Cách bình trang in offset
Bạn hãy dành 1 phút để xem các công cụ tính giá in offset mà nhóm đã tạo, miễn phí cho tất cả . Mời bạn xem tiếp In offset là kỹ thuật in được sử dụng nhiều nhất hiện nay vì tính ổn định và chất lượng cao có thể cho ra những sản phẩm in rất đẹp với số lượng cực lớn. Sau đây là những công đoạn của In offset: Đầu tiên phải tạo ra một file thiết kế hoàn chỉnh. Ví dụ như bạn muốn in một poster quảng cáo về bán điện thoại trên giấy khổ A4 thì trước hết phải chuẩn bị các tư liệu liên quan tới nó như hình ảnh, nội dung, thông tin liên hệ, … rồi sắp xếp bố cục sao cho hài hòa bằng những phần mềm thiết kế trên máy tính như Adobe Illustrators hoặc Photoshop, Corel, … Công việc này đòi hỏi ở thiết kế viên sự sáng tạo và kinh nghiệm, bởi nó sẽ ảnh hưởng rất lớn tới hình ảnh sản phẩm sau này. Sau khi chế bản sẽ đến giai đoạn xuất phim, đối với những ấn phẩm có hình ảnh nhiều màu, film in sẽ được xuất thành 4 tấm đại diện cho 4 màu C(Cyan), M(Magenta), Y(Yellow), K(Black). Hệ màu dùng trong in offset được gọi là CMYK, tất cả các màu đều có thể pha chế từ 4 màu cơ bản này. Tiếp tục là công đoạn phơi kẽm, 4 tấm phim sẽ được phơi từng tấm lên bản kẽm hay có thể hiểu là một cách chụp hình ảnh của những tấm phim lên bản kẽm bằng máy phơi kẽm. Cuối cùng sẽ được 4 tấm kẽm có in hệ màu CMYK. Phân đoạn quan trọng nhất, người ta sẽ tiến hành in từng màu một, trước sau không quan trọng tùy thuộc vào thợ in, ví dụ như lần đầu in bản kẽm màu Y(Yellow), thợ in sẽ lấy bản kẽm Y lắp vào lô máy in, sau đó sẽ lấy màu Yellow tương ứng cho vào in, lô có gắn bản kẽm sẽ quay và in màu lên trên giấy, sau khi chạy xong hết số lượng, thợ in sẽ tháo kẽm, vệ sinh lô, mực cho sạch sẽ và tiếp tục in với bản kẽm khác cho đến khi hết cả bốn màu và cho ra sản phẩm cuối cùng, gọi là in chồng màu. Thợ in sẽ phải chạy thử khoảng 50 bản cho thật sự ổn định ở mỗi lần in, 4 lần sẽ là 200 bản in thử, vì thế sẽ phải tính dư giấy ra khoảng 200 tờ gọi là bù hao. . Là công đoạn cuối cùng trong quy trình in offset, gồm nhiều khâu tùy thuộc vào yêu cầu của sản phẩm:
Là một người thiết kế in ấn, bạn cần phải có những hiểu biết nhất định về in các kỹ thuật in ấn nhằm có thể xử lý được những tình huống lỗi ngoài ý muốn, hạn chế đầy rẫy các rủi ro và tiết kiệm được nhiều thời gian hơn trong công việc của mình.
– Lên kế hoạch: Cần phải lên kế hoạch công việc của bạn. Đừng quên rằng việc xuất phim (hoặc ghi bản), phơi bản, in và thành phẩm sẽ mất rất nhiều thời gian. Nếu bạn thực hiện không đúng kế hoạch điều đó không có nghĩa là nhà in phải tăng tốc để kịp tiến độ cho bạn. Các máy in đều làm việc với một lịch dày đặc, các tờ in phải có thời gian để khô và nếu chế bản gặp sự cố, nó phải mất rất nhiều thời gian để mọi việc trở lại trật tự. – Kiểm tra lỗi: thông thường khách hàng sẽ kiểm tra bản in thử mà bạn in ra, nhưng thường họ chỉ đọc lướt qua nên có thể sẽ bỏ sót lỗi. Tốt nhất bạn phải là người tự kiểm tra lỗi cho tất cả các tài liệu của mình. – Trapping: trapping là kỹ thuật dùng để giảm thiểu sai số chồng màu trong quá trình in. Hoặc là bạn sẽ tự làm điều này và thông tin cho nhà in biết, hoặc là bạn để cho họ thực hiện việc trapping. Trapping vừa là kỹ năng vừa là nghệ thuật. Đừng đánh giá thấp công việc này, đôi khi nó sẽ làm cho bạn phải trả giá. – Phần mềm (Software): nên sử dụng những phần mềm ứng dụng quen thuộc của nhà in như: PageMaker, QuarkXpress, Illustrator, Freehand, CorelDraw, Photo-shop, Indesign. Nên thảo luận trước với nhà in nếu bạn có sử dụng những phần mềm ứng dụng khác. Mặt khác hãy nên sử dụng các phần mềm ứng dụng cho đúng tác vụ, chẳng hạn như sử dụng PageMaker hoặc QuarkX-press cho công việc dàn trang. Illustrator, Freehand, CorelDraw phù hợp cho các công việc vẽ các đối tượng đồ họa hoặc thiết kế những trang đơn. Còn về công việc xử lý ảnh, Photoshop là phần mềm thích hợp nhất. – Đặt tên file: tài liệu của bạn có thể được xử lý trong các chương trình ứng dụng khác nhau chạy trên những hệ điều hành khác nhau để bình bản, xuất ra phim hay ra bản. Mỗi hệ điều hành hoặc chương trình ứng dụng có những quy luật riêng của nó gắn liền với tên file. Để tránh những vấn đề khó khăn cần phải đổi tên file hoặc không thể đọc được, không nên đặt tên file dài quá 25 ký tự, sử dụng dấu gạch dưới thay vì dùng khoảng trắng nếu bạn muốn phân tách các từ trong tên file. Đừng bao giờ bắt đầu hoặc kết thúc tên file với khoảng trắng, dấu / hoặc hoặc dấu : trong tên file. Tránh việc dung nhiều hơn một dấu chấm (.) trong tên file. CÁC LƯU Ý KHI THIẾT LẬP THUỘC TÍNH TÀI LIỆU – Kích thước trang (khổ thành phẩm): phải kiểm tra chắc chắn rằng bạn đang thiết lập chính xác kích thước trang tài liệu (khổ thành phẩm) theo yêu cầu của khách hang và cũng đã thiết lập khoảng cắt xén cho các trang tài liệu, đừng tùy tiện mà nên thiết lập một trị số thống nhất ví dụ như 5mm chẳng hạn. – Font true type của Corel Draw: tránh sử dụng font true type của các phiên bản Corel cũ (ví dụ 3.0 chẳng hạn). Một vài font của chúng đã bị hư, một số khác trông rất xấu ở co chữ lớn. – Vấn đề về việc chọn font trên thanh thuộc tính font (type style menu): nếu bạn sử dụng máy Macintosh, đừng chọn font theo cách này mà nên chọn theo tên của nó. Ví dụ để chọn font helveltica đậm, bạn chọn font có tên ‘helveltica bold’ chứ đừng chọn font ‘helveltica’ rồi chọn thuộc tính bold. Một vài chương trình ứng dụng không hiển thị tên của tất cả các font, trong trường hợp đó, bạn có thể sử dụng cách thiết lập thuộc tính nếu bạn chắc chắn rằng font đó có tồn tại. Việc chọn một thuộc tính font không tồn tại có thể gây rắc rối cho bạn khi bạn nhận được font trên ấn phẩm in không hoàn toàn giống với ý bạn muốn (ví dụ bạn chọn thuộc tính bold (đậm) nhưng bạn có thể nhận được thuộc tính italic (nghiêng) chẳng hạn nếu thuộc tính bold bạn chọn không có trong font chữ). – Font outline: tránh sử dụng các thuộc tính outline từ QuarkXpress và các chương trình ứng dụng khác. Chúng trông rất đẹp trên màn hình, nhưng thỉnh thoảng lại xuất ra không đúng như thế. – Nên tránh chuyển văn bản từ hệ điều hành này sang hệ điều hành khác nếu thật sự không cần thiết (ví dụ từ Mac sang PC hay ngược lại), điều này có thể gây một số khó khăn và một vài thay đổi, thậm chí với các font có cùng tên. – Thiết lập màu sắc cho văn bản: đừng thiết lập màu sắc cho các văn bản có co chữ quá nhỏ (nhỏ hơn co 8pt) nhiều hơn hai màu để tránh vấn đề khó khăn khi in chồng màu các đối tượng quá nhỏ. KHUNG, NỀN VÀ ĐƯỜNG KẺ – Hairline: một vài chương trình ứng dụng có thể thiết lập bề dày của đường là “hairline”. Đừng bao giờ sử dụng trị số này mà nên luôn luôn thiết lập một trị số xác định cho bề dày của đường, ví dụ như 0,25 pt chẳng hạn. Trị số hairline có nghĩa là đường kẻ sẽ được thiết lập một bề dày nhỏ nhất mà thiết bị có thể “vẽ” được. Đối với máy in laser với độ phân giải 300 dpi hoặc 600 dpi thì không có vấn đề gì, nhưng đối với một thiết bị ghi với độ phân giải 2400 dpi thì đường kẻ này sẽ mảnh đến mức mà mắt người khó lòng có thể trông thấy được. Độ dày mảnh nhất của đường kẻ mà bạn có thể dùng tùy thuộc vào máy in, loại giấy in…, tuy nhiên nói chung, bạn không nên thiết lập bề dày một