Vì sao kiểm toán viên phải tìm hiểu ksnb đối với những khách hàng kiểm toán

ĐÁNH GIÁ RỦI RO VÀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG DOANH NGHIỆP

Qui Định Chung

01. Mục đích của chuẩn mực này là qui định các nguyên tắc, thủ tục cơ bản và hướng dẫn thể thức áp dụng các nguyên tắc, thủ tục cơ bản liên quan đến việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ cũng như việc đánh giá rủi ro kiểm toán và các thành phần của nó, bao gồm : Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính.
02.Kiểm toán viên phải có đủ hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ củakhách hàng để lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chương trình kiểm toán thích hợp, có hiệu quả. Kiểm toán viên phải sử dụng khả năng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các thủ tục kiểm toán nhằm giảm các rủi ro kiểm toán xuống thấp tới mức có thể chấp nhận được.
03. Chuẩn mực này áp dụng cho kiểm toán báo cáo tài chính và được vận dụng cho kiểm toán thông tin tài chính khác và các dịch vụ liên quan của công ty kiểm toán.
Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải tuân thủ những qui định của chuẩn mực này trong quá trình thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính và cung cấp dịch vụ liên quan.
Đơn vị được kiểm toán [khách hàng] và các bên sử dụng kết quả kiểm toán phải có những hiểu biết cần thiết về những qui định trong chuẩn mực này để phối hợp công việc với công ty kiểm toán và kiểm toán viên cũng như xử lý quan hệ liên quan đến các thông tin đã được kiểm toán.
Các thuật ngữ trong chuẩn mực này được hiểu như sau:
04.Rủi ro tiềm tàng:Là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
05.Rủi ro kiểm soát:Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.
06.Rủi ro phát hiện:Là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được.
07.Rủi ro kiểm toán:Là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
08.Đánh giá rủi ro kiểm toán:Là việc kiểm toán viên và công ty kiểm toán xác định mức độ rủi ro kiểm toán có thể xảy ra là cao hay thấp, bao gồm đánh giá rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch và trước khi thực hiện kiểm toán.
09.Trọng yếu:Là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin hoặc một số liệu trong báo cáo tài chính.
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thông tin đó thiếu chính xác thì sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên tiêu chuẩn định lượng và định tính.
10.Hệ thống kiểm soát nội bộ:Là các qui định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và áp dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các qui định, để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.
11.Hệ thống kế toán:Là các qui định về kế toán và các thủ tục kế toán mà đơn vị được kiểm toán áp dụng để thực hiện ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính.
12.Môi trường kiểm soát:Là những nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ và vai trò của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đơn vị.
Môi trường kiểm soát có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các thủ tục kiểm soát. Môi trường kiểm soát mạnh sẽ hỗ trợ đáng kể cho các thủ tục kiểm soát cụ thể. Tuy nhiên môi trường kiểm soát mạnh không đồng nghĩa với hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh. Môi trường kiểm soát mạnh tự nó chưa đủ đảm bảo tính hiệu quả của toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ.
13.Thủ tục kiểm soát:Là các quy chế và thủ tục do Ban lãnh đạo đơn vị thiết lập và chỉ đạo thực hiện trong đơn vị nhằm đạt được mục tiêu quản lý cụ thể.
NỘI DUNG CHUẨN MỰC
14. Khi xác định phương pháp tiếp cận kiểm toán, kiểm toán viên phải quan tâm đến những đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát để xác định mức độ rủi ro phát hiện có thể chấp nhận được cho cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính và xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục cơ bản cho cơ sở dẫn liệu đó.
Rủi ro tiềm tàng
15. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định cụ thể được thì kiểm toán viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính, hoặc các nghiệp vụ, các khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi ro tiềm tàng cao [Xem Phụ lục số 01].
16. Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:
+ Trên phương diện báo cáo tài chính:
- Sự liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán;
- Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi [nếu có] của họ.
- Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo tài chính không trung thực;
- Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ;
- Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị, như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.
+ Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ:
- Báo cáo tài chính có thể chứa đựng những sai sót, như: Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước; báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán, hoặc trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán;
- Việc xác định số dư và số phát sinh của các tài khoản và nghiệp vụ kinh tế, như: Số dư các tài khoản dự phòng, nghiệp vụ kinh tế đối với chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu TSCĐ tính vào chi phí hay tính tăng nguyên giá TSCĐ,...;
- Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản, như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài,...;
- Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia, như: xảy ra kiện tụng hoặc trộm cắp,...;
- Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường và phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ;
- Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ
17. Kiểm soát nội bộ trong hệ thống kế toán nhằm đảm bảo:
- Nghiệp vụ kinh tế, tài chính được thực hiện sau khi đã có sự chấp thuận của những người có thẩm quyền;
- Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được ghi chép kịp thời, đầy đủ và chính xác vào các tài khoản trong kỳ kế toán phù hợp, làm cơ sở lập báo cáo tài chính phù hợp với chế độ kế toán theo qui định hiện hành;
- Chỉ được tiếp cận trực tiếp với tài sản hay tài liệu kế toán khi có sự đồng ý của Ban Giám đốc;
- Các tài sản ghi trong sổ kế toán được đối chiếu với tài sản theo kết quả kiểm kê thực tế ở những thời điểm nhất định và có biện pháp thích hợp để xử lý nếu có chênh lệch.
Hạn chế tiềm tàng của Hệ thống kiểm soát nội bộ
18. Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không thể đảm bảo hoàn toàn đạt được mục tiêu quản lý là do những hạn chế tiềm tàng của hệ thống đó, như:
- Yêu cầu thông thường là chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ không được vượt quá những lợi ích mà hệ thống đó mang lại;
- Phần lớn các thủ tục kiểm soát nội bộ thường được thiết lập cho các nghiệp vụ thường xuyên, lặp đi, lặp lại, hơn là các nghiệp vụ không thường xuyên;
- Sai sót bởi con người thiếu chú ý, đãng trí khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, hoặc do không hiểu rõ yêu cầu công việc;
- Khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ không phát hiện được sự thông đồng của thành viên trong Ban quản lý hoặc nhân viên với những người khác trong hay ngoài đơn vị;
- Khả năng người chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ lạm dụng đặc quyền của mình;
- Do thay đổi cơ chế và yêu cầu quản lý làm cho các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu hoặc bị vi phạm.
Hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán
19. Trong phạm vi kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên chủ yếu quan tâm đến các chính sách, thủ tục của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ có liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính. Việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán và việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát sẽ giúp cho kiểm toán viên:
