Cảnh cho chữ
trong Chữ người tử tù được miêu tả một cách chân thực, cụ thể, chi tiết: Thời gian: lúc
nửa đêm; không gian: trại giam tỉnh Sơn; sự việc: diễn ra giữa 3 nhân vật Huấn Cao,
viên quản ngục, thầy thơ lại. Tuy nhiên cảnh hiện thực mà lại lãng mạn gợi liên tưởng
tới sự bất tử của cái đẹp. Ngọn đuốc rừng rực trong bong đêm gợi liên tưởng tới tài

năng khí phách, thiên lương.
1. 2. Trong văn học hiện thực
Hiện thực khách quan đầu thế kỷ XX là một xã hội thực dân nửa phong kiến với
bao nhiêu áp bức nặng nề, phơi bày nhiều mặt bất công ngang trái. Con người Việt Nam
thời này chịu nhiều khổ cực: Sự đày đọa cuộc sống dưới ách đế quốc thực dân và phong
kiến; sự hủy hoại văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc; sự xâm nhập của văn minh
phương Tây trong ý đồ đen tối của thực dân Pháp. Hoàn cảnh lịch sử trên đã tác động
tới việc hình thành quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người của các nhà văn hiện
thực phê phán. Phản ánh hiện thực khách quan như nó tồn tại, chú trọng miêu tả con
người gắn với hoàn cảnh, tính cách con người bị quy định bởi hoàn cảnh, văn học hiện
thực phê phán đã tạo ra một bước ngoặt mới trong việc khám phá đời sống con người,
đề cập đến kiểu người tha hóa sâu sắc và toàn diện nhưng lại bao hàm khả năng hoàn
thiện nhân cách của con người và của chính nhà văn.
Với đặc trưng phản ánh cuộc sống bằng hình tượng cảm quan sinh động và cụ thể,
mang dấu ấn chủ quan của người nghệ sĩ, văn học là tấm gương phản chiếu xã hội, là
sản phẩm của sự nhận thức thẩm mỹ của chủ thể sáng tạo. Hình tượng nghệ thuật chỉ có
giá trị khi nghệ sĩ dùng nó để miêu tả và bảo vệ cái đẹp, lên án cái xấu, tác động đến
cảm xúc của công chúng, định hướng thẩm mỹ và định hướng nhân cách cho công
chúng. “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại” [Đôxtôiépxki], văn học đã cứu rỗi vị thế xã hội của
con người.
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nam Cao - những nhà văn hiện
thực xuất sắc đều tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội, viết
về những con người dưới đáy của xã hội: những người nông dân, người trí thức tiểu tư
sản nghèo...
Trong văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam có một hiện tượng, mà nhà văn
Nguyên Hồng vẫn khẳng định, ngay ở những con người dưới đáy, họ vẫn mang bản tính
là những con người trong sạch. Chỉ có hoàn cảnh làm xấu con người, chứ con người
không muốn tự làm xấu mình. Đó chính là quan niệm nghệ thuật góp phần hoàn thiện



nhân cách con người, chi phối toàn bộ những sáng tác của văn học hiện thực phê phán.
Ngô Tất Tố phát hiện ra hình ảnh một người phụ nữ nông thôn Việt Nam trong
sạch, đẹp đẽ và lung linh trong màn đêm của xã hội thực dân và phong kiến. Những
phẩm chất: thủy chung, hiền dịu, đảm đang, giàu sức quật khởi ở chị Dậu là tấm gương
sáng mà bạn đọc mãi mãi đi tìm.
Nguyễn Công Hoan, với quan niệm “Cuộc đời là một sân khấu hài kịch”, đã nhìn
vào mặt trái của cuộc đời, của con người, để phỉ nhổ vào những xấu xa, bỉ ổi của xã hội,
để cười ra nước mắt những điểm xấu của con người dưới đáy nhằm lên án xã hội đảo
điên. Con người trong quan niệm của Nguyễn Công Hoan hoàn toàn bị tha hóa, thậm
chí bị vật hóa, đồ vật hóa. Từ vị quan huyện béo tốt, một bà lớn với khuôn mặt thịt nung
núc, đến những đứa ăn mày, ăn xin, kẻ cắp, người trốn nợ, bà cụ nhà quê… là những
con người bị tha hóa. Cách nhìn “Đời là một sân khấu hài kịch” đã chi phối sâu sắc
Nguyễn Công Hoan trong việc chọn đề tài, chủ đề, xây dựng nhân vật, biến cố và tình
tiết… mang đậm chất hài kịch. Cái nhìn phê phán khiến cho tác phẩm của ông có sức
công phá mạnh mẽ đối với xã hội thực dân nửa phong kiến; từ đó toát lên nhu cầu cần
phải thay đổi tận gốc rễ cái xã hội tối tăm, mục ruỗng và tàn bạo ấy để trả lại chân dung
thực sự cho con người.
Nguyên Hồng là một nhà văn có phong vị riêng. Người ta thường gọi ông bằng cái
tên rất đỗi trìu mến “nhà văn của những người lao khổ”. Nguyên Hồng là một trong số
những nhà văn hiện thực có quan điểm nghệ thuật rất rõ rệt ngay từ khi bước vào nghề
văn. Với ông, quan niệm văn chương là “sự thực ở đời” luôn được khẳng định một cách
mạnh mẽ. Nguyên Hồng sớm nhận thức được mối quan hệ khăng khít giữa nhà văn với
hiện thực, giữa tác phẩm văn học và cuộc đời. Nguyên Hồng đặc biệt hướng ngòi bút
vào tầng lớp dưới đáy xã hội với một niềm ưu ái, cảm thông, trân trọng. Đó là lối đi
riêng không giống với những nhà văn hiện thực cùng thời. Ngòi bút của ông chủ yếu
hướng tới một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Điều đó bắt nguồn từ một quan niệm rất
riêng về cuộc đời và con người của ông. Nguyên Hồng từng quan niệm đời là một chuỗi
đau thương, đầy thương cảm nên những trang viết của ông thường đi sâu khai thác
những nỗi khổ cực nhiều mặt của tầng lớp dân nghèo thành thị với một niềm cảm thông
sâu sắc. Bỉ vỏ viết về cuộc sống của những kẻ “chạy vỏ”, sống trong vòng tội lỗi.

Nhưng giữa cuộc sống đâm chém, cướp giật tưởng như không có tính người ấy lại ánh
lên bao nét đẹp của tình nghĩa. Các nhân vật như xích lại gần nhau hơn để chở che, an
ủi trước sóng gió cuộc đời. Trong cuộc sống thấp thỏm, lo âu vì sự săn đuổi của mật
thám họ vẫn dành cho nhau những tình cảm trong sáng, lành mạnh, thủy chung, son sắt.
Những nhân vật này vẫn giữ được bản chất người là do sự chi phối của tư duy nghệ
thuật, trực tiếp là quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Có thể thấy rõ hơn
điều này trong Bảy Hựu, Sông máu, Chín Huyền, những tác phẩm viết về kẻ ngoài vòng
pháp luật, tuy sống lẩn lút trên bến sông, nhà ga… nhưng lại là những người có tấm
lòng khẳng khái, giàu lòng hi sinh.
Nam Cao là nhà văn nhanh chóng đến với chủ nghĩa hiện thực với một quan điểm
nghệ thuật tiến bộ: “nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. nghệ thuật chỉ có thể là
tiếng đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than” [Giăng sáng]. Với quan điểm nghệ thuật
này, Nam Cao đòi hỏi nghệ thuật phải trở về với hiện thực, phản ánh chân thật hiện
thực. Nghệ thuật chân chính, nhà văn có lương tâm không thể nhắm mắt bịt tai trước
nỗi khổ đau của nhân dân, trốn tránh sự thực “tàn nhẫn” mà phải “đứng trong lao khổ,
mở hồn ra đón lấy những vang động của đời” [Giăng sáng]. Ngòi bút của ông đã thể


hiện sâu sắc một khía cạnh mới khi miêu tả con người: Con người bị tha hóa bủa vây
nhưng quyết không chịu tha hóa đến cùng. Đến Nam Cao, kiểu con người tha hóa được
khai thác một cách toàn diện từ ngoại hình đến tâm lý, tính cách trên cơ sở một quan
niệm khá sâu sắc, thấm đượm tinh thần nhân đạo.
Vượt hẳn các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, Nam Cao đã đem đến cho
hình tượng con người cá nhân luôn biết tự vươn lên để hoàn thiện nhân cách của mình.
Qua tác phẩm về đề tài tiểu tư sản, Nam Cao đã đưa ra một quan niệm khá đầy đủ và
toàn diện về con người và sự phát triển của con người, trong đó điều cốt lõi nhất là ý
thức về giá trị sự sống, ý thức về cá nhân. Nhà văn lên án kịch liệt lối sống có tính chất
sinh học hằng ngày. Thứ trong Sống mòn phát biểu rõ tư tưởng đó: “Có thú vị gì cái lối
sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng cần biết một việc gì ngoài cái
việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày”. Nam Cao cho rằng đó thực chất chỉ là “chết trong lúc

sống”. Lên án lối sống bo bo, chật hẹp trong những chuyện cơm ăn áo mặc, Nam Cao
hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa xã hội. Theo ông, con người phải có lý tưởng cao
đẹp, phải có văn hóa. Con người phải sống cuộc sống có giá trị, có ý nghĩa đúng với
cuộc sống của con người. Muốn đạt được cuộc sống ấy, trước hết con người phải có lý
tưởng, hoài bão. Thứ [Sống mòn] từng có những “ước vọng cao xa”, bất đắc dĩ trở thành
anh “giáo khổ trường tư” vẫn hướng tới một cuộc sống có ý nghĩa. Hộ [Đời thừa] là
một “gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp, đầu hắn mang một hoài bão lớn”.
Không chỉ đề con người sống có lý tưởng, hoài bão, Nam Cao còn cho rằng cá nhân con
người cần phải được khẳng định trước cuộc đời. Thứ [Sống mòn] nghĩ đến những
phương kế để xếp đặt cho người với người ổn thỏa hơn với ý thức sâu sắc “phải có một
trình độ học thức khá cao. Phải luyện tài, có học, có tài y mới đủ năng lực phụng sự cái
lý tưởng của y”. Hộ [Đời thừa] cũng có ý tưởng gần như vậy. Tuy bị “áo cơm ghì sát
đất” nhưng anh vẫn mơ ước có một tác phẩm có giá trị: Rõ ràng Nam Cao đặt vấn đề cá
nhân với tư cách một nhân cách để nói lên niềm khát khao của những người trí thức
tiểu tư sản muốn khẳng định mình trước cuộc đời. Và theo ông, nhân cách lớn nhất của
con người là “phải diệt cho hết những kẻ ngồi không hưởng những thức của kẻ khác
làm ra mà chẳng làm ra được cái gì”. Đó là nhân cách của những người không chịu làm
nô lệ! Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà văn
của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Nam Cao
đã bảo vệ, bênh vực, minh oan, “chiêu tuyết” cho những con người thấp cổ bé họng, bị
cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Những Chí Phèo, những Lang
Rận, những Binh Chức, Năm Thọ... tuy bị tha hóa, bị biến dạng về hình hài, phẩm chất
nhưng ở họ vẫn là khát vọng làm người, khát vọng sống...
2. Về hình tượng nhân vật:
2.1 Trong văn học lãng mạn:
Trong văn xuôi lãng mạn, các nhân vật, tình huống, hình ảnh được nhà văn
sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu biểu hiện lí tưởng và tình cảm của tác giả. Các
nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tăm tối,
tầm thường; khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp. Thạch Lam
xúc động, trân trọng cái khát vọng được đổi đời, được sống hạnh phúc hơn của những

con người bé nhỏ bị lãng quên nơi phố huyện nghèo xưa. Nguyễn Tuân lại tìm thấy sự
tỏa sáng của nhân cách người tử tù nơi ngục thất tăm tối; sự vươn lên cái đẹp, cái thiên
lương của một ngục quan, trong một nhà tù xã hội phong kiến xấu xa, suy tàn.