đường kẻ mảnh hơn 0,2 pt. – Tổng lượng mực: tùy thuộc vào loại giấy in, kiểu xử lý in và máy in để xác định tổng lượng mực là số lượng mực tối đa mà đối tượng trên giấy có thể chứa được. Ví dụ nếu có tổng lượng mực là 280, bạn có thể có một đối tượng trên trang chứa 70% cyan, magenta, yellow và black, nhưng một sự pha trộn 100% cyan, 100% magenta, 70% yellow và 70% black sẽ có tổng lượng mực 340 là quá nhiều và có thể gây bóng mặt sau. – Tông nguyên (solid color): để tránh khó khăn khi in các vùng nền màu tông nguyên không nên tạo chúng có kích thước quá lớn, ngoại trừ trường hợp cần thiết. – Tô màu cho đường kẻ mảnh: đừng tô màu cho đường kẻ mảnh từ hai màu trở lên. HÌNH ẢNH LINE-ART TRONG IN OFFSET – Định dạng file: nên lưu hình ảnh với định dạng TIFF hoặc EPS. Không nên sử dụng các định dạng PICT, GIF hay BMP. – Xoay đối tượng: không nên xoay một hình ảnh đồ họa trong chương trình dàn trang nếu bạn vẫn còn sử dụng RIP Postscript cấp độ 1 (Postscript level 1). Điều này sẽ làm giảm tốc độ rip rất nhiều. – Độ phân giải: hãy chắc chắn rằng hình ảnh có kích thước và độ phân giải đúng khi quét. Một hình ảnh đồ họa (Line-art) phải có độ phân giải từ 800 đến 1.200 dpi, vì vậy nếu bạn quét một cái logo và muốn phóng lớn nó trong chương trình dàn trang với độ thu phóng là 300% thì bạn phải quét nó với độ phân giải từ 2.400 đến 3.600 dpi. – Kích thước: đừng bao giờ thu phóng hình ảnh lớn hơn 20% trong chương trình dàn trang, điều này sẽ làm giảm độ phân giải của hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang (staircasing). HÌNH ẢNH ĐEN TRẮNG (GRAYSCALE IMAGES) – Định dạng file: nên lưu hình ảnh với định dạng TIFF hoặc EPS. Không nên sử dụng các định dạng PICT, GIF hay BMP. – Điểm sáng và điểm tối: điểm sáng nhất trong hình ảnh đen trắng không nên là điểm 0% mà có ít nhất 2% tram. Ngược lại điểm tối nhất không nên là điểm 100%. Cho tần số tram 133 hoặc 150 lpi, điểm tối thường thiết lập 95% tram. Cho in báo, điểm sáng có 5% tram và điểm tối có 80% tram thường được sử dụng nhất. – QuarkXpress và TIFF: khi đặt các hình ảnh TIFF trong QuarkXpress, hãy chắc chắn rằng không có màu nền trong picture box được thiết lập là “None” để tránh việc tạo các rìa bậc thang (staircasing còn gọi là jaggies) ở vùng biên của hình ảnh. – Độ phân giải: hãy chắc chắn rằng hình ảnh có kích thước và độ phân giải đúng khi quét. Độ phân giải của hình ảnh thông thường = tần số tram x độ thu phóng x 2. Số “2” là trị số chất lượng, sẽ có trị số biến thiên từ 1,6 đến 2,5 tùy thuộc vào chất lượng mong muốn và tùy theo chủ đề của hình ảnh. – Kích thước: đừng bao giờ thu phóng hình ảnh lớn hơn 20% trong chương trình dàn trang. – Việc đánh số trang: nên tuân theo quy luật: trang lẻ ở bên phải, trang chẳn ở bên trái. – Chú ý khi thiết kế các tờ gấp: lưu ý rằng trong tờ gấp không phải tất cả các trang đều có kích thước bằng nhau. Các trang được gấp vào bên trong thường sẽ có kích thước nhỏ hơn các trang bìa khoảng 2mm để tránh bị cộm cấn khi gấp. – Dot gain (hiện tượng tăng tầng thứ trong quá trình in): Các máy ghi thông thường sẽ được canh chỉnh (calibrate) và thiết lập tầng thứ theo dạng tuyến tính. Điều đó có nghĩa là nếu bạn tô một màu nền với 50% tram, bạn sẽ nhận được đúng 50% tram trên phim hoặc trên bản. Tuy nhiên trong quá trình in thì không được như vậy mà dưới áp lực in, sự hấp thụ mực của giấy và một vài hiệu ứng quang học khác, vùng tram 50% mà bạn thiết lập có thể sẽ là 70% trên tờ in. Người ta gọi đó là hiện tượng tăng tầng thứ trong quá trình in (dotgain). Phần trăm thực sự của dot gain tùy thuộc vào giấy in, tốc độ máy in, tần số tram, kiểu máy in, chất lượng cao su, người vận hành và một số thông số khác. Nói chung trong in offset trên máy in phẳng, trị số dot gain thường là vào khoảng từ 10 đến 16%. Cho in báo, dot gain có thể lên đến 30%. Hầu hết các phần mềm máy quét đều có tính toán bù trừ cho hiện tượng dot gain, tuy nhiên trong khi thiết kế bạn cũng nên tính đến điều này, nhất là khi thiết lập các nền màu trong các ấn phẩm của mình và đặc biệt khi chúng được in trên nhiều loại giấy và máy in khác nhau. VỀ MÀU SẮC – Tài liệu 2 màu: nếu bạn sử dụng duotone trong một tài liệu 2 màu, góc xoay tram của màu thứ hai nên khác với màu thứ nhất. Nhiều chương trình ứng dụng như QuarXpress chẳng hạn, mặc định sử dụng góc xoay tram màu đen cho các màu spot nhưng gần như các tài liệu 2 màu là sự pha trộn giữa màu đen và một màu spot nào đó. – Màu spot (màu pha riêng): nên sử dụng các màu Pan tone “tiêu chuẩn”. Sử dụng màu các màu này sẽ rẻ hơn nhiều so với việc sử dụng một màu đặc biệt mà chúng ta phải đặt hàng riêng – Màu spot trong tài liệu CMYK: nếu bạn sử dụng một số màu spot trong một tài liệu sẽ được in với 4 màu cơ bản CMYK, bạn nên nhớ đánh dấu là màu process cho các màu này. Khi in, bạn cũng có thể kiểm tra việc này đã được thực hiện chưa bằng cách chọn chức năng ‘Separation’ trong hộp thoại in và xem có bao nhiêu bản sẽ được in, nếu có màu spot chưa được chọn chế độ process, màu đó sẽ hiển thị lên hộp thoại. – Màu Red, Green, Blue trong XPress: đừng bao giờ sử dụng các màu Red, Green, Blue trong QuarkXpress vì đó là các màu trong hệ màu RGB. – Màu trong chế độ overprint: trong hầu hết các trường hợp, văn bản, đường kẻ và nền màu đen đều được in chồng (overprint) lên màu nền. Tuy nhiên có một số trường hợp tính chất này không có (thường xảy ra ở các phần mềm đồ họa), do đó bạn nên kiểm tra tính chất này trước khi xuất file, nếu không bạn sẽ bị lé trắng – Rich black (màu đen ngoài 100% đen còn có them thành phần một số màu khác như màu Cyan, Magenta): cho các đối tượng màu đen nhỏ, có một phần nằm trên một nền màu sáng, phần kia nằm trên một nền màu tối hơn, thì cách tốt nhất là bạn nên sử dụng màu rich black để tránh sự khác nhau giữa hai vùng màu như hình bên dưới. Thông thường chúng ta sẽ thêm khoảng 40% màu cyan hoặc magenta vào 100% màu đen. – Thiết lập chế độ móc trắng (knock-out) cho màu trắng: QuarkXpress có một thói quen khá phiền nhiễu là thường “quên” bỏ chế độ overprint khi văn bản màu đen chuyển sang một màu khác, do đó cần kiểm tra xem văn bản màu trắng có ở chế độ knock-out không. – Chú ý khi đặt tên màu: khi đặt tên màu, chú ý chỉ nên sử dụng trong 27 ký tự tiêu chuẩn trong bảng chữ cái, và các ký tự số từ 0 đến 9. Nên sử dụng dấu gạch dưới thay vì khoảng trắng nếu muốn ngăn cách các từ. Sử dụng dấu ngoặc bất kỳ loại nào đều gây vấn đề lỗi postscript khi ripping. VỀ VĂN BẢN VÀ FONT CHỮ – Kiểu font: nên sử dụng font postscript type 1. Font true type có thể trông đẹp hơn nhưng chúng có thể gây khó khăn một chút trong quá trình xuất. Tránh sử dụng font Multi Master hay font postscript type 3 cũ, chúng có thể gây một số vấn đề trong nhiều chu trình giảm độ phân giải của hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang (staircasing). Giảm kích thước hình ảnh quá nhiều cũng sẽ dẫn đến việc mất độ sắc nét và độ tương phản. HÌNH ẢNH MÀU (COLOR IMAGES) – Định dạng file: nên lưu hình ảnh với định dạng TIFF, EPS hoặc DCS. Không nên sử dụng các định dạng PICT, WMF hay BMP, các chương trình ứng dụng dàn trang có thể chấp nhận các định dạng file này, nhưng việc chuyển sang dữ liệu