- Xác định được phạm vi kiểm toán cần thiết đối với những sai sót trọng yếu có thể tồn tại trong báo cáo tài chính;
- Xem xét những nhân tố có khả năng gây ra sai sót trọng yếu;
- Xây dựng các thủ tục kiểm toán thích hợp.
20. Khi tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ để lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên sẽ hiểu biết được việc thiết kế và thực hiện của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Điều đó giúp cho kiểm toán viên xác định được khối lượng các nghiệp vụ kinh tế tài chính cần được kiểm tra cũng như việc thiết lập các thủ tục kiểm tra cần thiết.
21. Nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ có thể thay đổi tuỳ theo các điều kiện cụ thể sau :
- Quy mô, tính chất phức tạp của đơn vị và của hệ thống tin học của đơn vị [Ví dụ: áp dụng chương trình vi tính từng phần hoặc toàn bộ; sử dụng từng máy đơn lẻ hoặc nối mạng, ...];
- Mức độ trọng yếu theo xác định của kiểm toán viên và công ty kiểm toán ;
- Các loại kiểm soát nội bộ [Ví dụ: Kiểm soát hàng mua, hàng bán; kiểm soát tiền mặt, ...];
- Nội dung các qui định của đơn vị đối với những thủ tục kiểm soát cụ thể [Ví dụ: Quy trình mua hàng, quy trình bán hàng, quy trình nhập kho, quy trình xuất kho, ...];
- Mức độ nhiều hay ít của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, việc lưu giữ các tài liệu kiểm soát nội bộ của khách hàng;
- Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng là cao hay thấp.
22. Để hiểu biết về hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên phải dựa vào:
- Kinh nghiệm và hiểu biết của mình trước đây về lĩnh vực hoạt động và về đơn vị;
- Nội dung và kết quả trao đổi với Ban Giám đốc, với các phòng, ban và đối chiếu với các tài liệu liên quan;
- Việc kiểm tra, xem xét các tài liệu, các thông tin do hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ cung cấp;
- Việc quan sát các hoạt động và nghiệp vụ của đơn vị, như: tổ chức hệ thống thông tin, quản lý nhân sự, hệ thống kiểm soát nội bộ, quá trình xử lý các nghiệp vụ kinh tế, giao dịch giữa các bộ phận trong đơn vị.
23. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm soát.
Môi trường kiểm soát
24. Kiểm toán viên phải hiểu biết về môi trường kiểm soát của đơn vị để đánh giá nhận thức, quan điểm, sự quan tâm và hoạt động của thành viên Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ.
Các nhân tố chủ yếu để đánh giá môi trường kiểm soát:
- Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc và các phòng ban chức năng của đơn vị;
- Tư duy quản lý, phong cách điều hành của thành viên Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc;
- Cơ cấu tổ chức và quyền hạn, trách nhiệm của các bộ phận trong cơ cấu đó;
- Hệ thống kiểm soát của Ban quản lý bao gồm tất cả các bộ phận quản lý, kiểm soát, chức năng của kiểm toán nội bộ, chính sách và thủ tục liên quan đến nhân sự và sự phân định trách nhiệm;
- Ảnh hưởng từ bên ngoài đơn vị như chính sách của Nhà nước, chỉ đạo của cấp trên hoặc cơ quan quản lý chuyên môn;
- ...
Hệ thống kế toán
25. Kiểm toán viên phải hiểu biết về hệ thống kế toán và việc thực hiện công việc kế toán củađơn vị để xác định được:
-Các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
-Nguồn gốc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
-Tổ chức bộ máy kế toán;
-Tổ chức công việc kế toán, gồm: Hệ thống chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, sổ kế toán và hệ thống báo cáo tài chính;
-Quy trình kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu và các sự kiện từ khi phát sinh đến khi lập và trình bày báo cáo tài chính.
Thủ tục kiểm soát
26.Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây dựng kế hoạch kiểmtoán tổng thể và chương trình kiểm toán.Kiểm toán viên dựa vào hiểu biết của mình về môi trường kiểm soát để xác định những thủ tục kiểm soát đã được đơn vị thiết lập và những thủ tục còn thiếu, cần thiết phải bổ sung thêm. [Ví dụ: Khi tìm hiểu về quy trình kế toán tiền gửi ngân hàng, kiểm toán viên sẽ kết hợp xem xét thủ tục đối chiếu với ngân hàng có được thiết lập và thực hiện không?].
Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao gồm:
- Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu, tài liệu liên quan đến đơn vị;
- Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán;
- Kiểm tra chương trình ứng dụng và môi trường tin học;
- Kiểm tra số liệu giữa sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết;
- Kiểm tra và phê duyệt các chứng từ kế toán, tài liệu kế toán;
- Đối chiếu số liệu nội bộ với bên ngoài;
- So sánh, đối chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán;
- Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài sản và tài liệu kế toán;
- Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch.
Khi xem xét các thủ tục kiểm soát, phải xem các thủ tục này có được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc cơ bản, như: chế độ thủ trưởng, nguyên tắc phân công, phân nhiệm, nguyên tắc tách biệt về trách nhiệm, nguyên tắc phân cấp, uỷ quyền,...
Rủi ro kiểm soát
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát
27. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc đánh giá hiệu quả hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trong việc ngăn ngừa hoặc phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm soát thường không hoàn toàn được loại trừ do sự hạn chế tiềm tàng của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
28. Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu.
29. Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ cao đối với cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính trong trường hợp:
- Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ;
- Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không hiệu quả;
- Kiểm toán viên không được cung cấp đầy đủ cơ sở để đánh giá sự đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng.
[Xem Phụ lục số 01]
30. Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao đối với cơ sở dẫn liệucủa báo cáo tài chính trong trường hợp:
-Kiểm toán viên có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu;
-Kiểm toán viên có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát.
Lưu giữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát
31.Kiểm toán viên phải ghi chép và lưu lại trong hồ sơ kiểm toán:
-Những kết quả đạt được trong việc tìm hiểu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán;
-Những nhận xét và đánh giá về rủi ro kiểm soát của kiểm toán viên.Trường hợp rủi ro kiểm soát được đánh giá không cao thì kiểm toán viên cũng phải ghi chép và lưu lại các tài liệu làm cơ sở cho việc đánh giá này.
32. Kiểm toán viên có quyền lựa chọn kỹ thuật khác nhau để lưu trữ thông tin liên quan đến hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Hình thức và phạm vi lưu trữ tài liệu về đánh giá rủi ro kiểm soát tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp của đơn vị và của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. [Ví dụ: Nếu hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ càng phức tạp thì quy trình kiểm tra của kiểm toán viên càng mở rộng và do đó tài liệu kiểm toán phải lập và thu thập càng nhiều hơn].
Thử nghiệm kiểm soát
33. Kiểm toán viên phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát để thu thập đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trên các phương diện:
-Thiết kế:Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được thiết kế sao cho có đủ khả năng ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu;
-Thực hiện:Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và hoạt động một cách hữu hiệu trong suốt thời kỳ xem xét.
34. Ngoài các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên có thể thực hiện các thủ tục kiểm toán khác để thu thập đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của việc thiết kế và thực hiện của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, như thu thập bằng chứng thông qua việc thu thập thông tin và quan sát các hoạt động của các hệ thống này.