Nhân vật của văn xuôi lãng mạn hành động theo sự tưởng tượng chủ quan của nhà
văn và trực tiếp thể hiện tư tưởng của tác giả. Liên và An [Hai đứa trẻ - Thạch Lam] tuy
còn nhỏ nhưng phải thay mẹ trông coi một quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống. Hàng đêm
các em lại cố thức để đón chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Con tầu với những toa
sang trọng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường và tiếng còi rít lên rầm rộ như
mang theo cả một thế giới khác đối lập với cái phố huyện tăm tối, tĩnh lặng. Nó như
thắp lên trong tâm hồn của các em một niềm khát vọng dẫu mơ hồ nhưng thật xúc động,
đáng trân trọng. Nhà văn muốn qua đó thể hiện khát vọng của những con người bé nhỏ
bị lãng quên trong xã hội cũ. Nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử từ [Nguyễn Tuân]
giống như những nhân vật lí tưởng điển hình trong văn học phương Tây, đó là đại diện
của tài năng, khí phách và thiên lương ngời sáng.
Văn học lãng mạn là tự do biểu hiện tình cảm của cái tôi cá nhân, các nhà văn lãng
mạn thường tuyệt đối hóa vai trò của cái tôi cá nhân, đặt chúng cao hơn thực tế khách
đời sống để thể hiện tư tưởng của mình. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ lãng
mạn có thể được coi là kiểu nhân vật điển hình của trào lưu văn học này.
Hiểu như thế nào là cái tôi cá nhân? Có thể nói cái tôi cá nhân là sự đề cao bản ngã
cá nhân. Con người được nói đến ở đây là con người cụ thể với những tình cảm, những
khát vọng, những quan điểm riêng về cuộc sống. Đối lập với cái tôi là cái ta – con
người được nhìn nhận với tư cách là thành viên của một tập thể, một cộng đồng, không
được nhìn nhận với tư cách con người cá nhân. Nền văn học trong khuôn khổ của ý
thức hệ phong kiến chủ yếu là nền văn học phi ngã, phủ định cái tôi. Những hiện tượng
đề cao cái tôi, cái bản ngã như Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát thì không được chấp
nhận. “Thơ mới lãng mạn ra đời cũng mang theo một cái tôi cá nhân, một cái tôi cá thể
hóa trong cảm thụ thẩm mĩ” [GS. Phan Cự Đệ]. Cái tôi cá nhân ở chừng mực nào đó đã
nói lên được một nhu cầu lớn về mặt giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự do cá

nhân. Nó làm cho thế giới tâm hồn ngày càn g mở rộng và phong phú hơn lên.
Đó là cái tôi cá nhân với nhu cầu giải phóng tình cảm, phát huy bản ngã, tự
do cá nhân. Nếu thơ ca trung đại gắn với hình ảnh con người phi ngã, con người trở
thành phát ngôn của đạo lý, của tam cương ngũ thường, tam tòng tứ đức… thì con
người trong thơ mới đã mở ra một thế giới nội tâm vô cùng phong phú với những cung
bậc tình cảm, những khát vọng, những đắm say và có cả những buồn đau hạnh phúc.
Đó có thể là niềm khao khát được sống một cách mạnh mẽ của cái Tôi cá nhân
trong thơ Huy Thông, Xuân Diệu… Cái Tôi tự do của Xuân Diệu như một con “ ngựa
trẻ không cương” cứ xông vào cuộc đời với những niềm hưng phấn, xúc cảm mãnh liệt.
Nhà thơ kêu gọi tuổi trẻ phải sống mạnh mẽ, sống có bản lĩnh, hãy hưởng thụ cuộc sống
trần gian đầy sắc hương hơn là giam mình trong cảnh sống im lìm, tẻ nhạt đầy vô vị:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Em vui đi răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhụy của mỗi giờ tình tự”
[Giục giã]
Đó có thể là cái tôi cá nhân tự do cuả Nguyễn Bính chính là sự rượt đuổi, kiếm
tìm bằng một cốt cách đa tình, một đam mê không bờ bến trên hành trình kiếm tìm hạnh
phúc.
“Chiều nay … thương nhớ nhất chiều nay
Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy


Tôi uống cả em và uống cả
Một trời quan tái mấy cho say”
[Một trời quan tái]
Đó có thể là cái Tôi cá nhân của chàng Thế Lữ khao khát tự do, vẫy vùng giữa
cảnh “núi non hùng vĩ”, thoát khỏi cảnh tù hãm sa cơ như tâm sự con hổ trong vườn
bách thú;
“Có biết chăng trong những ngày ngao ngán

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta được phảng phất gần ngươi
-Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”
[Nhớ rừng]
Và chỉ có trong Thơ mới là nói đến tình yêu. Và chỉ có trong tình yêu, cái Tôi cá
nhân mới được thể hiện một cách triệt để nhất. Thơ xưa không bao giờ nói đến tình yêu
nam nữ nên bước chân nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya” trở thành hiện tượng
độc đáo đầy mai mỉa thì tình yêu trong Thơ mới chính là sự giải thoát khát vọng hạnh
phúc đầy nhân văn của con người. Những từ “anh”, “em” mang đầy giá trị về cái Tôi cá
nhân xuất hiện rất nhiều trong Thơ mới. Tình yêu là đề tài chủ yếu mà các nhà thơ mới
ai cũng bước chân vào và khám phá nó với nhiều cung bậc cả buồn đau lẫn hạnh phúc:
Những lưu luyến, bâng khuâng của buổi đầu gặp gỡ:
“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”
[Xuân Diệu]
Sự say đắm, dào dạt trong tình yêu:
“Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!”
[Xuân Diệu]
Sự chán chường, thất vọng:
“Lòng anh như biển sóng cồn
Chứa muôn con nước nghìn con sóng dài
Lòng em như chiếc lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu”
[Nguyễn Bính]
Đó còn là cái tôi cá nhân tìm cách thoát ly trong Thơ mới. Chủ thể của Thơ mới
là những nhà trí thức Tây học đang hàng ngày, hàng giờ đòi hỏi thể hiện mình, khẳng
định mình như một cá nhân. Cùng với sự tiếp xúc và ảnh hưởng sâu sắc của văn học
phương Tây đặc biệt là thơ lãng mạn Pháp, Thơ mới đã tạo nên những nét riêng và cá
tính, phong cách sáng tạo của từng nhà thơ. Với những khát vọng được sống hết với

những giá trị tốt đẹp của con người nhưng các nhà thơ mới lại phải đối diện với cuộc
sống kim tiền đầy ô trọc của xã hội thực dân, các nhà Thơ mới nhanh chóng rơi vào
trạng thái cô đơn, bơ vơ, không lối thoát. Tuy nhiên trong tiềm thức của họ vần âm
thầm chảy mãi dòng suối văn hóa Việt và tâm hồn dân tộc. Bế tắc trước cuộc sống, họ
tìm đến những con đường thoát ly trong thơ mới. Cái tôi cá nhân được phân hóa ra làm
nhiều kiểu, họ góp phần làm dấy lên một cuộc cách mạng trong văn chương và coi đó
như là nơi tốt nhất để thực hiện khát vọng, giá trị riêng, coi văn chương “như một tiếng
thở dài chống chế độ thuộc địa” [Trường Chinh]. Nhìn chung, có những con đường
thoát ly sau trong Thơ mới:


Trốn vào tình yêu là con đường phổ biến nhất của thơ ca lãng mạn đương thời mà
tiêu biểu là Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử… các nhà thơ trốn vào tình yêu
nhưng vẫn mang theo cái Tôi mong manh, đầy bất trắc:
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau, đừng ái ngại nhau
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng…
[Lưu Trọng Lư]
Trốn vào quá khứ là con đường tìm về với những vẻ đẹp cổ xưa của văn hóa dân
tộc mà tiêu biểu là Vũ Đình Liên, Huy Cận … Các nhà thơ tìm về với quá khứ như một
sự chạy trốn khỏi hiện tại ngột ngạt nhưng rồi vẫn không dứt khỏi một cái Tôi cá nhân
mang nặng nỗi ưu tư, ngơ ngác:
Lòng ta là những hàng thành quách cũ
Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa
[Vũ Đình Liên]
Trốn vào thế giới siêu hình của tôn giáo, trốn vào trụy lạc với những cơn say của
rượu và khói thuốc phiện như trong thơ Vũ Hoàng Chương và điên loạn như trong thơ
Hàn Mặc Tử, Bích Khê… nhưng vẫn hoài ám ảnh bởi cái Tôi cá nhân đầy sầu muộn, cô
dơn:

“Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn
Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên, quên hết!

Nhưng em ơi
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ, em ơi!”
[Vũ Hoàng Chương]
Cái Tôi trong thơ mới trốn vào nhiều nẻo, có nhiều màu sắc phức tạp khác nhau
nhưng ở đâu nó cũng buồn và cô đơn. Không có lối thoát, không có tương lai, chỉ thấy
đất trời tối tăm mù mịt, đó là cái buồn, cái cô đơn ngay trong bản chất từ khi thơ mới
cất tiếng chào đời. Hoài Thanh đã nhận xét: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất
bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ,
ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với hàn mặc Tử, Chế
Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền,
điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận… Thực chưa bao giờ thơ Việt nam buồn và xôn xao đến thế.”
2.2 Thế giới nhân vật trong văn học hiện thực
Văn học hiện thực phê phán đã xây dựng thành công kiểu nhân vật lao động bị áp
bức, bị dồn vào con đường tha hóa nhưng cố vượt lên với tinh thần phản kháng. Tắt
đèn và Bước đường cùng thể hiện sức mạnh quật khởi vốn tiềm tàng trong nhân dân lao
động. Đó là những tác phẩm có hệ thống nhân vật thể hiện cái nhìn con người “trên tinh


thần giai cấp”. Chị Dậu bị dồn vào thế phải bán con, bán nhân phẩm nhưng vẫn giữ
được bản chất tốt đẹp của mình. Ngô Tất Tố đã phát hiện ra bản chất tốt đẹp tiềm ẩn
của người nông dân. Nguyễn Công Hoan lại là nhà văn có ý thức đưa vào tác phẩm hình