postscript trong quá trình in có thể không đảm bảo. – QuarkXpress và TIFF: khi đặt các hình ảnh TIFF trong QuarkXpress, hãy chắc chắn rằng không có màu nền trong picture box được thiết lập là “None” để tránh việc tạo các rìa bậc thang (staircasing còn gọi là jaggies) ở vùng biên của hình ảnh hoặc vùng trắng bên trong hình ảnh sẽ biến mất. – Độ phân giải: hãy chắc chắn rằng hình ảnh có kích thước và độ phân giải đúng khi quét. Độ phân giải của hình ảnh thông thường = tần số tram x độ thu phóng x 2. Số “2” là trị số chất lượng sẽ có trị số biến thiên từ 1,5 đến 2,5 tùy thuộc vào chất lượng mong muốn và tùy theo chủ đề của hình ảnh. – Kích thước: đừng bao giờ thu phóng hình ảnh lớn hơn 20% trong chương trình dàn trang, điều này sẽ làm giảm độ phân giải của hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang (staircasing). Giảm kích thước hình ảnh quá nhiều cũng sẽ dẫn đến việc mất độ sắc nét và độ tương phản. – Không gian màu: tất cả hình ảnh phải ở hệ màu CMYK. Bạn có thể gặp một số vấn đề khó khăn hoặc về chất lượng hình ảnh trong quá trình rip nếu hình ảnh ở hệ màu RGB hoặc Indexed. HÌNH ẢNH VẼ (HÌNH ĐỒ HỌA – DRAWINGS) – Định dạng file: nên lưu các hình đồ họa vẽ trong các chương trình đồ họa như Illustrator, Freehand hoặc CorelDraw dưới định dạng EPS nếu nó sẽ được đặt vào các phần mềm dàn trang như QuarkXpress hoặc PageMaker. Không nên lưu dưới định dạng PICT hoặc CDR. – Hiệu ứng lens và tiles trong CorelDraw: nên tránh sử dụng hiệu ứng lens trong CorelDraw. Chúng có thể làm cho file postscript khi in có kích thước rất lớn. Cách tốt nhất là nên chuyển các đối tượng có hiệu ứng lens sang bitmap, điều này sẽ làm cho quá trình ripping sẽ dễ dàng hơn. Không nên sử dụng hiệu ứng tiles cũng với lý do tương tự, nếu chúng không được chuyển thành bitmap, các đường trắng mảnh sẽ xuất hiện giữa các lớp tile. – Illustrator 7.0: nếu bạn vẫn còn sử dụng Illustrator 7.0 để tạo các ảnh vector, nên lưu chúng dưới định dạng Illustrator 6. Hoặc bạn có thể nâng cấp lên phiên bản 7.02 đã sửa lỗi. – EPS trong EPS: nên tránh việc đặt các file đồ họa EPS vào bên trong một file đồ họa EPS khác (EPS-nesting). Nên sử dụng lệnh “copy” và “paste” để cắt và dán một đối tượng đồ họa từ file EPS này sang file EPS khác. – Kích thước: nếu file đồ họa có chứa hình ảnh bitmap, bạn không nên thu phóng file EPS này nhiều hơn 20% trong chương trình dàn trang. Phóng lớn sẽ làm giảm độ phân giải của hình ảnh và dẫn đến một hiệu ứng gọi là hiệu ứng bậc thang (staircasing) và pixel hóa (pixelization). Giảm kích thước hình ảnh quá nhiều cũng sẽ dẫn đến việc mất độ sắc nét và độ tương phản. Đầu tiên, cần hiểu rõ bình trang là gì? Nhiều người nhầm với dàn trang – layout – là việc thiết kế từ nội dung & hình ảnh để ra được những trang sách, báo hoàn chỉnh. Còn bình trang, bình bản, bình … gì gì đó – imposition – là việc sắp xếp các trang trên một tờ in lớn để sau khi in ấn xong, ta sẽ gấp lại được theo đúng số thứ tự từng trang.
Việc thứ hai cần chuẩn bị là hiểu rõ sản phẩm mình sẽ làm như thế nào, in giấy gì, máy nào, thành phẩm kiểu nào,…? Nhiều câu hỏi rất ngây thơ “em cần bình catalog 16 trang khổ A4 đóng kim?” rồi nhờ chỉ giùm cách bình ra sao, thật sự hỏi kiểu này đố ai chỉ được . Trước khi bắt tay vào bình trang ít ra cần nắm rõ các thông tin sau: Việc cuối cùng: file và công cụ. Có 2 cách bình trang: Nếu là brochure, catalog, card visit, tờ rơi,… thông thường dùng cách 1. Nếu là sách, báo, tạp chí, nói chung là số trang nhiều thì nên dùng cách 2. Nếu dùng cách 2 thì yêu cầu bắt buộc là phải chuyển cách file thiết kế ra file PDF vì các phần mềm bình trang chỉ nhận đầu vào là file PDF. Những thông số cần chú ý: Trước khi bình trang, cần xác định sản phẩm sẽ được in trên máy in nào. Những thông số cần nắm bao gồm: khổ giấy in tối đa, tối thiểu, khoảng cách chừa nhíp, tay kê hông. Nếu không rõ có thể để chừa nhíp 1,2-1,5cm (một số máy chỉ cần chừa nhíp khoảng 8-10mm). Nếu là bình in trở nhíp bắt buộc phải chừa nhíp cho cả hai đầu. Tham khảo về nhíp & tay kê . Mẹo nhỏ: xác định khổ in lớn nhất dựa vào tên model máy: vd máy Komori Lithrone 40: khổ ngang tối đa = 40 x 2,54cm = 101,6cm, chiều còn lại lấy 101,6cm chia cho căn 2 = 71,8, như vậy máy Lithrone 40 in được tối đa khổ 72×102. Tuy nhiên an toàn & chính xác nhất vẫn là đi hỏi thợ in Ở Việt Nam, các máy in thường có các khổ thông dụng sau: Giấy in thường bán theo các khổ giấy cố định như 65×86, 79×109, 60x84cm, trong đó khổ 65×86 thường dùng in catalog, brochure vì 1 tờ bình vừa đủ 16 trang A4, khổ 79×109 thường dùng in folder (xả đôi thành khổ 54×79) hoặc bao thư (các khổ nhỏ 36×39, 26×36,…). Một số khổ khác ít xài hơn như 65×100, 72×102 (giấy mỹ thuật). Một số sản phẩm thông dụng cần nhớ: Một cuốn sách gồm nhiều trang, khi in các trang được chia nhóm và ghép + in lên một tờ in có kích thước lớn, sau khi in ta gấp tờ in theo một thứ tự nào đó thì sẽ được một tay sách. Nhiều tay sách ghép lại thành ruột sách. Để ghép các tay sách lại với nhau, ta có các kiểu như: – Đóng kẹp – perfect binding: các tay sách được xếp chồng lên nhau. Kiểu này dùng cho sản phẩm có số trang nhiều, thành phẩm theo cách may chỉ vào bìa (sách) hoặc phay gáy vào keo nóng (tạp chí, catalog, các loại sách có thời gian sử dụng ngắn) Như vậy, trước khi bắt tay vào bình trang, ta cần nắm sản phẩm sẽ dùng cách thành phẩm nào để đánh số trang cho đúng. Cách tốt nhất là tìm vài tờ giấy trắng, gấp thành từng tay sách, sau đó đánh số tất cả các trang theo thứ tự rồi bung ra, sẽ biết được trên từng tờ in các trang sẽ sắp xếp như thế nào. Tuy nhiên, đến bước này ta cần lưu ý thêm một điều quan trọng, đó là cách gấp tay sách như thế nào. Sau đây là ví dụ cách gấp một tay sách 16 trang: Việc xác định cách gấp rất quan trọng, đặc biệt nếu bạn dự định khi in xong sẽ gấp bằng máy, vì nhiều trường hợp khi in xong thì mang lên máy gấp không được. Do đó nếu không rõ phải đi hỏi người phụ trách việc thành phẩm.Một thông tin khác quan trọng không kém, đó là xác định một tay sách gồm bao nhiêu trang? 4, 8, 12, 16 hay 32 trang. Số trang nhiều hay ít tuỳ thuộc vào khổ thành phẩm và độ dày giấy. Nếu giấy dày thì chỉ có thể gấp 1 vạch (4 trang) hoặc 2 vạch vuông góc (8 trang), 2 vạch song song (6 trang),.. Cần lưu ý: số trang của 1 cuốn sách phải chia hết cho 4 (trừ trường hợp phay gáy vào keo thì có thể lẻ 2 trang. Số trang sách luôn được đánh theo nguyên tắc: trang chẵn nằm bên trái và trang lẻ nằm bên phải. Một sản phẩm in ra bao giờ cũng phải qua giai đoạn cắt xén ít nhất là một lần, vì vậy khi thiết kế và bình trang, người thiết kế phải chú ý đến việc chừa xén cho sản phẩm. Vậy khoảng chừa xén là gì và bao nhiêu là đủ? – Tai sao phải chừa xén bằng cách thiết kế phần hình ảnh dư ra ngoài như trên? Vì khi thành phẩm sẽ có sai số khi cắt xén, ta không thể nào cắt đúng y bon như thế này mà có thể sẽ cắt nhích ra phía ngoài như thế này Như vậy nguyên tắc khi thiết kế file là: Chừa xén bao nhiêu là đủ: khi thiết kế ta nên chừa từ từ 3-5mm mỗi bên, nhiều hơn cũng chả sao nếu như ta có ý định xuất file sang PDF và bình tự động bằng phần mềm. Ngược lại nếu chỉ bình trực tiếp trên Corel hay AI thì nên để chính xác