35. Trường hợp kiểm toán viên nhận thấy những thủ tục đã thực hiện cung cấp đầy đủ bằng chứng về tính hiệu quả của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính thì có thể sử dụng những bằng chứng này để chứng minh cho việc đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức thấp hoặc trung bình.
36. Thử nghiệm kiểm soát bao gồm:
- Kiểm tra chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế và các sự kiện để thu được bằng chứng kiểm toán về hoạt động hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, ví dụ kiểm tra các chứng từ liên quan đến phiếu chi tiền có được phê duyệt đầy đủ hay không;
- Phỏng vấn, quan sát thực tế việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm soát của những người thực thi công việc kiểm soát nội bộ xem có để lại bằng chứng kiểm soát hay không;
- Kiểm tra lại việc thực hiện thủ tục kiểm soát nội bộ, ví dụ kiểm tra lại bảng đối chiếu tiền gửi của đơn vị với ngân hàng, xem xét lại biên bản kiểm kê quỹ, kiểm kê hàng tồn kho, đối chiếu lại công nợ để đảm bảo rằng chúng có được đơn vị thực hiện hay không.
37.Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng minh choviệc đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao. Việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát càng thấp thì kiểm toán viên càng phải chứng minh rõ là hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ đã được thiết kế phù hợp và hoạt động hiệu quả.
38. Để chứng minh là hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả, kiểm toán viên phải xem xét cụ thể các thủ tục kiểm soát nội bộ đang áp dụng, tính nhất quán trong việc áp dụng các thủ tục và người thực hiện kiểm soát trong suốt niên độ. Hệ thống kiểm soát nội bộ có thể vẫn được đánh giá là có hiệu quả ngay cả khi thực hiện chưa đầy đủ các qui định do có sự thay đổi nhân sự chủ chốt; do hoạt động mang tính thời vụ hoặc do sai sót của con người. Trường hợp có những biến động như nêu trên, kiểm toán viên phải xem xét riêng từng trường hợp, đặc biệt là khi có thay đổi nhân sự phụ trách kiểm soát nội bộ thì kiểm toán viên phải thực hiện các thử nghiệm kiểm soát trong thời gian có sự thay đổi đó.
39. Mục tiêu thử nghiệm kiểm soát không thay đổi, nhưng thủ tục kiểm toán có thể thay đổi khi công việc kế toán và kiểm soát nội bộ được thực hiện trong môi trường tin học hoặc thực hiện thủ công. Khi công việc kế toán và kiểm soát nội bộ được thực hiện trên máy vi tính thì kiểm toán viên có thể sử dụng kỹ thuật kiểm toán bằng máy vi tính để thu thập bằng chứng đánh giá hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
40.Dựa trên kết quả các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên phải xác định xem hệ thống kiểm soát nội bộ có được thiết kế và thực hiện phù hợp với đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát hay không.Nếu có thay đổi lớn thì kiểm toán viên phải xem xét lại mức độ rủi ro kiểm soát và phải thay đổi nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản đã dự kiến.
Đánh giá cuối cùng về rủi ro kiểm soát
41.Trước khi rút ra kết luận kiểm toán, kiểm toán viên phải dựa vào kết quả các thử nghiệmcơ bản và những bằng chứng kiểm toán khác để khẳng định lại quá trình đánh giá của mình về rủi ro kiểm soát.
Mối liên hệ giữa rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
42. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có liên hệ chặt chẽ với nhau nên kiểm toán viên cần kết hợp cùng lúc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát .
Rủi ro phát hiện
43.Mức độ rủi ro phát hiện có liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên.
Kiểm toán viên phải dựa vào đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để xácđịnh nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được.
Để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán, kiểm toán viên cần xem xét:
- Nội dung thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục thu thập tài liệu, hoặc xác nhận thông tin từ bên ngoài độc lập với đơn vị có giá trị cao hơn là thu thập tài liệu trong nội bộ đơn vị; hoặc kết hợp kết quả kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ và số dư với thủ tục phân tích;
- Lịch trình của thử nghiệm cơ bản, ví dụ thủ tục kiểm tra số dư hàng tồn kho cuối năm được thực hiện vào cuối niên độ kế toán có giá trị cao hơn là thực hiện kiểm tra vào một thời điểm khác và phải điều chỉnh;
- Phạm vi thử nghiệm cơ bản, ví dụ xác định cỡ mẫu kiểm tra rộng hơn là hẹp.
Tuy nhiên, khó có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro phát hiện ngay cả khi kiểm toán viên kiểm tra chi tiết toàn bộ các nghiệp vụ và số dư tài khoản.
44. Mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví dụ: khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao thì rủi ro phát hiện có thể được đánh giá ở mức độ thấp để giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì có thể chấp nhận mức độ rủi ro phát hiện cao hơn nhưng vẫn đảm bảo giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được [Xem Phụ lục số 01].
45. Mục tiêu của thử nghiệm cơ bản và thử nghiệm kiểm soát là khác nhau, nhưng kết quả thu được từ hai loại thử nghiệm này có thể bổ sung cho nhau trong việc thực hiện đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví dụ: Những sai sót phát hiện được trong thử nghiệm cơ bản có thể buộc kiểm toán viên phải xem xét lại đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát.
46.Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dù được đánh giá ở mức độ thấp nhất thì kiểm toánviên vẫn phải thực hiện thử nghiệm cơ bản đối với các loại nghiệp vụ và số dư các tài khoản trọng yếu.
47. Đánh giá của kiểm toán viên về các loại rủi ro có thể thay đổi trong quá trình thực hiện kiểm toán. Ví dụ: khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, nếu phát hiện thêm những thông tin khác biệt lớn so với thông tin ban đầu thì kiểm toán viên phải thay đổi kế hoạch thực hiện thử nghiệm cơ bản cho phù hợp với việc đánh giá lại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
48. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá càng cao thì kiểm toán viên càng phải thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán từ các thử nghiệm cơ bản . Khi kiểm toán viên xác định rằng không thể giảm rủi ro phát hiện liên quan đến cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính, đến số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ trọng yếu đến mức có thể chấp nhận được thì kiểm toán viên phải đưa raý kiến chấp nhận từngphần hoặc ý kiến từ chối.
Rủi ro kiểm toán trong đơn vị có quy mô nhỏ
49. Mức độ đảm bảo đưa ra ý kiến nhận xét của kiểm toán viên về báo cáo tài chính là như nhau đối với mọi quy mô của đơn vị kiểm toán. Hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị lớn thường không phù hợp với đơn vị nhỏ [Ví dụ: Trong đơn vị lớn, người làm kiểm soát thường độc lập với người làm kế toán, trong khi đơn vị nhỏ, người làm kế toán có thể kiêm nhiệm công việc kiểm soát đã làm hạn chế vai trò của kiểm soát nội bộ. Trong đơn vị nhỏ, công việc kiểm soát thường được tập trung vào một số ít người]. Trường hợp công việc kiểm soát nội bộ bị giới hạn bởi việc không phân chia nhiệm vụ thì ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính phải hoàn toàn dựa trên bằng chứng thu thập được từ thử nghiệm cơ bản.
Thông báo các hạn chế phát hiện được
50. Trong quá trình tìm hiểu hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và thực hiện thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên có thể phát hiện ra các hạn chế của hệ thống.Khi đó, kiểm toán viên phải thông báo trong thời gian nhanh nhất cho ngườicó trách nhiệm của đơn vị về những hạn chế chủ yếu trong thiết kế và thực hiện của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Việc thông báo phải thực hiện bằng văn bản. Nếu xét thấy chỉ cần thông báo bằng lời nói thì nội dung thông báo cũng phải được lưu lại bằng giấy trong hồ sơ kiểm toán./.