ảnh của người nông dân sớm giác ngộ tinh thần đoàn kết, lòng hữu ái giai cấp. Những
người nông dân giàu tinh thần phản kháng này là hình tượng đẹp của tác phẩm.
Kiểu nhân vật phản diện thuộc tầng lớp thống trị tự lao vào tha hóa đến mất hết
tính người cũng xuất hiện nhiều trong các sáng tác của văn học hiện thực phê phán
1930-1945. Với những hình tượng nghị Quế, nghị Lại, nghị Hách, Bá Kiến, các nhà văn
hiện thực có điều kiện lách sâu vào ung nhọt xã hội. Ngòi bút của các nhà văn trở thành
vũ khí chiến đấu, giáng vào đầu bọn quan tham lại nhũng, địa chủ phong kiến, tư sản
mại bản những đòn hiểm. Những hình tượng điển hình về nhân vật phản diện thuộc tầng
lớp thống trị trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam đã “miêu tả đúng đắng những
quan hệ thực tế, nó phá vỡ được những ảo tưởng có tính chất quy ước và đang thống trị
nó về bản chất của các quan hệ này, làm lung lay được cái tinh thần lạc quan của thế
giới tư sản gieo rắc hoài nghi về tính chất bất biến của những cơ sở của trật tự hiện tồn”
[Mác – Ăng ghen – Lênin bàn về văn học và nghệ thuật].
Từ quan niệm đời là “bát nháo”, “vô nghĩa lý”, bằng nghệ thuật trào phúng, Vũ
Trọng Phụng xây dựng được nhiều kiểu nhân vật mới - sản phẩm của xã hội Âu hóa, tái
tạo được bức tranh hiện thực xã hội tư sản với nhiều nỗi đắng cay, ai oán. Bên cạnh đó,
ông không quên khơi gợi ở các nhân vật của ông ý thức làm người chân chính, góp
phần hoàn thiện nhân cách người đương thời. Ông viết: “Tôi quan niệm văn chương là
một phương tiện tranh đấu của những người cầm bút muốn loại khỏi xã hội con người
những nỗi bất công, nhân lên trong lòng người nỗi xót thương đối với những người bị
chà đạp lên nhân phẩm, kẻ yếu, kẻ bị đày đọa vào cảnh ngu tối, bị bóc lột, mỗi ngày
kiếm ra đủ bữa ăn tối để nhịn sáng hôm sau”. Vì vậy, các nhân vật điển hình bị tha hóa
của ông, mặc dầu bị chi phối bởi hoàn cảnh nhưng vẫn tự nhìn lại mình, đối thoại với
chính mình để giận mình và giận đời như Thị Mịch [Giông tố]. Huyền [Làm đĩ] là nhân
vật trượt dài theo số phận nhưng vẫn thường căn vặn: “Vì lẽ gì em đến nỗi trụy lạc”.
Phúc trong Trúng số độc đắc, khi sống trong cảnh giàu sang vẫn cảm thấy chẳng vui vẻ
chút nào! Viết về các nhân vật này, Vũ Trọng Phụng hẳn mong muốn một ngày kia họ
sẽ nhận thức lại được hành động của mình, rồi sẽ thay đổi, làm người có nhân cách.
Nhân vật Tám Bính của Nguyên Hồng và nhân vật Chí Phèo của Nam Cao lại tiêu
biểu cho kiểu loại nhân vật bị tha hóa nhưng quyết không chịu tha hóa đến cùng. Trong

tác phẩm của Nam Cao, kiểu con người tha hóa được khai thác một cách toàn diện và
triệt để. Tha hóa và chống lại tha hóa, các nhân vật đã phải trả một cái giá rất đắt cho
chính mình. Nguyên Hồng và Nam Cao đã cố gắng đi tìm những nét đẹp còn ẩn sâu
trong tâm hồn của những con người bị tha hóa- một quan niệm rất tiến bộ của các nhà
văn hiện thực phê phán Việt Nam.
Văn học hiện thực phê phán với đối tượng thẩm mỹ mới của mình đã sáng tạo
được một kiểu nhân vật mới – những người trí thức. Từng ôm ấp những hoài bão lớn,
từng mơ ước và mơ ước đó là chính đáng, nhưng những nhân vật đó đều phải gò mình
trong hoàn cảnh, bị hoàn cảnh níu kéo. Bi kịch của họ là cuộc giằng xé dai dẳng, giữa
một bên là khát vọng cao cả và một bên là cuộc sống tầm thường. Thứ, Điền, Hộ là
những người trí thức đầy ước mơ, hoài bão, vật lộn trong những lo toan của đời thường,


họ đều rơi và bi kịch vỡ mộng. Chính điều này đã tạo ra phương diện tinh tế của văn
học. Nam Cao đã nói về họ với sự cảm thông sâu sắc và hiểu biết thực sự.
3. Về nghệ thuật phản ánh: Sự so sánh chỉ trong phạm vi các thể loại văn xuôi
3. 1.Văn học lãng mạn thường sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập, thích khoa
trương, phóng đại, sử dụng ngôn ngữ giàu sức biểu hiện cảm xúc.
Lấy ví dụ trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân, cảnh tượng cho chữ là một đoạn
văn giầu kịch tính, sử dụng thành công nghệ thuật đối lập, tương phản:
+ Đối lập tương phản về cảnh:
- Về không gian: Chơi chữ là một thú chơi tao nhã thường được diễn ra ở các thư
phòng, lại được diễn ra tại phòng giam “Tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện,
đất bừa bãi phân chuột, phân gián”.
- Về thời gian: Cảnh cho chữ lại không diễn ra lúc thanh thiên bạch nhật lại được
diễn ra lúc nửa đêm khi lính canh đã ngủ, đêm cuối cùng của tử tù Huấn Cao.
- Tương phản với cái tăm tối, bẩn thỉu ấy là ánh sáng: ánh sáng đỏ rực của bó đuốc
tẩm dầu, là mầu trắng tinh của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ, là mùi thơm của
chậu mực bốc lên. Tuyệt vời hơn tương phản với cái tăm tối ấy của ngục thất là sự sáng
tạo ra cái đẹp: cái đẹp của nghệ thuật, cái đẹp của tài năng, của dũng khí và nhân cách.

+ Tương phản về nhân vật: Vị thế và tư thế của các nhân vật trong cảnh cho chữ
cũng có sự thay bậc, đổi ngôi:
- Huấn Cao là một người tù, “cổ đeo gong, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ
trên tấm lụa bạch trắng tinh” nhưng phong thái ung dung, đĩnh đạc của một người tự do
nhất, uy quyền nhất vì ông là người sáng tạo ra cái đẹp, tượng trưng cho cái đẹp và
phẩm giá của con ng. Ông đang viết những con chữ cuối cùng cho đời nhưng không
phải đi vào cõi chết mà đi vào cõi bất tử bởi cái tài, khí phách và nhân cách của ông
đang được người tôn kính, giữ gìn bằng tất cả thiên lương.
- Viên quản ngục là người có uy quyền nhất lại đang “khúm núm” nhặt những
đồng tiền kẽm đánh dấu ô cho người tử tù viết chữ. Đây không phải là cử chỉ sợ sệt
luồn cúi mà là sự ngưỡng mộ, trân trọng những dòng chữ cuối cùng của Huấn Cao.
Nhưng nét chữ vuông, tươi tắn nó nói nên cái hoài bão tung hoành của một đời con
người, những nét chữ đó kết tinh tài năng, tâm huyết, vẻ đẹp của một con người mà ông
từng ngưỡng mộ. Người nghệ sĩ tài hoa có thể bị hãm hại nhưng cái đẹp phi thường thì
bất tử khi ở đời vẫn có thiên lương. Ánh sáng bó đuốc phải chăng là ánh sáng thiên
lương mà người tử tù đang chiếu lên để lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan khúm
núm và ngục quan vái tử tù trong nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bãi lĩnh”,
đây là cái vái lậy trước một nhân cách hiếm có cùng với lời thề danh dự. Có thể khi HC
bị giải vào kinh chịu án chem cũng là lúc viên quản ngục trả áo mũ để về quê để giữ
thiên lương cho lành vững bởi con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi
giữ được thiên lương.
- Thầy thơ lại là một người tự do nhưng lại run run bưng chậu mực giúp HC viết
chữ. Ông run run vì xúc động và trân trọng “giờ phút thiêng liêng xưa nay chưa từng
có” này.
+ Những từ ngữ Hán-Việt cổ kính như thiên lương, bức châm, bái lĩnh được sử
dụng nhuần nhiễn vừa phù hợp với không khí, cảnh tượng vừa góp phần tạo nên sự
thiêng hóa nhân vật theo bút pháp lãng mạn.
Thạch lam trong Hai đứa trẻ cũng sử dụng rất đắt thủ pháp tương phản:



+ Tương phản giữa bóng tối và ánh sáng:
- Bóng tối: Khi chiều muộn ánh sáng còn yếu ớt. Khi màn đêm buông xuống bóng
tối cứ lan dần, lấn dần từng con phố, từng ngõ xóm để rồi nhấn chìm phố huyện trong
màn đêm: “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra song, con đường qua chợ về nhà, các
ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”. Bóng tối được gợi đi, gợi lại như những nét vẽ
phong phú như một mô típ đầy ám ảnh, ám ảnh nhất là khi bóng tổi như một bức tường
dầy cản cả âm thanh khiến “trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô
khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối.
- Ánh sáng của phố huyện lúc này chỉ là những khe sáng từ nhà ai hắt ra; là hột
sáng của những ánh đèn tù mù vặn nhỏ; là chấm sáng từ ánh đèn cuối toa tầu. Tất cả để
nhỏ nhoi, yếu ớt trước vũ trụ thăm thẳm trong bóng tối. Nếu ví tác phẩm của Thạch
Lam như một bài thơ, lại là bài thơ hay thì phải có “thi nhãn” tức con mắt thơ tỏa sáng
cả thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Đâu là con mắt thơ trong tác phẩm ? Đó là ngọn
đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, là chi tiết nghệ thuật
giầu ý nghĩa. Ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí, ngọn đèn con của chị Tí,
vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ngọn đèn con tù mù leo lét ấy chỉ chiếu sáng một
vùng đất nhỏ đó vừa là hình ảnh thực nhưng đồng thời gợi sự liên tưởng tới những kiếp
người nhỏ bé bị lãng quên đang sống lay lắt trong đêm trường xã hội cũ. Những cư dân
phố huyện kiếm sống trong đêm, mỗi người cần đem theo một ngọn đèn và chính họ
cũng như những ngọn đèn leo lét. Đó là hình ảnh những ngôi sao lấp lánh, cũng được
miêu tả nhiều lần. Trời bắt đầu vào đêm “vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp
lánh”. Càng về khuya, “qua kẽ lá của cây bang, ngàn sao vẫn lấp lánh”. Và khi con tầu
đi qua, tiếng vang động nhỏ dần, mất dần trong bóng tối thì “sao trên trời vẫn lấp lánh”.
Sự tương phản giữa ánh sap lấp lánh trên trời với ánh đèn tù mù dưới mặt đất đã làm
vút lên một niềm tin và một chất thơ lãng mạn. Điều đó cần thiết biết bao trong hoàn
cảnh con người đang phải sống lay lắt trong bóng tối, trong nghèo khổ, lam lũ, tẻ nhạt
và bế tắc.
+ Tương phản quá khứ, hiện tại [ của Liên ], nhờ đó bộc lộ được chủ đề tác phẩm.
Hiện tại nghèo khổ: “ Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất
đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được

của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng
không có tiền để mà cho chúng nó.”. Quá khứ vui vẻ : “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội, chị
được hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ
uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rõ rệt, chỉ là một
vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có
cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc
bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh”…
3.2 Trong văn học hiện thực
Văn học cổ thường xây dựng các nhân vật có chức năng thực hiện quan điểm thẩm
mỹ truyền thống trên cơ sở “văn dĩ tải Đạo”. Đây là kiểu nhân vật điển hình của một
phương diện, điển hình về loại, chưa phải là điển hình về tính cách. Văn học lãng mạn
lại chú ý đến cái riêng, đến cá tính, tâm trạng bên trong của nhân vật. Nhân vật của chủ
nghĩa hiện thực lại là con người bình thường, con người lịch sử cụ thể. Giai đoạn 19301945 là giai đoạn sự phát triển nhảy vọt của cá nhân, của ý thức “cái Tôi”. Văn học


phản ánh nhân vật như một tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình tạo nên nghệ
thuật đặc sắc của văn học hiện thực phê phán.
Chủ nghĩa hiện thực phê phán rất chú trọng yếu tố khách quan- đối tượng phản ánh
của tác phẩm văn học. Các nhà văn hiện thực phê phán đều lấy những điển hình đời
sống, điển hình xã hội cộng với cái Tôi có tinh khuynh hướng để xây dựng nên những
điển hình văn học. Họ đặc biệt chú ý đến nguyên mẫu. Các nhà văn hiện thực phê phán
rất chú trọng xây dựng các loại hình nhân vật điển hình mà tựu trung lại có 3 loại hình
chính sau:
- Điển hình hóa nhân vật chính diện: Chị Dậu là hình ảnh của một nhân vật chính
diện tiêu biểu của văn xuôi hiện thực phê phán. Đây là kiểu nhân vật gần với truyền
thống, được xây dựng theo khát vọng của nhân dân : nhân vật chính diện bao giờ cũng
đẹp và được thể hiện với bút pháp lý tưởng. Vì vậy, nhân vật trung tâm ở đây là dạng
nhân vật điển hình mà phần khái quát hóa thành công hơn phần cá thể hóa. Nhà văn
thường chú trọng miêu tả ngoại hình hơn là nội tâm. Ngô Tất Tố là trường hợp tiêu
biểu.