ngay từ đầu. Xén một dao hay 2 dao? Khi bình các sản phẩm, ví dụ tờ rơi, nếu giữa 2 con là nền giấy trắng hoặc nền màu như nhau thì lúc này không cần chừa xén giữa 2 con, khi thành phẩm chỉ cần cắt 1 dao ở giữa. Ngược lại nếu là chi tiết hình ảnh từa lưa hết thì cần thiết phải chừa xén giữa 2 con, lúc này khi thành phẩm phải cắt 2 dao nên gọi là chừa xén 2 dao. Hình minh họa: 1. Xén 1 dao, 2. Xén 2 dao Đầu tiên trước khi bắt tay vào việc thiết kế 1 cái gì đó, phải xác định chính xác khổ ấn phẩm. Vd ta sẽ thiết kế một tờ rơi khổ A4 (210mm x 297mm). Vào File –> New hoặc nhấn Ctrl+N Thiết lập chính xác các giá trị chiều ngang, chiều cao. Phần bleed chính là khoảng chừa xén trên file, ta cứ cho nó là 5mm, nhiều hơn cũng chẳng sao. Đến đây chúng ta mới đi được 1/2 quãng đường. Phần tiếp theo khi đã thiết kế xong, chúng ta lưu file sang định dạng PDF và lúc này khi lưu file nhớ đánh dấu check vào mục Bleed như hình Như vậy file PDF của chúng ta đã có khỏang chừa xén theo đúng yêu cầu. Kiểm tra trong Acrobat với pluggin Quite Imposition Plus, ta sẽ thấy phần chừa xén trên file. Chú ý lúc này kích thước file PDF xuất ra sẽ là 220 x 307mm (do có chừa xén mỗi bên 5mm). InDesign là phần mềm dàn trang rất mạnh và linh hoạt, ở nước ngoài hay xài. Ở Việt Nam thì trước kia có Corel Ventura, PageMaker, sau này lại QuarkXPress nhưng dần dần sắp tới chắc còn mỗi InDesign. Để bắt đầu một tài liệu với InDesign đúng cách, khi mở hộp thoại New Document (Ctrl+N), ta bấm vào nút More Options và điền các khoảng chừa xén vào phần Bleed. Chú ý rằng nếu tài liệu của ta là dạng 2 mặt – trang đôi (Facing pages) thì các thông số chừa xén gồm: top (phía trên), bottom (phía dưới), inside (chừa phía gáy sách) và outside (chừa phía bụng sách). Nếu là trang đơn 1 mặt thì 2 thông số kia sẽ thành left và right. Sau khi tài liệu được tạo, ta thấy phần chừa xén sẽ được giới hạn bằng khung viền màu đỏ. Và khi Export ra file PDF để bình trang, ta cũng chú ý đánh dấu vào mục Bleeds MS Word là một phần mềm tuyệt vời, nên tôi và nhiều người vẫn dùng để dàn sách (nhất là các loại truyện, sách văn chương, tài liệu nghị quyết,.. thì Word là vô đối ). Tuy nhiên vài người lại gặp rắc rối khi chuyển từ Word ra file PDF để bình, nhiều người thường dùng cách in ra máy in Adobe PDF hoặc xưa hơn nữa là cài máy in Poscript, in ra file PDF sau đó lại dùng Distiller để cho ra file PDF. Làm chi mà mất công vậy, cách tốt nhất và nhanh nhất là cài Acrobat, sau đó khi làm file xong ta bấm vào nút Convert to Adobe PDF: Tuy nhiên trước đó nhớ chỉnh kích thước khổ thành phẩm cho đúng trong Page Setup Vì word là phần mềm soạn văn bản, nó chẳng cần biết chừa xén – bleed là gì nên ta cứ kệ bố nó, cũng chẳng cần thiết vì đâu có tràn hình tràn nền gì đâu, nếu cần ta sẽ set bleed sau trong Acrobat. Đối với mình, Corel Draw là một phần mềm củ chuối tuy nhiên cũng phải học sử dụng vì nhiều khách hàng vẫn thường xuyên gửi file Corel sang mình để in. Vì Corel sử dụng PDF engine riêng để xuất ra file PDF do đó nhiều người sử dụng Corel khi tập làm quen với việc xuất file PDF từ CR để mang đi in do không nắm rõ nên thường bị lỗi, đền hàng, và từ đo rất sợ dùng file PDF . Để xuất PDF từ Corel và có chừa tràn nền, ta cần set bleed trước bằng cách vào Layout –> Page Setup và nhập khoảng tràn nền vào phần bleed. Đánh dấu vào Show bleed area để thấy phần chừa xén trên file Phần chừa xén, nhớ thiết kế tràn ra phần này nhéKhi thiết kế xong, để xuất ra PDF, ta vào File –> Publish to PDF và chọn như sau Một số thao tác thông dụng trên file PDF: – Menu Header & Footer, Background và Watemark cho phép ta chèn thêm tiêu đề và hình nền cho file PDF. Hình nền có thể là 1 file PDF khác. Chức năng này rất lợi hại nếu như cần chèn Header & Footer dạng thay đổi theo từng chương (vd khi dàn sách,…) – Insert pages: chèn thêm trang vào file
Trên giang hồ tồn tại rất nhiều môn phái tách đối tượng ra khỏi nền, nổi bật trong các môn phái đó là sử dụng Magic Wand, QuickMask, Magnetic Lasso, bộ lọc Extract và Pen Tool. Trong 4 môn phái đó thì khó có thể nói môn phái nào là chính tông còn môn phái nào là bàng môn tả đạo. Bởi vì mỗi một cách cắt hình phụ thuộc rất nhiều vào đối tượng cần cắt, liệu nó và nền có tương phản hay không? liệu đối tượng cần cắt có quá chi tiết hay không? v.v.. Chính vì vậy trong bài này, tôi sẽ hướng dẫn bạn cả 4 cách cắt hình.
Bắt đầu bằng phương pháp đơn giản nhất và cũng ít được sử dụng nhất. Sử dụng Magic Wand Magic chỉ được sử dụng khi đối tượng cần tách và nền có độ tương phản cực cao ví dụ như đối tượng được đặt trên một nền đơn sắc (tối hoặc sáng) và đối tượng tương phản khá cao với hình. Ở ví dụ dưới đây bạn thấy đối tượng cần tách có tông màu khá tối và nền là một màu trắng, do vậy trong trường hợp này cách nhanh nhất là dùng Magic Wand. Với bất cứ thao tác nào liên quan đển chỉnh sửa hình ảnh, ta luôn làm việc với một bản copy của hình gốc, vì có sai sót gì thì còn có nơi mà quay về “quê mẹ”. Do vậy bạn hãy nhân đôi layer hình gốc bằng cách nhấn Ctrl-J. Chọn công cụ Magic Wand trên hộp công cụ, giữa giá trị Tolerance mặc định là 32. Giá trị Tolerance dùng để điều chỉnh độ “ăn vào” của công cụ khi nền và đối tượng có độ tương phản khác nhau. Nền và đối tượng tương phản càng thấp thì giá trị Tolerance càng cao và ngược lại. Trong ví dụ này giá trị mặc định là đủ rồi. Nhấn chuột một lần vào vùng màu trắng. Bạn sẽ thấy nó xuất hiện một vùng lựa chọn. Vùng này chính là vùng chọn của hình nền chứ không phải đối tượng cần chọn, do vậy bạn phải nghịch đảo vùng lựa chọn bằng cách nhấn Ctrl-Shift-I. Sau khi nhấn xong bạn nhấn Ctrl-J để copy vùng lựa chọn lên một layer khác. Vậy là xong! bạn đã tách xong rồi. Sử dụng công cụ Magnetic Lasso: Đây cũng là một công cụ mạnh dùng để cắt hình, nhưng nó cũng phụ thuộc vào độ tương phản của nền và đối tượng cần tách. Công cụ này hoạt động bằng cách tự động tạo ra các điểm neo kết dính vào đường viền của đối tượng khi bạn di chuột xung quanh đối tượng. Trong trường hợp này, bạn có thể sử dụng công cụ Magnetic Lasso cũng cho kết quả khá tốt. Chọn công cụ Magnetic Lasso và bắt đầu nhấn vào một điểm bất kỳ trên hình. Sau đó kéo chuột dọc theo đường viền của tấm hình. Chú ý là nếu bạn có chẳng may vượt ra ngoài hoặc hụt vào trong đối tượng, bạn có thể nhấn phím Delete trên bàn phím để quay lại điểm trước đó. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi bạn tạo được một vùng lựa chọn khép kín. Nhấn Ctrl-J để copy vùng chọn bạn có kết quả sau. Sử dụng QuickMask Cách này có ưu điểm hơn hai cách trên là không phụ thuộc vào độ tương phản của tấm hình, nhưng lại có nhược điểm là cần tỉ mỉ hơn và tất nhiên là mất thời gian hơn. Cách này chủ yếu dùng Brush và Eraser để tạo vùng lựa chọn. Bạn sẽ tô lên đối tượng một lớp màu để đánh dấu những vùng cần tách. Để bắt đầu bạn nhấn phím Q để vào chế độ QuickMask. Sau đó bạn chọn Brush với kích thước lớn tô vào bên trong đối tượng. Phím tắt để thay đổi kích thước Brush là phím ngoặc vuông ] và phím [. Cứ tô tất cả những vùng nằm trong đối tượng. Sau đó bạn phóng to hình lên và dùng brush với kích thước nhỏ hơn để tô nốt những chỗ còn khuyết. Khi tô xong bạn nhấn phím Q lần nữa để thoát khỏi chế độ QuickMask. Sẽ có một vùng lựa chọn xuất hiện, nhưng nó chỉ chọn vùng bao quanh. Công việc bây giờ là nghịch đảo nó lại và copy là xong. Nhấn Ctrl-Shift-I để nghịch đảo và nhấn Ctrl-J để tách đối tượng. Chọn công cụ Pen Với thiết lập trên thanh tuỳ biến công cụ như hình Tạo một điểm neo đầu tiên vào hình. Nhấn điểm tiếp theo và ngay lập tức uốn sao cho nó phù hợp với đường viền, nếu bạn thả chuột bạn phải chọn công cụ Convert Point Tool để uốn, còn nếu bạn uốn ngay thì không cần phải chuyển. Sau khi thấy hài lòng với đường đầu tiên thì bạn tiếp tục đường thứ hai Những điểm được khoanh trong ở hình dưới là những điểm rất quan trọng mà bạn dùng để uốn, nắn, đục, đẽo, gọt cho nó khít với đối tượng. Khi bạn đã quay về điểm khởi động thì bạn đã tạo xong một đường Path xung quanh đối tượng và cuối cùng bạn nhấn Ctrl-Enter để chuyển đường Path thành vùng lựa chọn. Và nhấn Ctrl-J để tách đối tượng. Kết quả khá ấn tượng nhỉ? Còn một cách sử dụng bộ lọc Extract thì chỉ là ngược lại của cách dùng QuickMask, thay vì tô màu ở bên trong đối tượng thì ta tô ở viền bên ngoài. Do vậy tôi không hướng dẫn cách này nữa mà bạn có thể tự nghiên cứu. Bộ lọc Extract ở Filter > Extract. Tuy nhiên bộ lọc này có tác dụng dùng để tách những hình có đường viền phức tạp như lông thú, hoa cỏ may hoặc tóc phụ nữ …. mà những công cụ Pen piếc cũng đến bó chiếu. Sau khi thiết kế xong sản phẩm bạn sẽ phải làm gì trước khi đem đi xuất film. Dưới đây đây là những lưu ý quan trọng cho việc in ấn với file AI: – Cẩn thận với những đt Tranparency – Hệ màu của các đt phải chính xác, phải là 4 màu CMYK cho in offset. Các đt được chuyển thành CMYK có ý nghĩa quan trọng trong việc bạn sẽ quyết định được sự chính xác khi nó được in ra. Nếu có màu RGB chẳng hạn, khi in ra bạn không thể nào có được sự chính xác, bởi vì trong in offset chỉ có 4 màu thôi. – Những Effect phải được Expand vì có những đt phức tạp có thể làm file của bạn bị lỗi hoặc khó thể lường trước được điều gì xảy ra. – Hình ảnh phải đảm bảo ở độ phân giải khuyến cáo là từ 300 dpi trở lên nếu bạn muốn hình ảnh của mình in ra được đẹp. – Font chữ phải được Outline (Curve) 1.Kiểm tra với hộp thoại Document Info: – Thông số Symbol Instance cho biết trong tài liệu của bạn có đt là symbol hay không, Symbol không nên tồn tại trong tài liệu, vì đây cũng là một đt nguy hiểm cần tiêu diệt. Nếu có hãy tìm đến đt symbol đó và Expand nó ra. Như ví dụ bên dưới đây bạn sẽ thấy là hộp thoại info không nhận ra đt Transparent khi những symbol này được để chế độ trong suốt khi dùng công cụ Symbol Screener tool. – Text hay còn gọi là Type chúng phải được Outline nếu bạn muốn giữ nó nguyên hình nguyên dạng. Chỉ cần vào menu Select > Object > Text Object và nhấn tổ hợp phím Ctrl+Shift+O . – Pattern object là những đt được tô kiểu pattern. Cái này cũng nguy hiểm cần tiêu diệt. Có nhiều cách như là Rasterize nó nhưng sẽ không đẹp, chọn cách Expand là hay nhất và đẹp nhất. Nhiều người cho rằng nó không nguy hiểm, nhưng những đt Pattern đó sẽ bị Transform khi bạn di chuyển đt . Có người nói rằng tôi đã để tùy chọn Tranform cả pattern tile trong hộp thoại Reference rồi nhưng bạn có đảm bảo rằng ở nơi xuất film họ không Save as tài liệu của bạn thành một file mới có những xác lập Reference khác. 2. Những cách để tránh lỗi. – Những đt mà có effect thì nên được Expand ra hết. Kể cả những hiệu ứng nhưBlend, Envelope Distort, Live Paint … cũng cho lên đừơng luôn. – Tài liệu xảy ra lỗi là thường do thằng này : Tray point. Có lần tui bị khùng cái thằng này luôn. Tray point là thí dụ như bạn dùng công cụ pen, click một cái mà không vẽ gì hết, công cụ type cũng vậy. Vì vậy hãy vào menu Object > Path > Clean > Chọn Tray Point và OK để xóa hết những đt này đi. Mấy tùy chọn kia thì đừng có táy máy làm gì. – Đối với palette Layer cũng cần lưu ý là tài liệu đem đi xuất film không nên còn nhiều layer. Vì hãy tưởng tượng ai đó tửơng rằng Text thì thường nằm trên một tấm hình sau đó kéo hết text lên một lớp mới mà đâu biết rằng Text đang được Clipping Mask thì sao nhỉ? Vì vậy hãy click vào menu con của palette layer và chọnFlatten Artwork nha. – Không được có đt được khóa hay ẩn trong tài liệu gì hết cái này thì khỏi nói cũng biết. – Những đt nào bị nằm ẩn dưới phần trong suốt của một hình bitmap như hình PSD chẳng hạn, bạn hãy đưa nó lên trên những phần bị trong suốt đó. Vì nếu để nằm bên dưới nó sẽ xem đt đó như là một phần của ảnh bitmap đó. Hãy tưởng tượng một đoạn text bị che một phần, một nửa là vector và một nửa lại là bitmap thì sẽ kinh dị thế nào, nhất là nếu đoạn text đó chỉ nhỏ chừng vài point. 3. Kiểm tra xem mình dự định xuất film mấy màu – Nếu là 4 màu CMYK thì nhớ bound cắt phải là 4 màu luôn nha. – Nếu là 1 màu thì bound cắt hay bất kỳ thứ gì cũng phải là một màu. Nếu lỡ có đt nào đó mang 4 màu thì khi xuất film người ta cũng sẽ xuất thành 4 bản màu mà thôi. Hình bitmap phải chuyển thành là Grayscale (Object > Rasterize > Grayscale). 4. Kiểm tra lần cuối. Corel với tính khả dụng, dễ dùng, hiệu ứng nhiều, lại thời gian thực (thay đổi thông số trong phần hiệu ứng, có thể thấy kết quả ngay) đã chiếm lĩnh một thị phần người dùng trong làng đồ hoạ ấn loát (châu Á) mặc dù theo tôi biết, điểm xếp hạng của Corel luôn đứng dưới Illus (về tính chuyên nghiệp). Nhưng không sao, chúng ta đã và đang dùng Corel, tôi xin nêu sơ lược một số quy tắc khi kiểm tra file (làm bằng Corel) trước khi xuất phim: – Trước hết, xin các bạn vui lòng click chuột ra ngoài vùng chọn (tức là không chọn gì), click chuột phải, chọn mục Document Info… Bạn sẽ thấy hiện ra một bảng thông tin về file, bao gồm: File, Document, Text Statistics, Graphic Objects, Bitmap Objects, Styles, Effects, Fills, Outlines… thông tin thì nhiều, đọc rối cả mắt, tôi chỉ xin lưu ý các bạn theo các bước sau: * Về phần text: các bạn phải đảm bảo rằng file đã “sạch” về font chữ, các bạn lưu ý, có một số font chữ muốn xuất phim được là cả một vấn đề, vì vậy xin đừng quên: Selected all text -> Convert to curves, cứ làm như vậy cho đến khi trong mục Document Info – Text Statistics hi ện lên d òng chữ there a no text objects in this document, vậy là các bạn sẽ không bao giờ phải lo sợ bị “lỗi font” nữa rùi. Đương nhiên điều này có thể không cần phải làm, nếu nơi ta xuất phim có một bộ font giống y chang của ta. Điều này gần như là điều mơ ước, bởi vì nước ta rừng vàng, biển bạc, font việt nam nhiều vô số kể, trông giống, hóa ra lại không giống, nhà nhà làm font, người người làm font. Tôi đã từng gặp những bạn dùng Font Maker tự tạo cho mình một bộ font, mang tên “người ấy”, khi đi xuất phim, lỗi font và mất font liên tục, chỉ duy nhất một điều, do bạn ý quên convert to curves. * Về phần vector: (hình vẽ, đường nét…) xin các bạn lưu ý, nếu có thể giảm được một số điểm node ở các đường, những nút (tôi tạm gọi như vậy) này nếu quá nhiều trên một đối tượng vẽ, khi thực hiện không vấn đề gì, nhưng khi xuất phim rất hay gặp lỗi (đau một cái lại là lỗi unknown errors) thường thì khi ta vẽ không nhiều nút, nhưng cham hình lại rất hay sinh ra nút không mong muốn. Đó chính là đáp án đối với câu hỏi của một số bạn: File của tôi dung lượng