Phụ lục số 01
Mối liên hệ giữa các loại rủi ro
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:


Đánh giá của kiểm toán viên về
rủi ro kiểm soát

Cao

Trung bình

Thấp

Đánh giá của
kiểm toán viên về
rủi ro tiềm tàng

Cao

Thấp nhất

Thấp

Trung bình

Trung bình

Thấp

Trung bình

Cao

Thấp

Trung bình

Cao

Cao nhất


Trong đó:
. Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành 3 mức: Cao, trung bình và thấp.
. Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
. Loại rủi ro phát hiện được chia thành 5 mức: Cao nhất, cao, trung bình, thấp và thấp nhất.
Mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ví dụ: Trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá làcaovà mức độ rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá làthấpthì mức độ rủi ro phát hiện có thể đánh giá làtrung bìnhnhằm giảm rủi ro kiểm toán xuốngthấpđến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro tiềm tàng làthấpvà rủi ro kiểm soát được đánh giá làtrung bìnhthì có thể xác định mức độ rủi ro phát hiện làcaonhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán làthấpcó thể chấp nhận được./.

Sưu Tầm: Ngọc Thiện _ P.BKS_ BP.IT

Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát trong kiểm toán báo cáo tài chính.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [297.75 KB, 40 trang ]

Lời nói đầu
Kiểm soát nội bộ là một chức năng của quản lý, trong phạm vi cơ sở, kiểm
soát nội bộ là việc tự kiểm tra và giám sát mọi hoạt động trong tất cả các khâu của
quá trình quản lý nhằm đảm bảo các hoạt động đúng luật pháp và đạt đợc các kế
hoạch mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất và bảo đảm sự tin cậy của báo cáo tài
chính.
Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt thì rủi ro
kiểm soát đợc đánh giá ở mức thấp, khi đó kiểm toán viên có thể thu hẹp phạm vi,
nội dung, khối lợng công việc kiểm toán đồng thời tiết kiệm chi phí kiểm toán và
ngợc lại. Mặt khác, nếu đánh giá không đúng về tình hình, độ tin cậy của hệ thống
kiểm soát nội bộ và rủi ro kiểm soát thì kiểm toán viên có thể sẽ bỏ sót những nội
dung trọng yếu và không tránh khỏi rủi ro kiểm toán. Do vậy việc kiểm toán viên
có đợc sự hiểu biết và cách đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ có ý nghĩa rất quan
trọng trong quá trình kiểm toán.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề này trong lý luận và thực tiễn, em
đã chọn đề tài Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm
soát trong kiểm toán báo cáo tài chính. Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề án đợc
chia làm hai phần:
- Phần 1: Tổng quan về hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Phần 2: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá rủi ro kiểm soát.
1
Phần I
Tổng quan về hệ thống kiểm soát nội bộ
1.1. Vai trò của việc nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ
của khách hàng trong quy trình kiểm toán
Kiểm soát nội bộ là một công cụ quản lý do chính ngời quản lý đơn vị xây
dựng để phục vụ cho mục đích quản lý của mình. Tuy nhiên, kiểm soát nội bộ của
đơn vị có một ảnh hởng khá lớn đến kiểm toán viên: Đó là một cơ sở để lập kế
hoạch kiểm toán và đánh giá rủi ro kiểm soát .
Để lập kế hoạch kiểm toán sát với thực tế, kiểm toán viên phải dựa trên


những hiểu biết sâu sắc về đơn vị, trong đó hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ
là một nội dung quan trọng.
Thứ nhất, dựa trên những hiểu biết về thủ tục kiểm soát, hệ thống kế toán
và môi trờng kiểm soát chung, kiểm toán viên sẽ thiết kế đợc những thủ tục kiểm
soát thích hợp đánh giá đợc khối lợng và độ phức tạp của công việc kiểm toán để
từ đó xác định đợc kế hoạch thời gian cho cuộc kiểm toán.
Thứ hai, qua nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị, kiểm toán
viên xác định đợc điểm mạnh điểm yếu của nó để xác định trọng tâm cho cuộc
kiểm toán, đây là một nền tảng của kế hoạch kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Rủi ro kiểm soát là khả
năng xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trên báo cáo
tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm
soát nội bộ của đơn vị không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện ngăn chặn và
sửa chữa kịp thời. Hệ thống kiểm soát nội bộ càng hữu hiệu thì rủi ro kiểm soát
càng nhỏ, ngợc lại rủi ro kiểm soát càng cao thì hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn
vị hoạt động càng yếu kém.
Kiểm toán viên phải tìm hiểu và đánh giá rủi ro kiểm soát để xác định ph-
ơng hớng và phạm vi kiểm tra. Trong trờng hợp rủi ro kiểm soát cao, kiểm toán
viên phải tăng cờng và mở rộng phạm vi kiểm tra để phát hiện đợc các sai sót
trọng yếu trên báo cáo tài chính. Ngợc lại, rủi ro kiểm soát thấp nghĩa là đơn vị có
một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu, kiểm toán viên có thể giới hạn phạm vi
kiểm tra mà vẫn đảm bảo giới hạn sai sót ở mức độ cho phép.
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế đã quy định rõ kiểm toán viên cần nghiên
cứu đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp một cách thấu đáo, có tổ
chức. Kiểm toán viên dựa vào kết qủa nghiên cứu này để xác định nội dung, phạm
vi và thời gian cho các phơng pháp kiểm toán sẽ thực hiện.
2
Chuẩn mực cũng thừa nhận rằng có những quy chế kiểm soát nội bộ của
doanh nghiệp mà kiểm toán viên không thể tin cậy đợc. Tuy nhiên ở hầu hết các
doanh nghiệp ngời ta không thể hoàn tất công việc kiểm toán khi không dựa vào

hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp đó, vì vậy cần phải nghiên cứu đánh
giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Hiển nhiên là ở các doanh nghiệp khác nhau thì
loại hình và sự phức tạp của hệ thống kiểm soát nội bộ ở đó cũng khác nhau.
Kiểm soát nội bộ là công cụ các nhà quản lý sử dụng trong hoạt động kinh
doanh. Nó đợc thiết lập ra trớc hết không phải chỉ phục vụ cho các kiểm toán viên
hoàn tất công tác kiểm toán. Kiểm toán viên cần cân nhắc những phần mà kiểm
soát nội bộ có thể giúp ích cho mục đích kiểm toán của mình.
1.2. Bản chất của hệ thống kiểm soát nội bộ
Trong mọi hoạt động của doanh nghiệp, chức năng kiểm tra kiểm soát luôn
giữ vai trò quan trọng trong quá trình quản lý và đợc thực hiện chủ yếu bởi hệ
thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam [VSA 400]: Hệ thống kiểm soát nội
bộ là các quy định và thủ tục kiểm soát do đơn vị dợc kiểm toán xây dựng và áp
dụng nhằm bảo đảm cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các qui định, để kiểm tra,
kiểm soát, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót; để lập báo cáo tài chính trung
thực và hợp lý; nằm bảo vệ, quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản của đơn vị.
Theo Liên đoàn Kế toán Quốc tế [IFAC]: Hệ thống kiểm soát nội bộ là
một hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu sau: bảo vệ tài sản của đơn
vị; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin; bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp
lý; và bảo đảm hiệu qủa của các hoạt động.
Cả hai định nghĩa trên đều cho thấy kiểm soát nội bộ là một chức năng th-
ờng xuyên của các đơn vị, tổ chức và trên cơ sở xác định rủi ro có thể xảy ra trong
từng khâu công việc để tìm ra biện pháp ngăn chặn nhằm thực hiện có hiệu quả tất
cả các mục tiêu đặt ra của đơn vị:
1] Bảo vệ tài sản của đơn vị:
Tài sản của đơn vị gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình, chúng có thể bị
đánh cắp, lạm dụng hoặc bị h hại nếu không đợc bảo vệ bởi các hệ thống kiểm
soát thích hợp. Điều này cũng có thể xảy ra đối với các tài sản phi vật chất khác
nh: sổ sách kế toán, các tài liệu quan trọng
2] Bảo đảm độ tin cậy của các thông tin:

Thông tin kinh tế, tài chính do bộ máy kế toán cung cấp là căn cứ quan
trọng cho việc hình thành các quyết định của các nhà quản lý. Các thông tin này
phải đảm bảo tính kịp thời, tính chính xác, tin cậy, phản ánh đầy đủ và khách quan
các nội dung chủ yếu của mọi hoạt động kinh tế, tài chính.
3
3] Bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý:
Hệ thống kiểm soát nội bộ đợc thiết kế trong doanh nghiệp phải đảm bảo
các quyết định và chế độ pháp lý liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp phải đợc tuân thủ đúng mức. Cụ thể là:
- Duy trì và kiểm tra việc tuân thủ các chính sách có liên quan đến các hoạt
động của doanh nghiệp;
- Ngăn chặn và phát hiện kịp thời cũng nh xử lý các sai sót và gian lận trong
mọi hoạt động của doanh nghiệp;
- Bảo đảm việc ghi chép kế toán đầy đủ, chính xác và việc lập báo cáo tài
chính trung thực, khách quan.
4] Bảo đảm hiệu quả hoạt động và năng lực quản lý:
Các quá trình kiểm soát trong một đơn vị đợc thiết kế nhằm ngăn ngừa sự
lặp lại không cần thiết của các tác nghiệp gây ra sự lãng phí trong hoạt động và sử
dụng kém hiệu quả các nguồn lực trong doanh nghiệp. Định kỳ, các nhà quản lý
thờng đánh giá kết quả hoạt động của doanh nghiệp đợc thực hiện với cơ chế giám
sát của hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm nâng cao khả năng quản lý, điều hành của
bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Tuy nằm trong một thể thống nhất song bốn mục tiêu trên đôi khi cũng có
mâu thuẫn với nhau nh giữa tính hiệu quả của hoạt động với mục đích bảo vệ tài
sản, sổ sách hoặc cung cấp thông tin đầy đủ và tin cậy. Nhiệm vụ của các nhà
quản lý là xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu và kết hợp hài hoà
bốn mục tiêu trên.
Khi tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng, kiểm toán viên
cần nhận thức đợc rằng mọi hệ thống kiểm soát nội bộ dù đợc thiết kế hoàn hảo
đến đâu cũng không thể ngăn ngừa hay phát hiện mọi sai phạm có thể xảy ra, đó là

những hạn chế cố hữu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Theo Chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, những hạn chế đó đợc xác
định nh sau:
- Ban giám đốc thờng yêu cầu chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ không
vựơt quá những lợi ích mà hệ thống đó mang lại.
- Phần lớn các công tác kiểm tra nội bộ thờng tác động đến các nghiệp vụ
lặp đi lặp lại mà không tác động đến các nghiệp vụ bất thờng.
- Sai sót bởi con ngời thiếu chú ý đãng trí, sai sót về xét đoán hoặc do
không hiểu rõ yêu cầu công việc.
- Khả năng vợt tầm kiểm soát của hệ thống kiểm soát nội bộ, sự thông đồng
của một ngời trong ban Giám đốc hay một nhân viên với những ngời khác ở trong
hay ngoài đơn vị.
- Khả năng những ngời chịu trách nhiệm thực hiện kiểm soát nội bộ lạm
dụng đặc quyền của mình.
4
- Do có sự biến động của tình hình, các thủ tục kiểm soát bị lạc hậu hoặc bị
vi phạm.
1.3. Các khái niệm cơ bản.
Có bốn khái niệm cơ bản làm cơ sở cho việc nghiên cứu hệ thống kiểm soát
nội bộ và quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát.
1.3.1. Trách nhiệm của ban Giám đốc.
Ban Giám đốc, không phải kiểm toán viên, phải xây dựng và duy trì các quá
trình kiểm soát của tổ chức. Khái niệm này là phù hợp với quy định là ban Giám
đốc, không phải kiểm toán viên, có trách nhiệm đối với việc soạn thảo báo cáo tài
chính phù hợp với các nguyên tắc kế toán đợc thừa nhận.
1.3.2. Sự đảm bảo hợp lý
Một công ty phải triển khai một hệ thống kiểm soát nội bộ mà cung cấp sự đảm
bảo hợp lý, không phải đảm bảo tuyệt đối, là các báo cáo tài chính đợc trình bày trung
thực. Hệ thống kiểm soát nội bộ đợc Ban Giám đốc khai triển sau khi đã nghiên cứu cả
chi phí lẫn lợi ích của quá trình kiểm soát. Ban Giám đốc thờng không sẵn sàng thực