- Điển hình hóa nhân vật phản diện: Chọn nhân vật phản diện làm nhân vật trung
tâm, văn học hiện thực phê phán thành công trong cách phản ánh các tưởng phản quái
gở của thời đại. Nguyễn Công Hoan rất có sở trường về điển hình hóa nhân vật phản
diện. Ông thường tô đậm một số nét điển hình của loại nhân vật này và phóng đại lên để
người đọc dễ nhận diện. Điển hình hóa nhân vật nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đã tạo nên
một nhân vật phản diện với nhiều đức tính xấu, thậm chí cực xấu. Như vậy, tính cách
điển hình của hắn hiện nguyên hình là một kẻ thống trị gian hùng và khả ố. Hình tượng
nghị Hách là hình tượng trung tâm và nổi bật của tác phẩm lấn át nhân vật chính diện.
Điển hình hóa nhân vật Bá Kiến, Nam Cao tập trung miêu tả tính cách nham hiểm hơn
là chú trọng miêu tả hình thức. Với các nhân vật phản diện này, văn xuôi hiện thực phê
phán đã làm được một sứ mệnh rất cao cả đó là nhìn thấy và vạch rõ chân tướng cũng
như bản chất của giai cấp thống trị và dự báo dự sụp đổ không tránh khỏi của chúng.
- Điển hình hóa nhân vật dị dạng: Điển hình hóa nhân vật dị dạng trở thành một
đóng góp đáng kể của văn xuôi hiện thực phê phán, mà tiêu biểu hơn cả là sáng tác của
Nam Cao. Ông hay ví von so sánh con người ứng với loài vật, đồ vật. Những nhân vật
này bị hoàn cảnh làm méo mó đến mất cả nhân hình : xấu xí, dị dạng. Trong khi và
đồng thời với việc đặt các nhân vật dị dạng thành nhân vật trung tâm của tác phẩm, nhà
văn đã để cho các nhân vật bình thường khác xuống hàng thứ yếu, hoặc trong mối quan
hệ khăng khít với nhân vật dị dạng để tô đậm thêm cuộc đời của kiểu nhân vật này.
Nam Cao chú trọng miêu tả sự băng hoại về mặt hình thức để nói lên sự tha hóa về mặt
tâm hồn. Bằng bút pháp cường điệu, lố bịchhóa nhân vật, tác giả tô đậm thêm tính bi
kịch có tính quy luật của một lớp người là nạn nhân của hoàn cảnh.
Bên cạnh nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, văn
học hiện thực phê phán cũng rất chú trọng tới nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật và xây
dựng thành công các chi tiết nghệ thuật. Đối với Nam Cao, cái quan trọng hơn cả trong
nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân
vật. Xét tới cùng, cái quan trọng nhất trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện,



Sự khác biệt giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong phương thức phản ánh [3]

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC
VÀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG PHƯƠNG THỨC PHẢN ÁNH
PHẦN MỞ ĐẦU
Để có thể mở được cánh cửa vào thế giới nghệ thuật của từng tác phẩm, cần
phải hiểu rõ đặc trưng của các phương pháp sáng tác - nền tảng kiến tạo nên thế
giới nghệ thuật ấy. Trong đó, phương pháp sáng tác hiện thực chủ nghĩa và lãng
mạn chủ nghĩa chiếm vị trí quan trọng, bởi sự phổ biến, sức ảnh hưởng trong văn
học Việt Nam; và cũng bởi số lượng văn bản trong chương trình Ngữ Văn THPT
chủ yếu thuộc hai phương pháp sáng tác này.
Đặt chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong thế đối sánh càng khắc
sâu được những đặc trưng thi pháp của từng phương pháp sáng tác. Do đó, tìm
hiểu Sự khác biệt giữa chủ nghĩa hiện thục và chủ nghĩa lãng mạn trong
phương thức phản ánh là một vấn đề thú vị và quan trọng.

PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát chung
1. Chủ nghĩa hiện thực
Chủ nghĩa hiện thực với tư cách một phương pháp sáng tác xuất hiện ở các
nước Pháp, Ý, Anh, Nga thế kỉ XIX sau đó ảnh hưởng sâu rộng ở các nước khác.
Cơ sở hình thành nên chủ nghĩa hiện thực chính là sự thất vọng của các cây bút
chân chính đối với thể chế xã hội, vì vậy, họ từ bỏ những ảo tưởng, hi vọng và
quay lại nhìn hiện thực xã hội để vạch trần những bất cập của nó. Có thể kể đến
những đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực ở phương Tây như Honoré de
Balzac, Gustave Flaubert, Stendhal…
Ở Việt Nam, chủ nghĩa hiện thực xuất hiện vừa như một trào lưu vừa như
một phương pháp sáng tác ở nửa đầu thế kỉ XX. Chỉ hơn một thập niên, chủ nghĩa
hiện thực đã đạt đến đỉnh cao với những cây bút xuất sắc như Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao và những kiệt tác như Tắt đèn, Số đỏ, Chí Phèo…
2. Chủ nghĩa lãng mạn
Chủ nghĩa lãng mạn hình thành ở Tây Âu vào sau đại cách mạng tư sản
Pháp năm 1789. Cơ sở hình thành nên chủ nghĩa lãng mạn là sự bất hòa, bất lực
trước hiện thực xã hội khiến các cây bút tự dệt nên những mộng ảo để đắm mình
vào đó. Do sự khác biệt về quan điểm và tình cảm thẩm mĩ, chủ nghĩa lãng mạn tự
tách thành hai khuynh hướng: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực. Đại diện
tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn là George Byron, François Chateaubriand, Victor
Hugo, Alfred de Musset…
Ở Việt Nam, chủ nghĩa lãng mạn xuất hiện vào nửa đầu thế kỉ XX, phát triển
song song với chủ nghĩa hiện thực. Những cây bút tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng
mạn là Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân…
3. Phương thức phản ánh
Theo định nghĩa duy danh, phương thức phản ánh là phương pháp, là cách
thức để thể hiện một nội dung xã hội vào trong tác phẩm văn học. Mỗi phương
pháp sáng tác sẽ có một phương thức phản ánh khác nhau và điều ấy nổi bật như
một dấu ấn riêng biệt, không thể lẫn. Có thể nói, nắm được phương thức phản ánh
của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn, đặc biệt là thấy được sự khác biệt

về phương thức phản ánh giữa hai trào lưu ấy chính là yếu tố quan trọng để tìm
hiểu những tác phẩm cụ thể.
II. Sự khác biệt giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn trong
phương thức phản ánh
1. Điểm nhìn
Điểm nhìn nghệ thuật có một vị trí quan trọng trong văn học bởi vì “đó là vị
trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có
nghệ thuật nếu không có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc
điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ
thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới
đối với cuộc sống. Sự đổi thay của nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn [Từ
điển thuật ngữ văn học - Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi].
Điểm nhìn nghệ thuật có thể được phân chia thành các điểm nhìn: không
gian, thời gian, tâm lý, quang học, theo một mô hình văn hóa, theo một hệ tư
tưởng…; được biểu hiện qua các phương tiện nghệ thuật, ngôi kể, cách xưng gọi
sự vật, cách dùng từ ngữ, kiểu câu; nhằm cung cấp một phương tiện để người đọc
nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc điểm phong cách ở trong đó.
Ở đây, do giới hạn của chuyên đề nên chúng tôi không khai thác hết các bình
diện của lý thuyết điểm nhìn mà chỉ dừng lại ở những nét khác biệt cơ bản trong
điểm nhìn của văn xuôi hiện thực và văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 19301945.
Với cương lĩnh sáng tác là nhà văn là thư ký của thời đại và tiểu thuyết là sự
thực ở đời, văn học hiện thực chủ trương tái hiện hiện thực theo nguyên tắc khách
quan, không tô vẽ hoặc né tránh các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Vì vậy điểm
nhìn trần thuật của các nhà văn hiện thực là trần thuật khách quan, thường giữ một
khoảng cách nhất định đối với nhân vật. Với điểm nhìn này, người đọc sẽ bị thuyết
phục bởi tính xác thực của sự kiện, tình tiết, chi tiết, đem đến cho tác phẩm một
màu sắc khách quan tối đa. Ở chỗ đứng đó, các nhà văn hiện thực 1930-1945 Việt
Nam chọn đối tượng phản ánh chủ yếu là quần chúng lao động nghèo, những
người chiếm số đông trong xã hội bấy giờ, như người nông dân, người trí thức tiểu
tư sản nghèo, những người buôn bán nhỏ, người đi ở…[ ở các tác giả Nam Cao,
Ngô Tất Tố]; hoặc thế giới thành thị nửa mùa ối a ba phèng đầy rẫy những điều

xấu xa, đê tiện [trong văn của Vũ Trọng Phụng]. Các nhà văn hiện thực dù mỗi
người một quan điểm nghệ thuật, một phong cách, một sở trường…nhưng đều gặp
gỡ ở điểm nhìn bao quát: nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối mà là sự thật
ở đời. Người nghệ sĩ đã cố gắng tái hiện khách quan chân thực nhất bức tranh thực
tại của phần đông quần chúng lao khổ, khốn cùng dưới chế độ phong kiến nửa thực
dân xấu xa, thối nát. Chính vì vậy mà Nam Cao mặc dù rất thương yêu những
người lao động nghèo nhưng ông vẫn phải chấp nhận quy luật nghiệt ngã của xã
hội lúc bấy giờ, đau đớn nhìn họ chìm trong cuộc sống đói khát và bế tắc. Vũ
Trọng Phụng dù ghét cay ghét đắng xã hội thành thị đương thời, nhưng trong Số
đỏ ông vẫn phải viết về xã hội chó đểu ấy [chữ dùng của nhà văn], nơi mà đồng
tiền xoay tròn trên lương tâm và đạo đức của con người.
Để đảm bảo tính chân thực các nhà văn hiện thực thường chọn chỗ đứng
bên ngoài dửng dưng, khách quan nhìn thấy thế nào, phản ánh như thế. Tuy nhiên
ở một số nhà văn, đặc biệt là Nam Cao ông thường dịch chuyển điểm nhìn vào bên
trong nhân vật nhằm khám phá chân thực thế giới tâm hồn tình cảm con người.
Trái với văn học hiện thực nhìn cuộc đời bằng con mắt khách quan tự nó
vốn thế [tất nhiên điều này có tính tương đối, bởi tác phẩm văn học nào cũng nhìn
thế giới qua con mắt chủ quan của người nghệ sĩ], các nhà văn lãng mạn nhìn thế
giới như họ muốn thế. Nghĩa là điểm nhìn của nhà văn lãng mạn là từ bên trong cái
tôi của mình, mục đích chính của người nghệ sĩ không phải nhằm phản ánh hiện
thực mà để thỏa mãn nhu cầu thể hiện cái tôi của anh ta. Có thể nói chủ nghĩa lãng
mạn là sự ý thức cao độ cái tôi cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu đề cao mộng
tưởng, đề cao tình cảm và đề cao tự do.
Vì nhìn thế giới như họ muốn thế nên các nhà văn lãng mạn có xu hướng
hoặc hòa hoãn thực tại, hoặc thoát ly thực tại, hoặc cải tạo thực tại theo chiều
hướng cải lương. Hiện thực cuộc sống trong văn xuôi lãng mạn Việt Nam 19301945 chủ yếu xoay quanh một bộ phận nhỏ người Việt Nam bấy giờ. Đó là tầng
lớp bên trên xã hội như tư sản, hoặc trí thức tiểu tư sản khá giả, những cô chiêu cậu
ấm sống trong nhung lụa. Họ không phải lo lắng, muộn phiền về vật chất, họ chỉ
quan tâm tới việc làm thế nào để được giải thoát, thỏa mãn tinh thần. Nếu có hình
ảnh người lao động thì các nhà văn cũng cố tìm cho họ một lối thoát có màu sắc
cải lương để xoa dịu cái thực tại nghiệt ngã. Đặc biệt, các nhà văn lãng mạn Việt