rất nhẹ, nhưng khi xuất phim, ngồi đợi cả ngày vẫn chưa in xong… * Về phần mầu sắc: Lab là vô địch, RGB là hoa hậu, nhưng đó chỉ là những khái niệm dành để nhìn, đối với in offset, chúng ta chỉ có một con đường: CMYK, như các phần trước tôi đã nói về CMYK rùi, hôm nay chỉ xin các bạn lưu ý hai mục: Fills và Outlines trong Document Info mà thôi, giả sử nếu các bạn dùng màu RGB để fill màu, hoặc tô đường path, trong hai mục này sẽ báo ngay, khi đó, đành phải làm công việc không ai muốn làm: tìm kiếm và thay thế, chuyển đổi, Ta dùng lệnh: Edit – Find and Replace – Find Objects, cái này khác với Replace Objects đó, bạn sẽ thấy bảng Find Wizard, chọn vào mục Find any type objects, tiếp đó vào mục Fill, click đúp vào General Fill Color Model, chọn RGB, click Next… Corel sẽ chọn cho bạn lần lượt từng đối tượng fill màu vớI hệ RGB, làm ơn thay thế bằng CMYK, tương tự những bước như vậy đối với đường viền outlines. Chỉ xin nhắc các bạn một điều, nếu đã làm xong hết cả rồI, mà Document Info vẫn báo còn RGB, có thể các bạn đã quên các dải màu tram đuổI, hãy vào đó và thay nốt.. Tất cả những điều này nghe có vẻ phức tạp, nhưng thực ra, nếu bạn là người cẩn thận và ngay từ đầu làm việc với mầu CMYK sẽ không phải làm những chuyện thế này đâu. Vậy tại sao phải làm như vậy, cứ xuất phim quách cho rồi, máy sẽ tự đổi màu RGB thành CMYK, đừng bao giờ nghe bạn ơi, tôi chỉ xin ví dụ: Mầu xanh tím (cùng được gọi là Blue) có chỉ số: RGB=B255 và CMYK=C100M100, nếu bạn để máy tự động đổi RGB -> CMYK, chỉ số sẽ là CMYK=C99M96, hic hic hic, câu trả lời đã rõ, file của tôi làm thì rõ là đẹp, nhưng mà in ra sao cứ nhờ nhờ, tối tối, xỉn xỉn… và nếu để tự động chuyển đổi, tôi cũng chẳng cần viết tút này ra làm gì. * Về phần hình ảnh (bitmaps): Trước tiên ta nên kiểm tra xem có hình ảnh nào dùng hệ màu RGB không? (cũng trong phần Document Info đó) nếu có, cũng xin chuyển hộ cho thành CMYK, nhớ chuyển ở PTS càng tốt, bạn sẽ có điều kiện chỉnh lại một số màu bị xỉn, tối, hoặc sáng hơn ảnh gốc. Sau đó, hãy quan tâm đến độ phân giải hình ảnh, Corel sẽ báo khi bạn có một số ảnh độ phân giải thấp hơn 96dpi, đừng lo lắng nếu bạn đã quét tất cả ảnh với độ phân giải là 300 rùi, có thể là bạn đã xoay ảnh trong Corel đi một góc không chẵn (tôi dùng từ không chẵn, có nghĩa là không phải: 90 hoặc 180o), xin convert to bitmap lại. Có một số bạn hay có thói quen dùng Shape Tool (F10) để cắt ảnh trong Corel, khi xuất phim lại quên không convert -> lỗi ảnh. Cũng nên lưu ý là link của Corel không giống link của Illus, Corel thường hay kéo nhầm đối tượng ảnh vào trong lắm đó, đặc biệt với những file phức tạp -> không xài link. Tốt hơn hết, hãy dùng PTS, cắt, chỉnh sửa, path v.v… sau đó import vào Corel, vừa đảm bảo, lại chuẩn. * Ba bước trên là những bước không thể thiếu được nếu bạn muốn xuất phim bằng Corel an toàn, đúng yêu cầu (và mong muốn) thiết kế. Điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn là hãy để ý đến kích thước (khuôn khổ) của trang in, đừng bao giờ xuất ra phim rồi mới nhớ là kích thước không đúng. Ở nơi tôi xuất phim, có một câu nói vui xin tặng các bạn: Sai hỏng của Quý khách là niềm hân hạnh của chúng tôi. Bài viết sau sẽ hướng dẫn bạn cách dàn trang trong Adobe Illustrator
Với AI bạn có thể tạo một tài liệu nhiều trang, tất nhiên là nhiều vừa phải thôi chừng 8 trang chẳng hạn (nhiều quá nặng máy). Vì nhiều khi làm bên Indesign thì có bạn không quen và thiếu các công cụ hỗ trợ thiết kế quen thuộc . Chức năng Page tiling sẽ hỗ trợ bạn và không cần phải dùng 1 plugin nào cả. Đây là các bước quan trong trước và sau khi bạn tạo 1 tài liệu AI nhiều trang. Nếu ai có ý định xuất ra thành một tài liệu PDF thì cũng hỗ trợ luôn. Đầu tiên để tạo 1 tài liệu 8 trang A5 chẳng hạn tôi sẽ tạo 1 Artwork vừa cho tất cả các trang . Vào page Setup điền thông số trang là 300 x 840 mm . Thiết kế 8 trang hoàn thành vừa trên Artwork của bạn . Muốn xếp các trang theo kiểu Single Page hay Facing Page là tùy các bạn điều chỉnh trang Artwork của mình. Vào View > Show Page Tiling để hiển thị lề các trang. Tiếp theo vào hộp thoại Print . Ở phần Setup bạn để tùy chọn Tile Full Page . Nếu số trang nhiều hơn 8 trang thì ở phần Crop Artwork to bạn chọn Artwork Bounding Box rồi chọn lại là Artboard . Bạn sẽ thấy thay đổi ngay trong phần Preview. Nhấn Done để hoàn thành. Bây giờ bạn sẽ thấy tài liệu trên Artwork đã được đánh số trang theo thứ tự từ trên xuống dưới và từ trái qua phải. Kể từ bây giờ khi muốn in ra máy laser tài liệu sẽ được in theo thứ tự của từng trang cho bạn. Create Multi- Page PDF from Pages Tilenhư hình dưới :
Trách nhiệm của từng thành viên trong một nhóm thợ in phải khác nhau trong suốt quá trình chuẩn bị máy tuỳ theo công việc in cụ thể. Để việc chuẩn bị máy đạt hiệu quả cao thì các vật liệu in cho công việc in kế tiếp phải được chuẩn bị sẵn sàng đâu vào đó khi công việc in trước đó vừa kết thúc. Việc chuẩn bị chu đáo cho quá trình chuẩn bị máy nghĩa là phải có các vật liệu cần thiết tại các đơn vị in tại thời điểm cần thiết. Các bản in nên chuẩn bị sẵn sàng và kiểm tra trước, các tấm cao su phải được bố trí sắp đặt để khi cần có thể lấy ra và lắp trên ống cao su, chuẩn bị sẵn các tờ bọc lót đã được đo và cắt xén phù hợp để bọc các ống cao su. Giấy in, mực in và dung dịch làm ẩm cũng nên được kiểm tra lại và chuẩn bị sẵn sàng. Nếu có nhu cầu cần thay đổi một màu in nào đó thì các chất tẩy rửa nên được chuẩn bị sẵn tại máy in. Để việc chuẩn bị máy in có hiệu quả là người thợ in phải nắm rõ công việc của mình và có sự phối hợp với nhau trong suốt quá trình in theo trách nhiệm đã được phân công. Trách nhiệm này thuộc về người trưởng máy, người phải biết cách tổ chức và giám sát đội ngũ của mình. Mỗi người thợ khi được tổ chức phân công tốt sẽ biết họ phải làm gì và làm điều đó vào lúc nào. Ví dụ, hai người thợ in có thể làm nhiệm vụ thay bản và tấm cao su, nhưng công việc chỉ hiệu quả khi một người thợ làm chính và một người phụ trên từng đơn vị in. 1. CÁC CÁCH CHUẨN BỊ MÁY IN Việc chuẩn bị máy in cục bộ xảy ra trên các máy in một màu và hai màu dùng để in 4 màu. Sau khi in xong hai màu đầu tiên máy in được dừng lại và rửa sạch các hệ thống cấp mực; lắp các bản in mới lên; các tấm cao su và các tờ bọc ống có thể được giữ nguyên. Các tờ in ở bàn ra giấy được lấy ra và đưa vào bàn nạp giấy, các thông số về tay kê ở bàn nạp giấy hoặc ra giấy không cần phải thiết lập lại. Sau khi rửa xong hệ thống cấp mực thì cho mực in mới lên máng mực và canh lại cho màu in mới. Cách thường được áp dụng nhiều nhất là chuẩn bị máy in một cách toàn bộ từ đầu đến cuối, bao gồm tất cả các bước cần thiết để bắt đầu cho một công việc in mới hoàn toàn. Tiến hành rửa máy toàn bộ đối với máy in một màu và hai màu; nếu in trên máy in 4 màu cũng sử dụng lại chính 4 màu in trước và không cần phải rửa hệ thống cấp mực tại các đơn vị in. Việc rửa máy hay rửa hệ thống cấp mực thường dựa vào công việc in trước đó. Bản in và các tờ bọc ống được thay đổi và tiến hành lau sạch bề mặt tấm cao su. Các thông số thiết lập cho bàn nạp giấy, các tay kê và bàn ra giấy thường được thay đổi. 2. CÁC THAO TÁC TRONG CHUẨN BỊ MÁY IN: Có nhiều phương pháp làm giảm thời gian dừng máy in nhưng cách tốt nhất vẫn là phối hợp hiệu quả giữa các người thợ in trong cùng một ca. Cần phải xem việc chuẩn bị in giống như điểm dừng tiếp nhiên liệu của cuộc đua xe thể thao Công thức 1. Việc chuẩn bị máy bao gồm các bước sau: Từ bước 9 đến bước 11 cần được lặp đi lặp lại cho đến khi in được một tờ in có chất lượng mà khách hàng chấp nhận. Tờ in đó thường được gọi là tờ in chuẩn. 2.1 Rửa hệ thống cấp mực. 2.2 Rửa hệ thống làm ẩm. 2.3 Chuẩn bị bản in để cất giữ. 2.5 Xử lý cơ học việc vận chuyển tờ in 2.6 Lắp bản in 2.9 Chuẩn bị cho hệ thống cấp mực 2.11 In các tờ in thử