hiện một hệ thống lý tởng vì chi phí có thể rất lớn.
Ví dụ, đối với kiểm toán viên, trông chờ ban Giám đốc của một công ty nhỏ
thuê thêm nhân viên kế toán để mang lại một sự cải tiến nhỏ về độ tin cậy của số
liệu kế toán là điều không hợp lý. Thờng có nhiều kiểm toán viên để thực hiện các
cuộc kiểm toán bao quát hơn sẽ đỡ tốn kém hơn so với việc để phát sinh chi phí
kiểm soát nội bộ cao hơn.
1.3.3. Những giới hạn cố hữu
Một hệ thống kiểm soát nội bộ không thể đợc xem là hoàn toàn hiệu quả mà
không cần xét đến sự thận trọng đã đợc tuân thủ khi thiết kế và khi vận dụng nó.
Cho dù các hệ thống do con ngời có thể thiết kế ra là một hệ thống lý tởng, tính
hiệu quả của nó vẫn phụ thuộc vào khả năng và tính độc lập của những ngời sử
dụng nó.
Ví dụ, giả sử một thủ tục kiểm kê hàng tồn kho đợc triển khai một cách
thận trọng và qui định hai nhân viên đếm độc lập với nhau. Nếu không ai trong hai
ngời này hiểu đợc lệnh hoặc nếu cả hai đều bất cẩn khi đếm, thì con số đếm đợc
của hàng tồn kho có khả năng sai. Cho dù con số đếm đợc là đúng, ban Giám đốc
vẫn không thể không quan tâm đến thủ tục đó và chỉ đạo cho một nhân viên tăng
con số đếm đợc lên để nâng mức thu nhập báo cáo. Tơng tự các nhân viên có thể
quyết định tăng con số đếm đợc lên một cách cố ý để che dấu việc ăn cắp hàng tồn
kho do một ngời hoặc cả hai ngời đó thực hiện. Điều này đợc gọi là sự thông đồng.
5
Vì những hạn chế cố hữu của những quá trình kiểm soát và vì kiểm toán
viên không thể có nhiều hơn sự đảm bảo hợp lý về tính hiệu qủa của các quá trình
đó, nên hầu nh luôn luôn có một mức độ rủi ro kiểm soát. Do đó, cả với hệ thống
kiểm soát nội bộ đợc thiết kế hiệu quả nhất, kiểm toán viên vẫn phải thu thập bằng
chứng kiểm toán ngoài việc khảo sát các quá trình kiểm soát đối với hầu hết các
mục tiêu kiểm toán của từng tài khoản trọng yếu trên báo cáo tài chính. Nói cách
khác, phần rủi ro kiểm soát [CR] của mô hình rủi ro kiểm toán luôn luôn lớn hơn
0.
1.3.4. Phơng pháp xử lý số liệu.

Các khái niệm kiểm soát đợc bàn đến áp dụng tơng tự nh nhau đối với các
hệ thống thủ công và hệ thống máy vi tính [EDP]. Có một điểm khác nhau chính
giữa một hệ thống thủ công đơn giản ở một công ty nhỏ với hệ thống phức tạp
EDP ở các doanh nghiệp lớn. Các thử nghiệm kiểm soát không thay đổi, nhng thủ
tục kiểm toán có thể thay đổi khi công việc kế toán và kiểm soát nội bộ đợc thực
hiện trong môi trờng tin học hoặc thực hiện thủ công. Khi công việc kế toán và
kiểm soát nội bộ đợc thực hiện trên máy vi tính thì kiểm toán viên có thể sử dụng
kỹ thuật kiểm toán bằng máy vi tính để thu thập bằng chứng đánh giá hiệu quả của
hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.4. các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm soát nội bộ
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 nêu rõ: Hệ thống kiểm soát nội
bao gồm các yếu tố: môi trờng kiểm soát, hệ thống kế toán và các thủ tục kiểm
soát.
1.4.1. Môi trờng kiểm soát
Môi trờng kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong đơn vị và bên
ngoài đơn vị có tính môi trờng tác động đến việc thiết kế hoạt động và xử lý dữ
liệu của các loại hình kiểm toán nội bộ.
Các nhân tố thuộc môi trờng kiểm soát chung chủ yếu liên quan tới quan
điểm thái độ và nhận thức cũng nh hành động của các nhà quản lý trong doanh
nghiệp. Tính hiệu quả của hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong hoạt động của một
tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các nhà quản lý. Nếu các nhà quản lý cho rằng
công tác kiểm tra, kiểm soát là quan trọng và không thể thiếu đợc đối với mọi hoạt
động thì các thành viên trong đơn vị đó sẽ có nhận thức đúng đắn về hoạt động
kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ mọi quy định cũng nh chế độ đề ra. Ngợc lại, nếu
hoạt động kiểm tra kiểm soát bị coi nhẹ từ phía các nhà quản lý thì chắc chắn các
qui chế về kiểm soát nội bộ sẽ không đợc vận hành một cách có hiệu quả bởi các
thành viên của đơn vị.
6
Môi trờng kiểm soát có ảnh hởng trực tiếp đến hiệu quả của các thủ tục
kiểm soát. Môi trờng kiểm soát mạnh sẽ hỗ trợ đáng kể cho các thủ tục kiểm soát

cụ thể. Tuy nhiên môi trờng kiểm soát mạnh không đồng nghĩa với hệ thống kiểm
soát nội bộ mạnh. Môi trờng kiểm soát mạnh tự nó cha đủ dảm bảo tính hiệu quả
của toàn bộ hệ thống kiểm soát nội bộ .
Các nhân tố trong môi trờng kiểm soát gồm:
a] Các đặc thù về quản lý:
Nhân tố này đề cập tới các quan điểm khác nhau trong điều hành hoạt động
doanh nghiệp của các nhà quản lý. Các quan điểm đó sẽ ảnh hởng trực tiếp đến
chính sách, chế độ, các quy định và cách thức tổ chức kiểm tra, kiểm soát trong
doanh nghiệp. Bởi vì các nhà quản lý và đặc biệt là các nhà quản lý cấp cao nhất
sẽ phê chuẩn các quyết định, chính sách và thủ tục kiểm soát sẽ áp dụng trong
doanh nghiệp.
b] Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức đợc xây dựng hợp lý trong doanh nghiệp sẽ góp phần tạo ra
môi trờng kiểm soát tốt, đảm bảo một hệ thống xuyên suốt từ trên xuống dới trong
việc ban hành các quyết định, triển khai, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các
quyết định đó trong toàn bộ doanh nghiệp. Ngoài ra, nó còn góp phần ngăn ngừa
có hiệu quả các hành vi gian lận và sai sót.
Một cơ cấu tổ chức hợp lý phải thiết lập sự điều hành và kiểm soát trên toàn
bộ hoạt động và các lĩnh vực của doanh nghiệp sao cho không bị chồng chéo hoặc
bỏ trống: thực hiện sự phân chia tách bạch giữa các chức năng, bảo đảm sự độc lập
tơng đối giữa các bộ phận, tạo khả năng kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau trong các b-
ớc thực hiện công việc. Để thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp và có hiệu quả,
các nhà quản lý phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Thiết lập sự điều hành và kiểm soát trên toàn bộ hoạt động của doanh
nghiệp, không bỏ sót lĩnh vực nào, không có sự chồng chéo giữa các bộ phận.
- Thực hiện sự phân chia rành mạch ba chức năng: xử lý nghiệp vụ, ghi chép
sổ và bảo quản tài sản.
- Bảo đảm sự độc lập tơng đối giữa các bộ phận nhằm đạt đợc hiệu quả cao
nhất trong hoạt động của các bộ phận chức năng.
c] Chính sách nhân sự:

Đội ngũ nhân viên gắn liền với sự phát triển của doanh nghiệp và họ là nhân
tố quan trọng trong môi trờng kiểm soát và là chủ thể trực tiếp thực hiện mọi thủ
tục kiểm soát. Nếu nhân viên có năng lực và tin cậy, nhiều quá trình kiểm soát có
thể không cần thực hiện mà vẫn đảm bảo đợc các mục tiêu đề ra của kiểm soát nội
bộ. Bên cạnh đó, mặc dù doanh nghiệp có thiết kế và vận hành các chính sách và
thủ tục kiểm soát chặt chẽ nhng với đội ngũ nhân viên kém năng lực và thiếu trung
thực thì hệ thống kiểm soát nội bộ không thể phát huy hiệu quả.
7
Vì những lý do nêu trên, các nhà quản lý doanh nghiệp cần có chính sách
cụ thể và rõ ràng về tuyển dụng, đào tạo, sắp xếp, đề bạt, khen thởng, kỷ luật nhân
viên.Việc làm này phải phù hợp với năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức,
đồng thời phải mang tính kế tục và liên tiếp.
d] Công tác kế hoạch:
Hệ thống kế hoạch và dự toán, bao gồm các kế hoạch sản xuất, tiêu thụ, kế
hoạch hay dự toán đầu t, sữa chữa tài sản cố định, đặc biệt là kế hoạch tài chính
gồm có những ớc tính cân đối tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự luân
chuyển tiền trong tơng lai là những nhân tố quan trọng trong môi trờng kiểm soát.
Nếu việc lập và thực hiện kế hoạch đợc tiến hành khoa học và nghiêm túc thì hệ
thống kế hoạch và dự toán đó sẽ trở thành công cụ kiểm soát rất hữu hiệu. Vì vậy,
các nhà quản lý thờng quan tâm xem xét tiến độ thực hiện kế hoạch, theo dõi
những nhân tố ảnh hởng đến kế hoạch đã lập nhằm phát hiện những vấn đề bất th-
ờng và xử lý, điều chỉnh kịp thời. Đây cũng là khía cạnh mà kiểm toán viên thờng
quan tâm trong kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp, đặc biệt trong việc áp
dụng các thủ tục phân tích.
e] Bộ phận kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập đợc thiết lập trong đơn vị tiến hành
công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị.
Theo các chuẩn mực thực hành kiểm toán nội bộ do Viện kiểm toán nội bộ
Hoa Kỳ ban hành năm 1978, Kiểm toán nội bộ là một chức năng đánh giá độc
lập đợc thiết kế trong một tổ chức để kiểm tra, đánh giá các hoạt động của tổ

chức nh là một hoạt động phục vụ cho tổ chức . Mục tiêu của kiểm toán nội bộ là
giúp đỡ các thành viên của tổ chức hoàn thành trách nhiệm của họ một cách có
hiệu quả.
Theo liên đoàn kế toán quốc tế [IFAC], kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá đợc lập ra trong một doanh nghiệp nh là một loại dịch vụ cho doanh
nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá, giám sát thích hợp và hiệu quả của
hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ .
Bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát đánh giá thờng xuyên về
toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả của việc thiết kế và vận
hành các chính sách và thủ tục kiểm soát nội bộ. Bộ phận kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ
giúp cho doanh nghiệp có đợc những thông tin kịp thời và xác thực về các hoạt động
trong doanh nghiệp, chất lợng của hoạt động kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ
sung các qui chế kiểm soát thích hợp và hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ
chỉ phát huy tác dụng nếu:
- Về tổ chức bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ để
không bị giới hạn phạm vi hoạt động, đồng thời phải đợc giao một quyền hạn tơng
đối rộng rãi và hoạt động tơng đối độc lập với phòng kế toán và các bộ phận hoạt
động đợc kiểm tra.
8
- Về nhân sự, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn đợc những nhân viên
có năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với các qui định hiện
hành.
f] Uỷ ban kiểm soát:
Uỷ ban kiểm soát bao gồm những ngời trong bộ máy lãnh đạo cao nhất của
đơn vị nh thành viên Hội đồng quản trị nhng không kiêm nhiệm chức vụ quản lý
và những chuyên gia am hiểu về lĩnh vực kiểm soát. Uỷ ban kiểm soát có nhiệm
vụ và quyền hạn: giám sát sự chấp hành luật pháp của công ty; kiểm tra và giám
sát công việc của kiểm toán viên nội bộ; giám sát tiến trình lập báo cáo tài chính;
dung hoà những bất đồng [nếu có] giữa ban Giám đốc với các kiểm toán viên bên
ngoài.

g] Môi trờng bên ngoài:
Các nhân tố bên ngoài tuy không phụ thuộc vào sự kiểm soát của các nhà
quản lý nhng có ảnh hởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của các nhà
quản lý cũng nh sự thiết kế và vận hành các quy chế và thủ tục kiểm soát nội bộ.
Thuộc nhóm các nhân tố này bao gồm: sự kiểm soát của các cơ quan chức năng
của Nhà nớc, ảnh hởng của các chủ nợ, môi trờng pháp lý, đờng lối phát triển của
đất nớc
Nh vậy môi trờng kiểm soát bao gồm toàn bộ các nhân tố có ảnh hởng đến quá
trình thiết kế, vận hành và xử lý dữ liệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh
nghiệp, trong đó nhân tố chủ yếu và quan trọng là nhận thức về hoạt động kiểm tra
kiểm soát và điều hành hoạt động của các nhà quản lý.
1.4.2. Hệ thống kế toán
Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị gồm: hệ thống
chứng từ kế toán, hệ thống sổ kế toán, hệ thống tài khoản kế toán và hệ thống bảng
tổng hợp, cân đối kế toán. Trong đó, quá trình lập và luân chuyển chứng từ đóng vai
trò quan trọng trong công tác kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Mục đích của hệ thống kế toán là nhận biết, thu thập, phân loại, ghi sổ và
báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của tổ chức, thoả mãn chức năng thông tin
và kiểm tra của hoạt động kế toán. Một hệ thống kế toán hữu hiệu phải đảm bảo
các mục tiêu kiểm soát chi tiết sau:
- Tính có thực: cơ cấu kiểm soát không cho phép ghi chép những nghiệp vụ
không có thực vào sổ sách của đơn vị.
- Sự phê chuẩn: mọi nghiệp vụ xảy ra phải đợc phê chuẩn hợp lý.
- Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh.
- Sự đánh giá: báo đảm không có sai phạm trong việc tính toán các khoản
giá và phí.
9
- Sự phân loại: bảo đảm các nghiệp vụ đợc ghi chép theo đúng sơ đồ tài
khoản và ghi nhận đúng đắn ở các loại sổ sách kế toán.

