Ca dao việt nam là gì

Ca dao là một trong những thể loại văn học dân gian Việt Nam, dưới dạng thơ ca dân gian và được lưu truyền bằng miệng, ở dưới dạng những câu hát và thường sẽ không theo một điệu nhất định nào cả. Ca dao Việt Nam thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc.

Thuật ngữ và khái niệm

Trong sinh hoạt văn học dân gian Việt nam, chúng ta có một bộ phận rất quan trọng là sinh hoạt ca hát, trong đó một trong những hoạt động tiêu biểu nhất của sinh hoạt văn học dân gian là việc diễn xướng ca dao, dân ca. Ðể chỉ lĩnh vực ca hát dân gian, những người dân thường hay sử dụng các từ: ca, hò, ví, lý, hát giao duyên, hát đối, hát huê tình...

Đối với các nhà nghiên cứu, các người sưu tầm nho học, các nhà biên soạn gọi những câu hát dân gian là: phong sử, phong dao, ca dao, dân ca, thơ ca dân gian, thơ ca truyền miệng dân gian, thơ ca trữ tình dân gian...

Ca dao là một thuật ngữ Hán Việt, theo từ nguyên, ca có nghĩa là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao có nghĩa là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. Sách Trung Quốc ca dao: ca là bài hát có hòa với nhạc, dao là lời của bài hát đó.

Theo cuốn sách Lịch sử văn học Việt Nam của tác giả Bùi Văn Nguyên: ca dao là những bài có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân tộc [thường là lục bát], để miêu tả, tự sự, ngụ ý và diễn đạt tình cảm. Dân ca là những bài hát có hoặc không có chương khúc do nhân dân sáng tác lưu truyền trong dân gian ở từng vùng hoặc phổ biến ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có giá trị đặc biệt về nhạc.

Thông thường, để phân biệt hai thể loại ca dao và dân ca, chúng ta cần chú ý đến các đặc điểm sau: Khi nói đến ca dao, người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian, còn nói đến dân ca, người ta nghĩ đến cả những làn điệu, những thể thức hát nhất định.

Một đàn có trắng bay tung,

Bên nam, bên nữ ta cùng cất lên.

Cất lên một tiếng linh đình,

Cho loan sánh phượng, cho mình sánh ta...

[Hát trống quân]

Trên trời có đám may xanh,

Chính giữa mây trắng chung quanh mây vàng.

Ơi là tình phụ tình phàng.

Chừ là duyên lắm bấy,

Chừ cái dạ em trông chồng, mà không thấy chồng đâu.

Ơi ông chồng, chồng mình ơi !

Chi mà tệ, tệ lắm chàng !

Chi mà bạc, bạc lắm chàng ! ...

[Lý vọng phu]

Ca dao là thể loại văn học trữ tình của văn học dân gian Việt Nam, vì thế trong ca dao dân gian Việt Nam, đại đa số là tác phẩm trữ tình. Khái niệm trữ tình dân gian được hiểu trong sự đối lập với khái niệm tự sự dân gian ở góc độ loại hình. Ðối tượng của nó là những tác phẩm luôn phản ánh hiện thực đời sống mà không phải thông qua một cốt truyện nhất định, sự xung đột của hành động của nhân vật, mà là thông qua sự thể hiện tâm trạng các nhân vật trữ tình.

Ví Dụ:

Trâu ơi ta bảo trâu này,

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta ...

Bướm vàng đậu đọt mù u,

Lấy chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn.

Còn duyên kẻ đón người đưa,

Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.

Thân cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non ...

Nội dung của Ca dao

Ca dao Việt Nam là do người dân hoặc tầng lớp tinh hoa sáng tác ra và thường phản ánh các nội dung sau:

  • Ca dao phản ánh lịch sử: Nội dung loại ca dao này thường không phản ánh hiện tượng lịch sử trong quá trình diễn biến của nó, mà chỉ nhắc đến sự kiện lịch sử đó để nói lên thái độ, quan điểm của người dân.
  • Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống; phản ánh đời sống tình cảm nhân dân; phản ánh đời sống xã hội cũ.
  • Chứa đựng tiếng cười trào phúng.
  • Học Theo đảng

Phân loại Ca dao

Các bài ca dao thường được phân loại theo các nội dung sau:

Ðồng dao

Ðồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Chủ thể sáng tác diễn xướng chủ yếu là trẻ em thể hiện những cảm nghị, cảm xúc ngây thơ thường nảy ra một cách ngẫu nhiên ở trẻ em. Trẻ em thường vừa chơi trò chơi, vừa ca hát. Ðồng dao được chia thành hai loại: loại gắn với công việc của trẻ em, loại gắn với trò chơi của trẻ em.

... Nghé ơ ... Mẹ gọi tiếng trước,

Cất cổ lên đàng ...

Nghé o ...Mẹ gọi tiếng sau,

Cất lồng lên chạy ...

Có khôn thì đi theo mẹ,

Có khéo thì đi theo đàn,

Chớ đi theo quẩn theo quàng,

Có ngày mất mẹ ...  nghé ơ ...

----------------------------------------

Nu na nu nống, 

Cái cống nằm trong,

Cái ong nằm ngoài,

Củ khoai chấm mật.