Nam 1930-1945 rất đề cao những mối tình trái lễ giáo phong kiến vì họ đứng trên
tinh thần tự do và nhân văn đấu tranh với lễ giáo phong kiến cổ hủ, lạc hậu chà đạp
lên con người.
Trong văn xuôi lãng mạn, cái tôi được phát huy hết mức. Đó là một cái tôi
khinh bạc, giang hồ lãng tử thể hiện trong tập Tùy Bút của Nguyễn Tuân, một cái
tôi người hùng có mặt trong hầu hết các tiểu thuyết của Lê Văn Trương như Một
Người, Tôi Là Mẹ, Chồng Chúng Ta. Đòi hỏi giải phóng cá nhân ra khỏi những
ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến được phản ảnh qua tác phẩm Nửa
Chừng Xuân của Khái Hưng, Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Đôi Bạn của Nhất Linh,
Làm Lẽ của Mạnh Phú Tứ.
Tất nhiên, đề cao cái tôi, khát vọng giải phóng cá nhân cũng chính là sự
phản ứng chống lại xã hội đương thời, tìm đến một thế giới khác giúp con người
quên đi cuộc sống mà họ cảm thấy chán ghét, vẽ ra một cuộc sống hoặc tươi đẹp,
hoặc thoát ly thực tại để làm thỏa mãn khát vọng của con người.
Chính sự khác nhau trong điểm nhìn cho nên văn học hiện thực và văn học
lãng mạn đã có những khác biệt cơ bản trong khắc họa nhân vật, sử dụng ngôn
ngữ, giọng điệu và các biện pháp nghệ thuật mà chúng tôi sẽ đề cập ở các mục sau.
2. Nhân vật
Nhân vật văn học là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người
trong tác phẩm văn học- cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các
phương tiện riệng của nghệ thuật ngôn từ
Nhân vật cũng là một yếu tố quan trọng thể hiện phương thức phản ánh
cuộc sống của tác phẩm văn học. Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn có
phương thức phản ánh khác nhau nên nhân vật theo đó cũng mang những đặc trưng
khác nhau.
Chủ nghĩa lãng mạn hướng về thực tại với thái độ chán ghét bất bình, vì vậy
nó tập trung ca ngợi, khẳng định những gì đối lập với thực tại . Nhân vật của chủ
nghĩa lãng mạn do đó thường thoát li thưc tế, quay về quá khứ, đi vào ảo mộng
hoặc thu mình trong cái tôi nhỏ bé. Nhân vật Rơnê trong tác phẩm cùng tên của
Satôbriăng bỏ tổ quốc Pháp sang sống với người da đỏ châu Mĩ như một cách từ
bỏ văn minh Châu Âu quay về sống với những bộ tộc bán khai. Cô bé Liên trong
Hai đứa trẻ của Thạch Lam với tâm hồn bay bổng đã có những phút giây tự tách

mình ra khỏi cuộc đời tăm tối để sống với mơ ước hi vọng, dẫu đó chỉ là những
giấc mơ hão huyền. Hình ảnh đoàn tàu với Liên vì thế chất chứa một vẻ đẹp của
ngày qua. Ở đó, lặng theo mơ tưởng, một thế giới hoài niệm nơi ký ức sâu đằm
hiện lên ngân nga một dư vị ngọt ngào. Đó là một trang cổ tích ngày xưa bỏ quên ở
Bờ Hồ, nơi hai chị em đã từng ”uống cốc nước lạnh xanh đỏ thần tiên”. Quá vãng
đã trào lên muôn sắc hào quang, dù không rõ rệt nhưng vẫn hấp dẫn và quyến rũ
mê hồn với những nhân vật lãng mạn. Vì vậy, ta hiểu vì sao Liên là nhân vật duy
nhất trong phố huyện cố thức không phải chỉ để ”may ra còn có người mua” mà
chỉ muốn được nhìn chuyến tàu. Đó là hạnh phúc duy nhất trong ngày, và phải
chăng còn là mơ ước cả một đời ở con người. Vì thế con tàu trong mắt Liên đồ sộ
lạ lẫm và đi với tốc độ phi thường, vừa tới đã vụt qua. Và cô bé đã xốn xang như
uống lấy tiếng động của nó, sắc màu của nó.
Không bằng lòng với cái thế giới giả dối, bất công mình đang sống, các nhà
văn lãng mạn chủ nghĩa luôn hướng về và truy tìm lí tưởng, dùng lí tưởng chủ
quan thay thế hiện thực khách quan, dốc toàn lực để biểu hiện một viễn cảnh cuộc
sống mà con người nên có. Schiller nói sáng tác của mình là “lấy lí tưởng đẹp đẽ
để thay thế hiện thực thiếu thốn”[ Schiller bình truyện. Nxb Nhà văn, 1955, tr55].
George Sand nói sáng tác của mình là “cảm thấy tất yếu phải dựa theo hi vọng của
tôi đối với nhân loại, dựa vào cái mà tôi tin là nhân loại nên có để viết về nó”
[George Brandes: Nhà văn Pháp bình truyện. Nxb Văn hóa quốc tế, 1951, tr2].
Michael trong tác phẩm Nữ hoàng Mab đã miêu tả một thế giới tuyệt đẹp với sự
hòa thuận, thân ái, bình đẳng…, điều mà tác giả muốn biểu hiện chính là một thế
giới lí tưởng. Vì hướng tới biểu hiện hiện thực xã hội lí tưởng nên hình tượng nhân
vật của chủ nghĩa lãng mạn cũng là hình tượng nhân vật lí tưởng. Ví dụ như
Quasimodo lương thiện, cao thượng dưới ngòi bút của V.Hugo; vì lương tâm nhân
tính mà bao lần không quản hiểm nguy cứu người, bao lần sáng tạo nên kì tích biến
nguy thành an; Huấn Cao của Nguyễn Tuân dù đối diện với án tử hình vẫn tỏa
sáng vẻ đẹp của tài hoa, khí phách, thiên lương.… tất cả đều là những hình tượng
nhân vật lí tưởng. Những con người này luôn mang tinh thần phản kháng, họ là
những chiến sĩ đấu tranh đòi giải phóng nhân loại bị áp bức, hướng về một tương
lai tốt đẹp dù còn mơ hồ, theo đuổi một lí tưởng tích cực nhưng không tưởng. Van
Tieghem nói về hình tượng nhân vật lí tưởng của chủ nghĩa lãng mạn như sau:

“Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn và những điều nó nói trở thành hứng thú của
độc giả chứ không phải là đưa ra đối tượng cần mô phỏng” [Lucien Levy-Bruhl:
Lịch sử văn học Pháp thế kỉ 19. Nxb Nhân dân Thượng Hải, 1997, tr 2]. Lỗ Tấn
cũng từng khẳng định: “Nhìn chung họ đều có xu hướng như nhau: bất mãn với
thời thế và không bằng lòng với tiếng kêu hòa hoãn. Cho nên họ đã cất lên những
tiếng làm cho người nghe phải đứng dậy giành lấy đất trời và chống lại bọn phàm
tục”.
Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn được khắc họa theo nguyên tắc chủ quan.
Cuộc sống lí tưởng mà chủ nghĩa lãng mạn hướng đến, truy tìm và nhân vật lí
tưởng trong hiện thực cuộc sống đương thời là không tồn tại, nó đều xuất phát từ
tâm hồn chủ quan của nhà văn. Bielinxki đã nói: “Trên ý nghĩa bản chất nhất, hẹp
nhất, chủ nghĩa lãng mạn chính là thế giới nội tâm chủ quan của con người, là cuộc
sống bí mật của tâm hồn anh ta. Trong trái tim và tâm lí con người tiềm ẩn ngọn
nguồn bí mật của chủ nghĩa lãng mạn”[Bielinxki bàn về văn học. Nxb Văn nghệ
mới 1958, tr153]. Giorgiơ Xăng nói “Nghệ thuật không phải là sự mô tả thực tại có
thực, mà là sự tìm tòi chân lí, lí tưởng” Chu Quang Tiềm chỉ ra: “cái nổi bật nhất,
đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa lãng mạn là tính chủ quan”[Lịch sử mĩ học
phương Tây. Quyển hạ, Nxb Văn học nhân dân, 1964, tr 727]. Có thể nói, chủ
nghĩa lãng mạn mang sắc thái chủ quan sâu sắc, tập trung vào lí tưởng của chủ thể,
chú trọng truyền đạt cảm nhận chủ quan, biểu hiện tâm hồn chủ quan, thể hiện tình
cảm chủ quan của cá nhân. Nhà văn lãng mạn khi xây dựng nhân vật thường coi
trọng vẻ riêng, cái đặc biệt, độc đáo thậm chí nhấn mạnh đến mức cực đoan, phi
thường, ngoại lệ nhằm thể hiện cho được cái lí tưởng của mình. Jean Valjean
người tù khổ sai vượt ngục nhưng lại có những hành động xuất chúng. Quasimodo
tàn tật, xấu xí nhưng tâm hồn rất đỗi cao thượng. Napoleong dưới ngòi bút của
Victor Hugo là một "Hoàng đế có tất cả các đức tính. Hoàng đế hoàn toàn”, Huấn
Cao cũng mang vẻ đẹp toàn thiện, xưa nay chưa từng có, một vẻ đẹp vượt lên trên
hiện thực, có khả năng cứu rỗi linh hồn người. Vì nhấn mạnh tính chủ quan nên
chủ nghĩa lãng mạn khi miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật thường vượt lên trên
sự phản ánh thế giới khách quan. Sự dồi dào tình cảm trở thành hạt nhân trong cấu
trúc nhân vật. Tính cách của chủ nghĩa lãng mạn không có lôgic nội tại khách quan
mà phát triển chuyển biến theo ảo tưởng chủ quan của nhà văn. Ngoài ra, tuân thủ

nguyên tắc chủ quan nên tính cách trong chủ nghĩa lãng mạn- trên ý nghĩa nào đóchẳng qua là “phân thân “của tác giả. Puskin từng có một nhận xét sâu sắc rằng
nhân vật của Byron “là những nét của bản thân Byron đem san sẻ cho nhân vật của
mình”. Chính vì điều này mà số lượng tính cách của chủ nghĩa lãng mạn dù sâu sắc
nhưng vẫn còn đơn điệu.
Khác với chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực nhìn thẳng vào thực tại
bằng tinh thần phản ánh chân thực cuộc sống với những gì bản chất nhất của nó,
như Bielinxki từng nói “Nghệ thuật của nhà thơ trong thực tế phải nhằm thực hiện
tốt nhiệm vụ nêu rõ một tính cách với bản chất tự nhiên của nó, được hình thành
như thế nào trong hoàn cnhr mà nó kinh qua do số phận của chính nó”. Nhân vật
của chủ nghĩa hiện thực vì thế không chạy trốn thực tại, không mơ mộng một xã
hội tốt đẹp đầy ảo tưởng, cũng không mang những vẻ đẹp ở mức lí tưởng ...Nhân
vật của chủ nghĩa hiện thực là “con người xã hội”, con ngườu thực tại, là những
nhân vật điển hình của thời đại. Đó có thể là những nhân vật chính diện đượcc
miêu tả với cảm hứng khẳng định, ngợi ca. Họ dù bị đẩy vào hoàn cảnh đau đớn,
khổ sở vẫn luôn cố gắng giữ lấy phẩm chất trong sạch của mình trước bùn lầy cám
dỗ, dám vật lộn, đấu tranh với cuộc sống để bảo vệ sự công bằng, lẽ phải, bảo vệ
danh dự, nhân phẩm của mình, của mọi người. Đó là anh Pha, là chị Dậu, lão Hạc
trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao, là những
người quý tộc còn giữ được đạo đức trong sạch, đối lập với đầu óc trục lợi của giai
cấp tư sản, những anh hùng cộng hòa trong tác phẩm của Balzac, là những con
người luôn nghĩ đến vận mệnh của quốc gia dân tộc trong chủ nghĩa hiện thực phê
phán Nga... Bên cạnh nhân vật chính diện, chủ nghĩa hiện thực còn khắc họa thành
công những nhân vật phản diện, những kẻ điển hình cho những thói hư, tật xấu,
những tội ác đang hoành hành trong xã hội đương thời. Đó là Raxtinhac, Sắclơ,
Grăngđê, Vôtrin... của Balzac, những kẻ luôn thấm nhuần thứ đạo đức “nếu anh
muốn ăn ngon, thì đành chịu bẩn tay một tí” à triết lí tôn thờ "con bê vàng”, đó là
những tên địa chủ, tư sản keo kiệt, mơ mộng, lười nhác như Oblêmốp của Gôn sa
rốp, Pluskin của Gôgôn, là những tên cường hào ác bá như Bá Kiến, Nghị Hách,
Nghị Quế...của Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố...