Điều quan tâm chính cho việc kiểm tra tờ in đầu tiên là tình trạng của hình ảnh được in vì hệ thống cấp mực và hệ thống làm ẩm chưa chắc đã đạt trạng thái cân bằng. Tờ in đầu tiên được kiểm tra về vị trí của phần tử in. Nếu chỉ có một màu xuất hiện trên tờ in này thì hình ảnh đã được định vị trên giấy in. Bảo đảm rằng hình ảnh phải đặt ở vị trí chính xác và vuông góc với cạnh của tờ in. Nếu vị trí của phần tử in bị lệch sang một bên thì điều chỉnh lại tay kê hông và vị trí của chồng giấy in. Nếu hình ảnh in bị lệch về phía trước hay cách xa cạnh bắt nhíp thì điều chỉnh ống bản một cách tương ứng. Nếu in trên máy nhiều màu, tất cả các màu in được in ra cùng một lúc trên tờ in thử đầu tiên phải được chồng khít lên nhau, giữa màu này với màu kia trên tờ in. Khảo sát các tờ in thử. Khi chỉ in một màu trên tờ in thử đầu tiên, sau đó in một hay nhiều màu in lên tờ in thử kế tiếp thì các màu in sau phải chồng khít vào màu đầu tiên. Tay kê hông có thể không cần điều chỉnh cách xa hơn để chỉnh chồng màu chính xác. Do đó, tất cả sự thay đổi vị trí được tạo ra do sự dịch chuyển các ống ép hay bản in nếu hình ảnh in ra không vuông góc với hình ảnh in khác trước đó. Có thể chuyển sự bọc ống từ ống bản sang ống cao su để chồng khít màu in nếu độ dài hình ảnh in bị thay đổi. Chất lượng của tờ in. Chất lượng của tờ in ngay sau các tờ in thử chưa chắc là chính xác. Hai khuyết điểm chính ảnh hưởng đến chất lượng tờ in có thể nhận ra từ các tờ in thử này, một là hiện tượng tờ in non mực là do việc cung cấp dung dịch làm ẩm quá nhiều hoặc cấp mực thiếu và hai là tờ in bị đẫm mực do cấp mực quá mức. Các vấn đề khác ảnh hưởng đến chất lượng tờ in bao gồm hiện tượng nhiễm mực và bít các hạt tram, hiện tượng tờ in xuất hiện các đốm mực nhỏ, các tờ in nổi hạt (sần), các tờ in bị dính vào các tấm cao su và các tờ in bị cong quá mức trên chồng giấy in ra. Hầu hết các vấn đề này đều do làm ẩm không đúng. Do đó, người thợ in phải nhận ra được nguyên nhân chính và điều chỉnh thích hợp cho hệ thống cấp và làm ẩm, trong khi đang cố gắng đạt được sự cân bằng mực nước ở tình trạng thấp nhất có thể được. Khi phần tử in không truyền chính xác từ tấm cao su lên giấy in do áp lực quá lớn giữa ống cao su và ống ép, cần phải kiểm tra và điều chỉnh lại áp lực cần thiết. Màu sắc của tờ in. Khi bắt đầu nhận được các bản in đạt chất lượng thì người thợ in phải điều chỉnh hệ thống cấp mực cho đến khi in no màu. Tờ in phải được quan sát dưới những điều kiện ánh sáng chuẩn (5000K). Bản in thử đã được ký bông kèm theo từng công việc in ấn sẽ giúp cho người thợ in dựa vào đó mà canh chỉnh hệ thống cấp mực. Một tờ in thử được đưa ra không phù hợp thì sẽ có khả năng không in được trên máy in offset. Tất cả các bài in nhiều màu nên có một thang kiểm tra màu in như thang kiểm tra cho 6 màu chồng mà GATF đề ra được in trên vùng được bố trí dọc theo đuôi của tờ in. Người thợ dùng một máy đo mật độ cầm tay hoặc một thiết bị quét kiểm tra mật độ để xác định mật độ của những ô in màu cơ bản tông nguyên. Các ô in tông nguyên có chồng hai và ba màu lên đó có thể được sử dụng để kiểm tra sự truyền mực của tờ in sau chồng lên màu in trước. Nhiều nhà in đã đặt ra cho mình một tiêu chuẩn về mật độ của màu mực in cơ bản như vàng: 0,95±0,05; đỏ cánh sen: 1,30±0,05; xanh cyan: 1,30±0,05 và đen: 1,60±0,10 khi in trên một loại giấy tráng phấn. (Các mật độ màu được xác định bằng một thiết bị đo mật độ không nên được áp dụng chung cho tất cả các máy in và cho tất cả các thông số trong việc canh chỉnh mực). Việc canh chỉnh mực dựa vào các giá trị đo mật độ mực để có thể canh chỉnh mực tốt và ổn định nhanh nhất khi chỉ cần một vài tờ in ban đầu trên máy. Khi máy in có thiết bị quét mật độ tờ in được kiểm soát bằng vi tính hoặc thiết bị quét bản thì mật độ tờ in nhanh chóng đạt đến mức ổn định hơn bởi vì các thiết bị này sẽ chỉ định ra lượng mực tương ứng cần thiết dọc theo tờ in. Do sự phân bố mực in dọc theo chiều ngang của tờ in có sự khác biệt nhau nên các vít chỉnh mực cũng được chỉnh cho phù hợp với lượng mực cần thiết. Ngoài ra, người thợ in phải mở các vít mực tại những phần tử in cần thêm mực và đóng lại tại những phần tử in cần ít mực. Một biểu đồ của việc cấp mực dọc theo tờ in sẽ có những điểm có toạ độ cao (cho biết những vùng in đó cần cấp nhiều mực) và những điểm có toạ độ thấp (cho biết những vùng in đó cần ít mực hơn hoặc không cấp mực tại đó như những khu vực không có phần tử in trên tờ in). Các vị trí đánh dấu tay kê hông. Một vị trí đánh dấu của tay kê hông gồm một loạt các đường kẻ thẳng theo chiều dọc và chiều ngang của cạnh bắt nhíp của tờ in khoảng 150 mm nhằm giúp cho người thợ in có thể đẩy các tờ in về vị trí cần thiết nếu tay kê hông hoạt động không chính xác, hay kéo quá nhiều quá hoặc ít quá. Nếu đường theo chiều dọc nằm theo cạnh của tờ in thì tay kê hông hoạt động chính xác. Nếu đường thẳng nằm vào trong mép giấy một chút thì tay kê kéo giấy hơi nhiều. Nếu đường thẳng bị mất hoàn toàn thì tay kê không kéo giấy chính xác. Đường thẳng theo chiều ngang của dấu kiểm tra ở tay kê hông cho phép người thợ in kiểm tra tính ổn định của bon chồng màu dạng hình tròn (từ cạnh bắt nhíp đến đuôi tờ in). Một đường thẳng nằm ngang tương tự được đặt vào vị trí đối diện bên kia của tờ in để theo dõi sự chồng màu từ cạnh bắt nhíp đến đuôi tờ in ở phía bên trên của tờ in. Bất kỳ một sự chồng màu không chính xác nào cũng có thể gây ra do các tờ in nảy lên khỏi các tay kê đầu, sẽ được thấy như một đường bị răng cưa. Thông thường, dấu kiểm tra của một tay kê hông được gắn vào thêm cho bản in trong quá trình ghi bản. Tuy nhiên nếu thấy cần thiết, người thợ in có thể kẻ thêm một dấu kiểm tra cho tay kê hông trên bản in sau khi hoàn tất việc chuẩn bị máy. GATF đã đưa ra một chuẩn cho việc đánh dấu kiểm tra của tay kê hông trong các dấu kiểm tra dùng để kiểm soát hình ảnh in, nó có dạng như một miếng phim âm hay một miếng phim dương. Dấu kiểm tra là một đường thẳng dọc dài 22mm và một đường thẳng nằm ngang dài 5mm. Trong quá trình bình phim, dấu kiểm tra này được gắn lên hàng ngang cùng với dấu định vị chính (các điểm mốc của tờ in) sao cho các dấu này được đặt ở mép cạnh của tờ in và sau đó đem đi phơi bản. Trong suốt quá trình chuẩn bị máy, người thợ in phải điều chỉnh tay kê hông cho đến khi dấu kiểm tra theo chiều dọc đặt ở vị trí trên mép của tờ in một nửa của dấu kiểm tra này bị lọt ra ngoài. Khi vỗ một vài tờ in trên một mặt phẳng vuông góc và tiếp sau là tách các tờ in ra người thợ in sẽ xác định xem tay kê hông đã hoạt động chính xác chưa.