... Con cóc nhảy ra,

Con gà ú ụ,

Nhà mụ thổi xôi,

Nhà tôi nấu chè,

Tay xoè, chân rụt !

----------------------------------------

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,

Ðể trâu ăn lúa gọi cha ới ời,

Cha còn cắt cỏ trên trời,

Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.

Ông thì cầm bút, cầm nghiên,

Ông thì cầm tiền đi chuộc lá đa ...

Ca dao lao động

Ca dao lao động là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động. Ðặc điểm cơ bản là có sự gắn bó giữa nhịp điệu lao động và xúc cảm của con người trong lao động.

Hò lao động nảy sinh trên cơ sở những công việc có sự lắp đi lắp lại động tác lao động, có tính chất tổ chức nhịp điệu lao động.

Hò giật chỉ [hò kéo lưới] Nam Trung Bộ:

Ra đi sóng biển mịt mù,

Trời cho lưới nặng dô hò kéo lên.

Phần lời này sẽ do một người lĩnh xướng [cái hát], những người khác xô theo [con hát]. Trong quá trình diễn xướng của nó, sẽ có sự diễn biến nhanh chậm tùy theo tính chất công việc. Khi lưới còn ngoài khơi, động tác kéo lưới chậm, tiết tấu nhịp điệu câu hát cũng chậm. Khi lưới gần bờ, tốc độ kéo lưới nhanh, nhịp điệu hát, tiết tấu cũng nhanh mạnh hơn.

 Ở Hò giã gạo Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và một số địa phương Nam Trung Bộ: câu xô gồm 6 tiếng àơ à à ơ à, thể hiện động tác muốn nhấc cao cái chày lên trước khi đặt nó về chỗ cũ ... [Nguyễn Xuân Khoát]. Tên các giai đoạn hò cũng tương ứng các giai đoạn của một cuộc giao duyên nam nữ hơn là tính chất công việc lao động: hò mời, hò ân tình, hò xa cách.

Như vậy, ở nhiều bài hò lao động, yếu tố trữ tình luôn đan xen thể hiện chức năng giao lưu tình cảm, có khi lấn áp chức năng phối hợp động tác lao động ban đầu của tiểu loại.

- Bài ca nghề nghiệp nói về nghề nghiệp truyền thống như bài ca về lịch lao động của nghề làm ruộng, nghề chài lưới ....

Tháng chạp là tiết trồng khoai,

Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.Nguồn truyện tại truyencotich.fun

Tháng ba thì đậu đã già,

Ta đi ta hái về nhà phơi khô.

Tháng tư đi tậu trâu bò,

Ðể ta sắm sửa làm mùa tháng năm ...

Ca dao ru con

Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến. Trên mỗi miền có một điệu hát ru riêng biệt phù hợp với giọng nói, ngôn ngữ địa phương. Lời hát ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn. Ca dao ru con rất gần gũi, thể hiện rất rõ chức năng thực hành xã hội của ca dao.

Ru em em théc cho mùi,

Ðể mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.

Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,

Mua cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.

--------------------------

Con cối đá nằm trong cối đá,

Con chim đa đa đậu nhánh đa đa,

Chồng gần bậu không lấy, bậu lấy chồng xa.

Mai sau cha yếu mẹ già.

Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng ?

Ca dao nghi lễ, phong tục

Lạy trời mưa xuống.

Lấy nước tôi uống.

Lấy ruộng tôi cày ...

Trong nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh của đời sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân dân.

Ở gần hay là ở xa,

Cách phủ cách huyện hay là cách sông ?

Xa xôi cách mấy quảng đồng,

Ðể anh bỏ việc bỏ công đi tìm ...

Ca dao trào phúng, bông đùa

Ca dao trữ tình

Xây dọc rồi lại xây ngang,

Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

----------------------------

Đèn hết dầu đèn tắt,

Hoa rữa nhụy hoa hôi,

Em biểu anh đừng có lên xuống đêm hôm

Thế gian đàm tiếu tiếng đồn, tội em.

--------------------------

Hỡi cô tát nước bên đàng

Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?

Ước gì sông rộng một gang

Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi

Ca dao than thân

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

-------------------------------------

Thân em cúc mọc bờ rào, 

Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông.

Những bài ca dao biết tên tác giả

Những bài ca dao cổ thường không có tên tác giả và chúng được lưu truyền bằng miệng trong dân gian, tuy nhiên chúng ta có ghi nhận được một bài thơ của tác giả Ưng Bình Thúc Giạ Thị, vốn được xếp vào ca dao Huế:

Chiều chiều trước bên Vân Lâu

Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,

Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.

Thuyền ai thấp thoáng bên sông,

Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Do văn học dân gian là một phần tử, nằm trong chỉnh thể văn học của dân tộc Việt Nam vì thế các dòng văn học vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau, cuối cùng dẫn đến hiện tượng tác phẩm văn học viết đã lan truyền trong hệt hống văn học dân gian và cũng trở thành một tác phẩm của văn học dân gian Việt Nam.

Hi vọng bài viết này sẽ giúp các bạn giải đáp nhiều thắc mắc về định nghĩa Ca dao và sẽ là một nguồn tài liệu quan trọng để các bạn học tập. Mời các bạn xem thêm các bài Ca dao và Dân Ca của website TruyenCoTich.Fun

Chủ Đề