Nhân vật của chủ nghĩa hiện thực như đã nói ở trên là những nhân vật điển
hình, nhân vật có sự thống nhất hài hòa cao độ giữa tính riêng sắc nét và tính
chung có ý nghĩa khái quát cao. Cái riêng sắc nét và cái chung khái quát cao ấy
phải thống nhất với nhau, phải hài hòa cao độ. Về mặt cá thể hóa, Ăng ghen từng
nhấn mạnh "mỗi nhân vật là một điển hình, nhưng đồng thời lại là một cá nhân
hoàn toàn cụ thể", là con người này . Cá tính cao độ của nhân vật sẽ làm cho nó trở
nên sinh động. Tác phẩm của Bandắc có nhiều tên tư sản như Guyôm, Gôriô,
Birêtô, Graxlanh, Rôgiôn, Crơven, những chủ nhà băng như Nuyxingien, Mapa ,
Kinle, Đuytiê, những kẻ ăn chơi như Luxtơ, Phinô, Vécnu, Êmilơ, Luyxiêng, Vi
nhông...Tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao có những người
nông dân cùng khổ như anh Pha, chị Dậu, Chí Phèo, những tên địa chủ như Bá
Kiến, Nghị Quế, Nghị Lại......nhưng mỗi người mỗi vẻ, không ai giống ai. Họ đều
hiện ra với những cá tính sinh động từ dáng vẻ, tác phong, tâm tư, tình cảm, hành
động, ngôn ngữ ... làm cho người đọc như đang tiếp xúc với con người cụ thể ở
ngoài đời. Về tính chung, chúng ta có thể thấy qua lời ghi nhận sau đây của Ăng
ghen đối với những nhân vật trong Phrăngxơ Phôn Xickinghen: “Các nhân vật
chính thì thật sự là đại biểu cho những giai cấp và những trào lưu nhất định, do đó
tiêu biểu nhất định cho thời đại của họ”. Oblômốp, nhân vật chính trong tiểu thuyết
cùng tên của Gônsarốp, nhà văn hiện thực phê phán Nga là đại diện cho tính cách
mơ mộng và lười nhác của nhiều tầng lớp nhân dân Nga trong cái xã hội Nga trì trệ
và lạc hậu trước cách mạng. Grăng đê của Ban dắc là điển hình cho tính cách keo
kiệt của một bộ phận tư sản Pháp đương thời.
Nếu nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn được xây dựng theo nguyên tắc chủ
quan thì nhân vật của chủ nghĩa hiện thực được xây dựng theo nguyên tắc khách
quan, hay đầy đủ hơn là nguyên tắc lịch sử- cụ thể . Vì vậy nhân vật điển hình luôn
được đặt vào trong hoàn cảnh điển hình. Đó là những hoàn cảnh của nhân vật được
tái hiện vào trong tác phẩm, phản ánh được bản chất hoặc một vài khía cạnh bản
chất trong những tình thế xã hội và một quan hệ giai cấp nhất định. Hoàn cảnh điển
hình thống nhất với tính cách điển hình ở chố nó đẻ ra tính cách điển hình, là cơ sở
để giải thích tính cách điển hình. Chính vì thế mà những tính cách trong chủ nghĩa
hiện thực dù có li kì nhưng hoàn toàn có thể giải thích được. Vôtrin cũng phảng
phất một cuộc đời có nhiều nét giống Giăng Văn Giăng. Vốn là một tướng cướp bị

tù khổ sai, vượt ngục và bị truy lùng, nhưng hắn đã chui được ngay vào cơ quan
cảnh sát. Điều này “lạ mà quen”. Bởi vì tái hiện Vôtrin, Bandắc cũng đồng thời
đặt nhận vật vào những hoàn cảnh lịch sử- cụ thể của xã hội tư bản, một xã hội mà
ranh giới giữa pháp luật và phi pháp, xét trên thực chất chỉ là hình thức. Bởi vì
ngay những tên chóp bu trong guồng máy chính quyền của giai cấp bóc lột chẳng
qua cũng là những tên “tướng cướp” được hợp pháp hóa. Trong một xã hội như
vậy, một tên cướp hoàn toàn có thể làm cảnh sát, thậm chí vì đã làm tướng cướp
cho nên có thể hoàn thành thiên chức cảnh sát “hiệu nghiệm” hơn người khác. Chí
Phèo của Nam Cao từ một anh nông dân hiền lành lương thiện sau thời gian đi tù
về đã trở thành một con quỷ dữ khiến người ta khiếp sợ, Xuân tóc đỏ từ một đứa
trẻ lang thang, ma cà bông bỗng trở thành bác sĩ nối tiếng, thành anh hùng cứu
quốc, Hộ tôn trọng nguyên tắc tình thương nhưng lại đối xử tàn nhẫn với vợ con..
tất cả những nghịch lí này đều có thể lí giải bằng hoàn cảnh cụ thể của mỗi nhân
vật trong tác phẩm.
Là con đẻ của hoàn cảnh điển hình, tính cách điển hình trở nên rất phong
phú và đa dạng chứ không đơn điệu như trong chủ nghĩa lãng mạn. Quả vậy, số
lượng tính cách mà chủ nghĩa hiện thực tái hiện được nhiều chưa từng có. Chỉ tính
riêng trong bộ Tấn trò đời của Bandắc đã có 425 nhân vật quý tộc, 188 nhân vật tư
sản, 487 nhân vật tiểu tư sản..Tổng cộng đến trên hai nghìn nhân vật bao gồm rất
nhiều đối tượng với những ngành nghề và thuộc những tầng lớp, giai câp khác
nhau.Tất cả đã giúp cho người đọc có một cái nhìn khái quát về nước Pháp thế kỉ
XIX.
Do đặt nhân vật vào hoàn cảnh để khắc họa nên tính cách của nhân vật trong
văn học hiện thực không phiến diện một chiều như nhân vật của chủ nghĩa lãng
mạn mà thường đa dạng, phức tạp gần như chính con người thật ngoài đời. Hơn
nữa, hoàn cảnh cuộc sống cũng luôn tiệm tiến và đột biến nên tính cách của nhân
vật luôn vận động, phát triển. Chí Phèo từ hiền lành đến bất lương rồi lại thèm
lương thiện, Luyxiêng [Vỡ mộng, Bandắc] vốn tốt bụng, đẹp trai, từng mơ ước trở
thành một chàng trai phong lưu nhưng rồi lại biến thành một kẻ tráo trở, tha hóa.
Tất cả là do sự biến đổi của hoàn cảnh đã tác động.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể khiến các nhà văn hiện thực không thể đem cái
chủ quan của mình để quyết định hoàn toàn tính cách nhân vật như chủ nghĩa lãng

mạn mà vẫn phải dựa vào hiện thực khách quan. Cái chủ quan của nhà văn phải là
một thứ chủ quan đã nắm bắt được chân lí khách quan, phải phù hợp với thực tế
khách quan. Nhà văn lãng mạn không đặt ra vấn đề này.
Tóm lại, qua hệ thống nhân vật, đặc biệt là các nhân vật trung tâm có thể
hình dung phần nào phương thức phản ánh thế giới của chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa lãng mạn. Do ra đời sau nên so với chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực
đã có bước kế thừa và phát triển hơn; đã đến gần hơn với cuộc sống và có khả năng
cải tạo cuộc sống.
3. Không gian, thời gian nghệ thuật
3.1. Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật thuộc hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật, thể
hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật
bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật. Thời gian
nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của
các hiện tượng đời sống ý thức: sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa
khác,… tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Như vậy, thời gian nghệ thuật gắn liền
với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự
tự cảm thấy của con người trong thế giới. Có thời gian nghệ thuật không tách rời
với chuỗi biến cố cốt truyện như cổ tích, có thời gian nghệ thuật xây dựng trên
dòng tâm trạng và ý thức như tiểu thuyết, có tác phẩm dừng lại chủ yếu trong quá
khứ, khép kín trong tương lai, có thời gian nghệ thuật “trôi” trong các diễn biến
sinh hoạt, có thời gian nghệ thuật gắn với các vận động của thời đại, lịch sử, lại có
thời gian nghệ thuật có tính “vĩnh viễn”, đứng ngoài thời gian như thần thoại. Thời
gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kì
lịch sử, từng giai đoạn phát triển, nó cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả
về phương thức tồn tại của con người trong thế giới. Trong thế giới nghệ thuật,
thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiêu đề được giấu kín
để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả. Gắn với
phương thức, phương tiện thể hiện, mỗi thể loại văn học có kiểu thời gian nghệ
thuật riêng.

Thời gian nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng của phương thức
phản ánh trong văn học hiện thực và văn học lãng mạn - hai trào lưu văn học lớn
của tiến trình văn học. Trong tác phẩm văn học nó là một trong những yếu tố quan
trọng giúp nhà văn thể hiện tư tưởng tác phẩm. Thời gian trong tác phẩm văn học
thuộc chủ nghĩa lãng mạn có những nét khác biệt tương đối so với thời gian nghệ
thuật trong tác phẩm thuộc chủ nghĩa hiện thực.
Trước hết, ta xét đến yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học
hiện thực. Những đại diện tiêu biểu của văn học hiện thực thế giới có thể kể đến
như Balzac, Stendhal, Gogol, T.Sekhov,… Và Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng là những tác giả không thể không nhắc đến khi bàn về văn học hiện
thực ở Việt Nam. Trong văn học hiện thực, thời gian nghệ thuật có thể theo tự
nhiên, có thể theo tâm lý nhưng đều tuân theo quy luật khách quan. Nhân vật của
Nam Cao sống, như thường lệ, trong thời gian hiện thực. Một trong những nét đặc
sắc của thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là đã tạo ra một kiểu thời
gian hiện thực hằng ngày, trong đó các nhân vật của ông dường như bị giam hãm,
tù túng, luẩn quẩn trong vòng những lo âu thường nhật. Cả thế giới nhân vật “bị áo
cơm ghì sát đất” của ông như xuội đi trong cái vòng luẩn quẩn của thời gian hàng
ngày mòn mỏi. Thời gian trong nhiều tác phẩm của Nam Cao như là đông đặc lại.
Nó tù đọng, đóng kín, xoay theo cái quỹ đạo tưởng chừng như không thay đổi. Thế
giới bên ngoài dường như không bị thống trị bởi nó. Có thể nói, Nam Cao đã sáng
tạo ra trong những tác phẩm của ông một kiểu thời gian hiện thực hàng ngày luẩn
quẩn với những lo âu về sinh kế, mòn mỏi về tinh thần, góp phần tạo nên hình ảnh
một cuộc sống mòn bế tắc, ngột ngạt khá điển hình. Cũng như thời gian trong thế
giới quan, thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là một tập hợp của
nhiều thời gian riêng biệt. Bên cạnh dòng thời gian thường nhật, sáng tác của Nam
Cao còn có thêm một dòng thời gian tâm trạng. Có thể thấy, Nam Cao chú ý đặc
biệt tới thời gian hiện tại, một cái thời gian hiện tại không bị chìm đi trong quá
khứ, cũng không bị mờ đi vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng hơn, cụ thể
hơn, sinh động hơn, sâu sắc hơn, vì mang theo cả cái chiều dài và bề sâu thăm
thẳm của quá khứ, hiện tại và tương lai cộng lại. Và đó là mặc dù là thời gian nghệ
thuật nhưng vẫn thống nhất trong quy luật khách quan của hiện thực.