Chất lượng in bao giờ cũng luôn luôn là một trong những mối quan tâm hàng đầu của xí nghiệp in. Tất nhiên, chất lượng in phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau từ khâu chế bản cho đến in và thành phẩm. Một trong những vất đề đó là thứ tự in chồng màu trong in 4 màu. Hiện nay, đây vẫn là một trong những đề tài đang được tranh cãi nhiều nhất. Để tiện việc tham khảo, chúng tôi xin đăng tải ý kiến của anh T.V.Đ là một trong những người có nhiều kinh nghiệm trong quá trình in offset, hiện anh đang công tác tại xí nghiệp in Lê Quang Lộc. Theo ý kiến của anh T.V.Đ thứ tự in chồng màu không nhất thiết phải cứng ngắt lúc nào cũng là C.M.K.Y hoặc Y,K,C,M mà sẽ tuỳ theo từng trường hợp và tuỳ theo đặc thù mỗi xi nghiệp. Hiện nay tại xí nghiệp, nói chung đa số trường hợp in theo thứ tự Y,C,M,K. Lý do mà T.V.Đ đưa ra là đặc thù của xí nghiệp là in báo với loại giấy mỏng, định lượng nhỏ, độ hút mực lớn, vì vậy vấn đề giãn giấy là một trong những khó khăn trong quá trình in. Trên một trang báo các phần tử in màu đen thường chiếm đa số, do đó lượng mực màu đen trên trang báo cũng khá nhiều và trở thành một trong những nguyên nhân chủ yếu gây giãn giấy. Vì vậy, việc in các màu Y,C,M trước sẽ cho phép độ giãn giấy là nhỏ nhất và tránh được hiện tương bị đúp bóng chữõ, tuy nhiên, đối với các ấn phẩm khác in trên giấy Couché thông thường trong đều kiện in của xí nghiệp sẽ in theo thứ tự K,C,M,Y theo phương pháp ướt chồng ướt trên máy in 4 màu. Lý do là vì khi in trên giấy Couché thời gian làm khô mực sẽ lâu hơn, như vậy nếu in màu vàng trước khả năng bị dậm mực rất lớn do mực vàng lâu khô hơn. Nếu in trên máy in hai màu, thứ tự chồng màu thường là C.M sau đó là K,Y. Lý do in mực Y sau cùng cũng được giải thích như in trên máy in 4 màu. Màu K in sau vì nếu để in trước việc rửa đơn vị in để thay mực khác sẽ tốn rất nhiều thời gian làm giảm năng suất in. Trường hợp trên máy in 1 màu, thông thường thứ tự chồng màu là C.M.K.Y. Lý do để màu đen in cuối cùng cũng được gải thích như trên. Cũng theo ý kiến của anh T.V.Đ việc thay đổi thứ tự chồng màu có thể được quyết định tùy thuộc vào từng loại ấn phẩm. Chẳng hạn, một ấn phẩm nghiêng về màu xanh blue, thông thường nên đặt thứ tự chồng màu sao cho màu C in trước màu M để tránh cho màu xanh blue dễ bị ngả tím. Cũng như nếu ấn phẩm nặng về màu đỏ cờ, thông thường nên đặt thứ tự chồng màu sao cho màu M in trước màu Y thì màu đỏ in ra mới đạt yêu cầu, nếu in theo thứ tự ngược lại có thể màu đỏ cờ không đạt được màu đỏ cờ như mong muốn. Tất nhiên, việc nhận định tính chính xác của các ý kiến trên còn là vấn đề cần phải bàn cãi. Vì vậy, chúng tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của các sinh viên, các đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề in ấn để chúng ta có thể rút ra được một số kinh nghiệm về thứ tự in chồng màu nhằm cải tiến chất lượng in ngày càng tốt hơn. MỰC KHÔ QUÁ CHẬM. Nguyên nhân A : Nguyên nhân B: Nguyên nhân C: Nguyên nhân D : Nguyên nhân E: ẢNH HƯỞNG CỦA BỤI GIẤY VÀ CÁC VẬT LẠ. Nguyên nhân A : Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : PHẦN TỬ KHÔNG IN BỊ BẮT MỰC (BẮT DƠ). Nguyên nhân A : Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : Nguyên nhân D : MỰC BỊ LỘT TRÊN BỀ MẶT VẬT LIỆU. Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : Nguyên nhân D : Nguyên nhân E : Nguyên nhân F : MỰC IN LÀM GIẤY BỊ LỘT, BỊ TÁCH HAY LÀM RÁCH GIẤY. Nguyên nhân A : Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : Nguyên nhân D : TẠO BÓNG MỜ DO BỘ PHẬN CƠ KHÍ GÂY RA. MỰC KHÔ TẠM THỜI TRÊN GIẤY TRÁNG PHẤN. Nguyên nhân A : Nguyên nhân B : Biện pháp khắc phục 1: Xem xét lại các nguyên nhân mực khô chậm là do mực khô bình thường hay là mực khô nhanh. Nguyên nhân nào cũng gây ra hiện tượng khô mực tạm thời. Xem lại các nguyên nhân đã bàn ở các vấn đề trước, Biện pháp khắc phục 2: Hiện tượng mực khô tạm thời không được thấy rõ ràng cho đến sau khi in xong khoảng 1 giờ. Tuy nhiên ta có thể khắc phục vấn đề mực in khô tạm thời bằng cách in phủ lớp mực trong suốt hay lớp vecni để hổ trợ cho quá trình kết dính với giấy. Nguyên nhân C: Biện pháp khắc phục 1: Tránh hiện tượng trên bằng cách dùng loại mực phù hợp cho giấy. Biện pháp khắc phục 2: Tránh thêm các chất phụ gia vào mực như dầu bôi trơn động cơ, dầu nhớt thông thường hay dầu khoáng. Chỉ sử dụng các chất phụ gia thêm vào khi được sự đồng ý của nhà sản xuất mực. Giữ cho lượng các chất phụ gia thêm vào ở lượng tối thiểu. Những vật liệu không khô sẽ làm dẻo lớp mực khô và làm giảm độ chống mài mòn của mực. Các chất làm khô có chứa thành phần không khô. Tránh sử dụng các chất làm khô quá nhiều. LỚP PHỦ BỀ MẶT GIẤY KHÔNG KẾT DÍNH TỐT VÀ LỚP PHỦ KHÔNG ĐỒNG ĐỀU. Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : LỚP MỰC KHÔNG ĐỒNG NHẤT VÀ DÍNH VẬT LIỆU KHI IN PLASTIC. Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : MỰC BỊ LEM TRONG QUÁ TRÌNH TRÁNG PHỦ BỀ MẶT, BẾ NHÃN, BỒI CARTON. CÁC BÌA SÁCH BỊ DƠ TRONG QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN. Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : KHÔNG TRUYỀN ĐƯỢC MỰC KHI IN ƯỚT CHỒNG KHÔ. Có quá nhiều dầu hay sáp trong lớp mực đã khô. Biện pháp khắc phục 2: Tránh dùng dầu hay bột sáp trong mực ở lần in đầu tiên khi phải in các màu khác tiếp theo. Biện pháp khắc phục 3: In lượt tiếp theo ngay khi lớp mực trước đó vừa đủ khô để có thể cầm tờ giấy in mà không bị lem. Nếu mực khô lâu hơn thì các chất không khô sẽ xuất hiện trên bề mặt tờ in và gây cản trở cho quá trình truyền mực. Biện pháp khắc phục 4: Nếu người thợ in muốn them các chất làm khô vào trong mực thì nên cho vào ngay ở lượt in đầu tiên. Lượng chất làm khô gốc côban phải được sử dụng ở mức tối thiểu. Biện pháp khắc phục 5: Thêm vào các chất phụ gia giúp quá trình truyền mực xảy ra tốt hơn. MỰC BỊ KẾT TINH. Biện pháp khắc phục 1: Thay đổi thứ tự in chồng màu cho phù hợp. Biện pháp khắc phục 2 : Ngăn ngừa sự kết tinh của lớp mực đầu tiên. Biện pháp khắc phục 3 : Cho tờ giấy in qua lò sấy khô. Nhiệt độ sẽ làm tăng độ kết dính của mực. KHÔNG TRUYỀN MỰC ĐƯỢC KHI IN ƯỚT CHỒNG ƯỚT. Nguyên nhân A : Biện pháp khắc phục 1: Sử dụng chuỗi mực in có độ tách dính giảm dần theo thứ tự in. Biện pháp khắc phục 2: Làm giảm độ tách dính của mực sẽ làm giảm quá trình truyền mực hợp lý. Sử dụng mực cho in nhiều màu thì các màu in sau có độ tách dính giảm dần Biện pháp khắc phục 3: Tăng độ dầy lớp mực. Lớp mực dầy hơn sẽ giúp dễ truyền mực hơn. Nguyên nhân B : Biện pháp khắc phục 1: Sử dụng mực có độ tách dính giảm dần theo thứ tự. Biện pháp khắc phục 2: Không dùng mực của nhiều hãng khác nhau. Biện pháp khắc phục 3: Sử dụng loại mực có sự truyền mực tương ứng nhưng vẫn cho ra được màu mong muốn. KÉO DỊCH. BỊ SỌC HAY LÀ TẠO SỌC. Nguyên nhân A : Biện pháp khắc phục 2: Gia tăng độ tách dính và độ đặc của mực bằng cách thêm vecni bền với nước. Biện pháp khắc phục 3: Giảm độ tách dính của mực bằng cách thêm vào một chút dầu khô hay vecni dành cho in cuộn có sấy. Biện pháp khắc phục 4: Kiểm tra độ khô của mực in trên giấy trước khi in. Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : Nguyên nhân D : Nguyên nhân E : Nguyên nhân F : Nguyên nhân G : CÁC VẾT DƠ MỜ TRÊN TỜ IN. Nguyên nhân A : Nguyên nhân B : Biện pháp khắc phục 1: Đổi loại giấy khác. Biện pháp khắc phục 2: Làm cho mực đặc hơn bằng cách pha vào những vecni làm đặc kháng nước. Nguyên nhân C : MỰC ĐÓNG THÀNH LỚP TRÊN BẢN VÀ TẤM CAO SU. Nguyên nhân A: Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : Nguyên nhân D : MỰC VĂNG RA HAY RỚT RA. Nguyên nhân A : Nguyên nhân B : Nguyên nhân C : Nguyên nhân D : MÀU SẮC BỊ NHẠT ĐI HAY TRẮNG RA TRONG QUÁ TRÌNH LÀM KHÔ. |