Khác với thời gian trong văn học hiện thực, thời gian trong văn học lãng
mạn thường thiên về thời gian nội cảm, chủ yếu đi theo quy luật cảm xúc tâm lý.
Thời gian nghệ thuật phần nhiều bị chi phối bởi yếu tố tâm lý. Thời gian có thể là
ban ngày nhưng do cảm xúc chủ quan của nhân vật, do nỗi buồn trong tâm trạng
biến đổi thành cái u ám, thảm đạm của buổi ban đêm. Cũng có thể đó là thời gian
của thực tại nhưng được biến đổi thành thời gian của quá khứ hoặc tương lai tùy
vào ý đồ chủ quan của tác giả hoặc cuộc sống, tâm trạng được phản ánh trong tác
phẩm. Chẳng hạn, trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam, tác giả chủ ý
xây dựng một không gian và thời gian nghệ thuật đẫm màu tâm trạng. Thời gian là
một buổi chiều “êm ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm. Bối cảnh phố
huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau:
lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Tất cả không gian và thời gian ấy
cho thấy một khung cảnh nghèo nàn và ảm đảm trong cuộc sống của người dân phố
huyện, đặc biệt là trong tâm trạng của nhân vật Liên. Thời gian như ngưng đọng lại,
trôi một cách chậm rãi và khó nhọc khi tâm trạng con người đang chờ đợi một điều gì
đó. Liên và An càng chờ đón đoàn tàu bao nhiêu thì cái buổi chiều êm ả ấy lại càng
như nặng nề hơn, chậm chạp trôi vào bóng đêm. Và khi bóng tối buông xuống đen
đặc thì thời gian cũng như dẻo quánh lại, không nhúc nhích trước tâm trạng chờ đợi
của tất cả những con người nghèo khổ nơi phố huyện ấy. Như vậy, chúng ta cũng có
thể thấy, trong tác phẩm văn học lãng mạn, tác giả hoàn toàn có thể kéo dài thời gian
một cách lê thê, hoặc cũng có thể co ngắn thời gian hết mức theo ý đồ của mình sao
cho phù hợp với diễn biến tâm trạng nhân vật và chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Ta cũng có thể xét đến yếu tố thời gian trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân. Đó là thời gian của ban đêm, thời gian của bóng tối trong căn ngục đầy mịt
mùng và u ám. Tại sao tác giả đã chủ ý xây dựng một không gian tù ngục thảm đạm
lại thêm vào yếu tố thời gian đêm tối mịt mùng? Đó chính là vì Nguyễn Tuân muốn
xây dựng trên cái nền của không gian và thời gian quẩn quanh, tù đọng ấy một vẻ đẹp
“vang bóng một thời”, một vẻ đẹp sáng rõ như ban ngày vượt lên cái nền u ám của
đêm tối…
Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng, một trong những yếu tố quan
trong của phương thức phản ánh trong văn học là thời gian nghệ thuật. Thời gian dù
được xây dựng tuân theo quy luật khách quan trong văn học hiện thực hay là thời gian

nội cảm trong văn học lãng mạn thì đó đều là những chất liệu, những phương thức
quan trọng và khả quan giúp cho tác giả thực hiện ý đồ nghệ thuật của mình.
3.2. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ
thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về
không gian nên mang tính chủ quan do vậy nó có tính độc lập tương đối, không
quy được vào không gian địa lí. Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật có
tác dụng mô hình hóa các mối liên hệ của bức tranh thế giới như thời gian, xã hội,
đạo đức, tôn ti trật tự. Ngoài ra nó có thể mang tính địa điểm, tính phân giới, dùng
để mô hình hóa các phạm trù thời gian như bước đường đời, con đường cách
mạng. Không gian nghệ thuật có thể mang tính cản trở để mô hình hóa các kiểu
tính cách con người cũng có thể là không có tính cản trở, như trong cổ tích làm cho
ước mơ công lý được thực hiện dễ dàng. Ngôn ngữ của không gian nghệ thuật rất
đa dạng và phong phú. Nó chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của văn học mà
còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai
đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như
nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật.
Trần Đình Sử lí giải thêm: “không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại cùng
thế giới nghệ thuật”. Ông còn khẳng định một cách hết sức chắc chắn: “không có
hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một nhân vật nào không
có một nền cảnh nào đó”, và “không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc
sống”. Như vậy, không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế
giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống,
“mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật”.
Tóm lại, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ
thuật. Không gian nghệ thuật không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm
văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới,
chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách
quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng
nghệ thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.

Chủ nghĩa hiện thực, và chủ nghĩa lãng mạn là một trong những phương pháp sáng
tác được đánh giá cao trong sáng tác văn chương. Chủ nghĩa hiện thực không mang
màu sắc lãng mạn, huyền ảo với những gam màu tình yêu cháy bỏng như chủ
nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực đi sâu vào khai thác hiện thực cuộc sống với
bao ngổn ngang hỗn tạp. Nếu chủ nghĩa lãng mạn giương cao ngọn cờ giành lấy tự
do yêu đương thì chủ nghĩa hiện thực lúc nào cũng đấu tranh cho quyền sống con
người. Quyền sống đó không chỉ đơn giản là quyền được yêu, được sống mà hơn
hết là quyền được “làm người”, một con người thực sự đúng nghĩa của nó. Từ khi
ra đời cho đến nay chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn ở đây khu biệt trong
giai đoạn 1930-1945 đã trải qua những bước thăng trầm của lịch sử và gặt hái được
nhiều thành công với những tên tuổi tiêu biểu như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nguyễn Công Hoan, Nam Cao … của văn học hiện thực và Nguyễn Tuân , Lê Văn
Trương, Khái Hưng, Nhất Linh, Mạnh Phú Tứ của văn học lãng mạn.
Khi tiến hành nghiên cứu và so sánh yếu tố không gian của chủ nghĩa hiện
thực và chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam cụ thể là giai đoạn 1930-1945
chúng tôi chỉ xin đưa ra những sự khác biệt cơ bản nhất của hai khuynh hướng văn
học này.Chủ nghĩa hiện thực, và chủ nghĩa lãng mạn là một trong những phương
pháp sáng tác được đánh giá cao trong sáng tác văn chương. Chủ nghĩa hiện thực
không mang màu sắc lãng mạn, huyền ảo với những gam màu tình yêu cháy bỏng
như chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực đi sâu vào khai thác hiện thực cuộc
sống với bao ngổn ngang hỗn tạp. Nếu chủ nghĩa lãng mạn giương cao ngọn cờ
giành lấy tự do yêu đương thì chủ nghĩa hiện thực lúc nào cũng đấu tranh cho
quyền sống con người. Quyền sống đó không chỉ đơn giản là quyền được yêu,
được sống mà hơn hết là quyền được “làm người”, một con người thực sự đúng
nghĩa của nó. Từ khi ra đời cho đến nay chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng
mạn ở đây khu biệt trong giai đoạn 1930-1945 đã trải qua những bước thăng trầm
của lịch sử và gặt hái được nhiều thành công với những tên tuổi tiêu biểu như Ngô
Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao … của văn học hiện thực
và Nguyễn Tuân , Lê Văn Trương, Khái Hưng, Nhất Linh, Mạnh Phú Tứ của văn
học lãng mạn.
Khi tiến hành nghiên cứu và so sánh yếu tố không gian của chủ nghĩa hiện thực
và chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam cụ thể là giai đoạn 1930-1945 chúng tôi chỉ xin

đưa ra những sự khác biệt cơ bản nhất của hai khuynh hướng văn học này. Không gian nghệ

thuật thống nhất nhưng không đồng nhất với không gian khách thể. Bản thân
không gian vật chất tồn tại khách quan, nghĩa là sự tồn tại của nó không phụ thuộc
vào ý thức của con người, mà không gian vật chất chỉ trở thành không gian nghệ
thuật khi được tác giả cảm nhận về nó và qua đó thể hiện cách cảm cách nghĩ của
nhà văn về thế giới, là một quan niệm nhân sinh, một thái độ sống trước cuộc đời.
Tiến hành nghiên cứu và so sánh yếu tố không gian của chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam cụ thể là giai đoạn 1930-1945 chúng tôi
chỉ xin đưa ra vài khác biệt căn bản nhất như sau:
Thứ nhất, không gian trong các sáng tác của chủ nghiã hiện thực xin gọi tắt
là không gian hiện thực vừa bao quát rộng lớn từ thành thị đến nông thôn vừa cụ
thể ở từng phạm vi như là làng quê hoặc thành thị và lột tả được không gian quê
hương Việt Nam. Chẳng hạn, không gian trong các sáng tác của Nam Cao hầu hết
là vùng nông thôn, những căn nhà nơi thôn dã, những con đường làng. Trong
những mối liên hệ của thời gian và không gian, làng quê, ngôi nhà, con đường hóa
ra là cơ bản và quan trọng nhất. Tất cả những mối quan hệ còn lại, hoặc là bị chúng
cuốn hút, hoặc là trở thành thứ yếu trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.Qua tác
phẩm ta thấy được những không gian rộn lớn của quê hương Việt Nam đồng thời
cũng thấy được những phạm vi không gian rất cụ thể. Trong tác phẩm " Chí Phèo",
chúng ta thấy có không gian làng Vũ Đại: một không gian rộng lớn, bao trùm toàn
bộ tác phẩm. Nếu như không gian thành thị bó thít con người, dồn nén họ trong cái
ngột ngạt, trong những bi kịch đau đớn thì không gian nông thôn lại nhấn chìm con
con người trong sự đơn điệu, lãng quên. Làng Vũ Đại- một cái làng đầu tỉnh cuối
huyện, vừa hẻo lánh vừa xơ xác, một mảnh đất “quần ngư tranh thực”. Khác với
làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống thúc sưu [“Tắt đèn”- Ngô Tất Tố],
làng Vũ Đại mang cái vẻ vắng lặng, hoang vu của một vùng quê xơ xác, chất chứa
nhiều bất hạnh và đắng cay.Trong cái không gian tù hãm bị vây bọc bởi những lũy
tre xanh, biết bao số phận đã bị vùi dập. Đó là không gian đóng kín, chật hẹp với
những luật lệ, hủ tục khắt khe đã vùi dập và tước đoạt đi quyền làm người của một
con người – Chí Phèo.

Không gian làng Vũ Đại- thể hiện một cách nhìn mới mẻ và sâu sắc của nhà
văn trước thực trạng làng xã nông thôn Việt Nam trước năm 1945.
Chí Phèo lớn lên ở làng Vũ Đại, cũng từ đó mà vào tù, đến khi ra tù cũng trở về
làng Vũ Đại. Đây không phải là một sự sắp xếp vô ý, ngẫu nhiên mà là một dụng
ý nghệ thuật đầy ý nghĩa của tác giả.Trong tiềm thức, chí Phèo vẫn biết rằng làng
Vũ Đại là một ngôi làng đầy những mưu toan, bức thế nhưng hắn vẫn trở về. Phải
chăng hắn trở về là để tìm lại những gì hắn đã làm mất, hay nói đúng hơn là hắn
muốn

lấy

lại

những

thứ



người

ta

cướp

đi

của

hắn.

Không gian làng Vũ Đại- nơi ngự trị của những bè cánh, âm mưu toan tính bóc
lột dân nghèo của bọn cường hào ác bá, nơi “xa phủ, xa tỉnh”, nơi con người lao
động bị bóc lột cùng kiệt đến độ phải bỏ làng mà đi hoặc “è cổ nuôi bọn lý hào”.
Nơi ấy nhan nhản những bộ mặt hiểm ác như Bá Kiến, Đội Tảo, Tư Đạm, Bát
Tùng... kẻ nào cũng đã từng đục khoét, ức hiếp dân nghèo. Không gian làng Vũ
Đại ngày ấy, từ lúc Chí Phèo đi tù về, lúc nào cũng vang lên tiếng chửi rủa, diễn ra
những cảnh gây gổ, rạch mặt ăn vạ... Cả làng ngập ngụa trong bóng tối của những
âm mưu, mòn mỏi trong đói nghèo và những định kiến, hắt hủi, ghẻ lạnh, khinh bỉ.
Chí Phèo đi tù về, những tưởng sẽ có bàn tay thân thiện của ai đó chìa ra để làm
ấm lại cuộc đời bất hạnh. Nhưng không. Đã quá quen với những số
phận của Năm Thọ, Binh Chức cho nên Chí Phèo đã dần trượt dài, không thể cứu
được nữa.
Thứ hai, không gian hiện thực gần với cuộc sống của người lao động, chân
thực và gần gũi. Chúng ta thấy không gian trong tác phẩm " Tắt đèn" của Ngô Tất
Tố là không gian của xã hội Việt Nam với không khí căng thẳng, ngột ngạt của
làng Đông Xá trong những ngày sưu thuế như bị phong tỏa, bị đặt trong tình trạng
“báo động phơi bày đến tận cùng bản chất bóc lột xấu xa, bẩn thỉu của chế độ thực
dân nửa phong kiến Việt Nam. "Tắt đèn" từ từ mở ra tấn bi kịch căng thẳng, ngột
ngạt ngay từ phút đầu: nông thôn trong những ngày đóng thuế.
Trong "Tắt đèn", không gian rất hẹp. Một sự dồn nén cao độ về không gian
và thời gian; các biến cố, sự kiện bị dồn nén , hết sức căng thẳng. Nếu không kể
những trang cuối cùng chị Dậu lên tỉnh ở vú thì toàn bộ biến cố, sự kiện của tiểu
thuyết "Tắt đèn" chỉ diễn ra trong bốn ngày, bốn đêm trong bốn không gian nhỏ bé.

Chỉ trong mấy ngày mà liên tiếp xảy ra biết bao sự kiện, biến cố, tạo nên một nhịp
điệu trần thuật nhanh, gấp gáp. Đúng là nhịp điệu căng thẳng dồn dập của nông
dân trong mùa sưu thuế. Trong không gian và thời gian nghệ thuật được dồn nén
cao độ này, Ngô Tất Tố đã tập trung phản ánh sâu sắc mâu thuẫn, xung đột gay gắt
trong lòng nông thôn Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám. Có thể xem làng
Đông Xá trong mùa sưu thuế là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn lúc bấy giờ và tình
cảnh của Chị Dậu là tình cảnh chung của người nông dân cùng khổ trong xã hội cũ.
Thứ ba, không gian hiện thực không được tô vẽ mà hiện lên qua bút pháp
chân thực và có tính chất điển hình. Trong văn học hiện thực phê phán nổi bật lên
không gian điển hình là không gian tù túng, quẩn quanh dồn ép con người, không
gian của những người bần cùng, của những người dưới đáy vô vọng. Không
gian riêng tư cá nhân – không gian điểm còn được miêu tả rất đậm nét trong nhiều
tác phẩm. Trong nhiều tác phẩm của dòng văn học này nổi bật lên sự đối lập một
cách gay gắt giữa không gian với con người, tạo nên một kiểu không gian cô đặc
lại, bủa vây con người. Văn học hiện thực phê phán còn có xu hướng viết về không
gian mở [Vỡ đê, Người tù được tha]. Đặc điểm nổi bật ở văn xuôi hiện thực phê
phán là khi nhân vật điển hình ở trong hoàn cảnh hẹp thì tính cách thường sinh
động, nếu tách nhân vật ra khỏi hoàn cảnh hẹp, nhân vật không sinh động nữa. Sự
biến đổi của không gian làm cho nhân vật của văn học hiện thực phê phán bị hẫng
hụt, biến đổi, dễ trôi theo dòng nước cuốn [Chí Phèo, Tám Bính, Thị Mịch]. Còn
không gian lãng mạn thì lại khác.
Thứ nhất không gian lãng mạn tuân thủ nguyên tắc nhìn qua lăng kính chủ
quan của nhà văn. Dường như đó là không gian không phải nó như thế mà nhà văn
muốn nó như vậy. Một không gian lí tưởng, được thi vị hóa qua đó làm nổi bật lên
hình tượng nhân vật trong tác phẩm. Không gian nghệ thuật của "Chữ người tử tù"
chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung
cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm
thầm, u ám. Mẩu đối thoại ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản
ngục và thầy thơ lại như khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm
trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không
gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh

mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa
bóng tối mịt mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó
có một "ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so
với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân
đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn
cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh
mẽ như niềm tin của con người vào cái thiện, cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp,
là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một
nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có
nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối.
Thứ hai, không gian lãng mạn chủ yếu gắn với cuộc sống của những giai cấp
bên trên như tư sản, tiểu tư sản. Trong thế giới tăm tối ấy, trong không gian nhà tù
chật chội ấy nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao - người anh hùng với thiên
lương trong sáng, và nhân vật viên quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới
riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống
thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ
hồ huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây
trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của một con người cô đơn, "tóc
đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu", "đang băn khoăn ngồi bóp thái dương". Tuy
vậy, ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm
trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ. Nguyễn
Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống
truyện. Nỗi băn khoăn dẫn đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được
đặt trong một không gian nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy
trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng
chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến
thắng, dẫn đến một thái độ ứng xử đẹp của kẻ tử tù ở cuối thiên truyện.
Thứ ba, không gian lãng mạn thường đẹp đẽ, được thi vị lý tưởng hóa, kể cả
nông thôn thành thị cũng yên ả thanh bình thơ mộng. Lật nhiều trang sách, đọc
nhiều bài thơ lãng mạn, người ta thấy trong cuộc đời hình như không có nỗi đau
khổ nào đáng sợ bằng nỗi đau của tình yêu bị ngăn cấm hay bị phụ bạc. Từ trên

rừng xuống biển, văn học lãng mạn không cho người ta nhìn thấy những cảnh chen
chúc vật lộn để kiếm sống, để sống của con người, mà đâu đâu cũng chỉ là một sự
hài hòa đẹp đẽ của thiên nhiên từ cảnh rừng già với "giọng nguồn hét núi" đến
cảnh "trăng lên thơ" trên biển Đồ Sơn, những lũy tre xanh êm đềm rủ bóng những
sườn đồi chênh vênh, nhưng hang sâu động thẳm thường làm cái nền cho những
cuộc tình éo le và cảm động. Cái chất thi vị hóa đời sống ấy phổ biến trong tác
phẩm lãng mạn đến nỗi nhà văn hiện thực Nam Cao từng phải kêu lên: "Nghệ thuật
không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối"….
Tóm lại, thời gian, không gian nghệ thuật là những phạm trù quan trọng của
thi pháp học, là phương tiện chiếm lĩnh đời sống, là mô hình nghệ thuật về cuộc
sống, có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính cách nhân vật, tư tưởng chủ đề
của tác phẩm. Không gian nghệ thuật dù là ở chủ nghĩa hiện thực hay chủ nghiã
lãng mạn cũng đều góp phần thể hiện quan điểm nghệ thuật của mỗi nhà văn trong
sáng tác văn chương.

4. Ngôn ngữ, giọng điệu
Giọng điệu là phương thức biểu đạt bằng cách xưng hô, gọi tên sự vật, hệ
thống từ vựng và cảm hứng chủ đạo của tác giả nhằm biểu đạt tình cảm thành kính,
thân mật, hay xa lạ, khinh bỉ, châm biếm, giễu nhại. Giọng điệu trong văn bản thể
hiện giọng điệu riêng mang thái độ, tình cảm đánh giá của tác giả. Trong truyện,
giọng điệu phức tạp hơn, thể hiện ở giọng người kể mà người kể ấy là nhân vật
[xưng tôi] hay người kể vô hình, nhưng cũng thể hiện kín đáo cái tôi thứ hai của
tác giả.
Trong các tác phẩm của văn học hiện thực, nhà văn thường thể hiện giọng
điệu khách quan, trung tính [đây cũng là những yếu tố đặc thù của chủ nghĩa hiện
thực] điều đó cũng có nghĩa là nhà văn giữ khoảng cách trong việc thể hiện tình
cảm của mình với nhân vật. Giọng điệu có khi là dửng dưng, lạnh lùng thông qua
cách tác giả gọi nhân vật là “y”, “thị”, “hắn”…nhưng đằng sau vỏ bọc tưởng như
tàn nhẫn ấy, tình cảm mà nhà văn dành cho nhân vật vẫn thiết tha, sâu sắc. Tất cả
những điều này có thể thấy rất rõ qua các sáng tác của nhà văn Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao, Nguyễn Công Hoan … họ là những cây bút tiêu biểu của văn học hiện

Tải về bản full

Chuyên Đề: Đặc trưng của Chủ nghĩa lãng mạn qua một số truyện ngắn lãng mạn lớp 11

Đọc bài Lưu

Sự khác biệt chính - Chủ nghĩa hiện thực vs Chủ nghĩa tự nhiên

Trong khi Chủ nghĩa Hiện thực và Chủ nghĩa Tự nhiên là hai phong trào văn học riêng biệt, chúng được liên kết chặt chẽ và đôi khi được sử dụng thay thế cho nhau. Điều này là do cả hai phong trào miêu tả cuộc sống như nó là. Những phong trào này mô tả các hoạt động và kinh nghiệm hàng ngày đáng tin cậy, tự nhiên hoặc thực tế. Tuy nhiên, tồn tại một sự khác biệt đáng kể giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên. Chủ nghĩa hiện thực tìm cách đại diện cho cuộc sống thực trong khi chủ nghĩa tự nhiên tìm cách đại diện cho cuộc sống theo cách khoa học hơn, gần như lâm sàng hơn chủ nghĩa hiện thực. Đây là sự khác biệt chính giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên.

Chủ nghĩa hiện thực là gì

Chủ nghĩa hiện thực là một phong trào văn học bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX ở Pháp và lan rộng khắp châu Âu. Phong trào này có thể được định nghĩa là một phản ứng chống lại chủ nghĩa lãng mạn. Văn học hiện thực miêu tả những người bình thường trong các tình huống hàng ngày. Họ mô tả các sự kiện có thể xảy ra với bất cứ ai trong cuộc sống thực. Chủ nghĩa hiện thực miêu tả cuộc sống như nó vốn có, mà không lý tưởng hóa, tâng bốc hay lãng mạn hóa.

Trước chủ nghĩa hiện thực, văn học có xu hướng tập trung vào các quý tộc, hoàng gia và thần linh ít liên quan đến tầng lớp trung lưu. Nhưng phong trào Chủ nghĩa hiện thực đã phá vỡ quy ước này bằng cách miêu tả các nhân vật thuộc về tầng lớp lao động. Không có anh hùng vĩ đại; các nhân vật chính là những nhân vật bình thường mà khán giả có thể nhận ra.

Văn học hiện thực cũng rất chú trọng đến chi tiết; điều này là cần thiết để tạo ra một cảm giác và hiệu quả thực tế. Ngôn ngữ được sử dụng trong văn học trong thời kỳ này cũng bình thường, không giống như trong thời kỳ Lãng mạn. Ngôn ngữ và tiếng địa phương thông thường đã được sử dụng để làm cho các văn bản trở nên đáng tin cậy và thực tế hơn. Flaubert's Madame Bovary, Ibsen's Doll's, Tolstoy xông War, Hòa bình, kỳ vọng lớn của Dickens , và Thomas Hardy, Jude the Obscure là một số ví dụ về văn học hiện thực.

Henrik Ibsen

Video liên quan

Chủ Đề