- Tính đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các loại nghiệp vụ kinh tế phát sinh đ-
ợc thực hiện kịp thời theo qui định.
- Quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán đợc ghi vào sổ
phải đợc tổng cộng, chuyển sổ đúng đắn và tổng hợp chính xác.
Bảy mục tiêu chi tiết của hệ thống kiểm soát nội bộ phải đợc áp dụng cho từng
nghiệp vụ trọng yếu trong cuộc kiểm toán, những nghiệp vụ này gồm nghiệp vụ bán
hàng, thu tiền mặt, mua hàng hoá dịch vụ, tiền lơng, Hình 1.1 trình bày các mục tiêu
của hệ thống kiểm soát nội bộ áp dụng cho các nghiệp vụ bán hàng.
Hình 1.1: Các mục tiêu của hệ thống kiểm soát nội bộ áp dụng cho các nghiệp vụ bán hàng.
Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ
dạng tổng quát
Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ
các nghiệp vụ bán hàng
Các nghiệp vụ kinh tế ghi sổ phải có căn cứ
[tính có căn cứ hợp lý]
Doanh thu ghi sổ là của những hàng hoá gửi
cho những khách hàng có thật
Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc phê chuẩn
đúng đắn [sự cho phép]
Các nghiệp vụ bán hàng phải đợc phê chuẩn
đúng đắn
Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc ghi sổ [tính
đầy đủ]
Các nghiệp vụ bán hàng hiện có phải đợc ghi
sổ
Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc đánh giá đúng
đắn [sự đánh giá]
Doanh thu ghi sổ là của của số tiền hàng hoá
đợc gửi đi, đợc tính đúng và ghi sổ chính xác
Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc phân loại đúng

đắn [sự phân loại]
Các nghiệp vụ bán hàng đợc phân loại đúng
đắn
Các loại nghiệp vụ kinh tế phải đợc ghi sổ
đúng lúc [thời gian]
Doanh thu ghi sổ theo căn cứ thời gian
Các nghiệp vụ kinh tế phải đợc ghi đúng đắn
vào sổ phụ và tổng hợp chính xác [sự chuyển
sổ và sự tổng hợp]
Các nghiệp vụ bán hàng phải đợc ghi đúng
đắn vào sổ phụ và đợc tổng hợp chính xác
1.4.3. Các thủ tục kiểm soát
Thủ tục kiểm soát là các quy chế và thủ tục do ban lãnh đạo đơn vị thiết lập
và chỉ đạo thực hiện nhằm đạt đợc mục tiêu quản lý cụ thể.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro kiểm soát nội bộ
quy định: Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây
dựng kế hoạch và chơng trình kiểm toán.Các thủ tục kiểm soát trong doanh
nghiệp rất đa dạng nh: lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu, tài liệu liên
quan đến đơn vị; kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán; kiểm tra chơng
trình ứng dụng vào môi trờng tin học; đối chiếu số liệu nội bộ với bên ngoài; phân
tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch
Có ba nguyên tắc cơ bản cần tuân thủ khi thiết lập các thủ tục kiểm soát:
10
Nguyên tắc phân công, phân nhiệm: Trách nhiệm và công việc cần đợc phân
chia cụ thể cho nhiều bộ phận và cho nhiều ngời trong bộ phận. Việc phân công phân
nhiệm rõ ràng tạo ra sự chuyên môn hoá trong công việc, sai sót ít xảy ra và nếu xảy ra
thờng dễ phát hiện do có sự kiểm tra chéo.
Nguyên tắc bất kiêm nhiệm: Nguyên tắc này qui định sự cách ly thích hợp
về trách nhiệm trong các nghiệp vụ có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm và
hành vi lạm dụng quyền hạn. Ví dụ: trong tổ chức nhân sự không thể bố trí kiêm

nhiệm các nhiệm vụ phê chuẩn và thực hiện, thực hiện và kiểm soát, ghi sổ tài sản
và bảo quản tài sản
Nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn: Theo sự uỷ quyền của các nhà quản lý,
các cấp dới đựơc giao cho quyết định và giải quyết một số công việc trong phạm vi
nhất định. Quá trình uỷ quyền tiếp tục đợc mở rộng xuống cấp các cấp thấp hơn
tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất
đi tính tập trung của doanh nghiệp.
Để tuân thủ tốt các quá trình kiểm soát, mọi nghiệp vụ kinh tế phải đợc phê
chuẩn đúng đắn. Sự phê chuẩn đợc thực hiện qua hai loại, phê chuẩn chung và phê
chuẩn cụ thể. Phê chuẩn là biểu hiện cụ thể của việc quyết định và giải một công
việc trong phạm vi quyền hạn đợc giao. Nguyên tắc này yêu cầu các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh đều đợc uỷ quyền cho các cán bộ phê chuẩn một cách thích hợp.
Trên đây là một số nguyên tắc phổ biến trong việc xây dựng các thủ tục
kiểm soát. Ngoài ra còn có một số nguyên tắc khác ít đợc áp dụng hơn.
Ví dụ: nguyên tắc song ký yêu cầu một số nghiệp vụ phải có sự thoả hiệp
của hai ngời, một ngời phê chuẩn và một ngời kiểm soát. Chẳng hạn trong nghiệp
vụ chi quỹ của các xí nghiệp quốc doanh phải có hai chữ ký: một của giám đốc và
một của kế toán trởng là kiểm soát viên nhà nớc tại đơn vị.
Ngoài quan điểm truyền thống nêu trên về các yếu tố cấu thành hệ thống
kiểm soát nội bộ, còn có một số quan điểm khác trình bày theo hớng chi tiết hoá
theo quan điểm truyền thống. Chẳng hạn công ty kiểm toán Cooper & Lybrand
trong tài liệu Kiểm toán nội bộ [xuất bản năm 1992] xác định 5 yếu tố cấu thành
hệ thống kiểm soát nội bộ: Môi trờng kiểm soát; Đánh giá rủi ro; Các hoạt động
kiểm soát; Hệ thống thông tin và truyền dẫn thông tin; Hệ thống tự giám sát của
kiểm soát nội bộ.
11
Phần II
đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và đánh giá
rủi ro kiểm soát
2.1. Khái quát về quá trình thu thập hiểu biết về hệ thống

kiểm soát nội bộ
2.1.1. Các lý do của việc phải hiểu biết đầy đủ hệ thống kiểm soát nội bộ để
lập kế hoạch kiểm toán
Trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải đánh giá hệ thống kiểm
soát nội bộ và rủi ro kiểm soát không chỉ để xác minh tính hữu hiệu của hệ thống kiểm
soát nội bộ mà còn làm cơ sở cho việc xác định phạm vi thực hiện các thử nghiệm cơ bản
trên số d và nghiệp vụ của đơn vị. Kiểm toán viên phải đạt đợc một sự hiểu biết về hệ
thống kiểm soát nội bộ của Công ty khách hàng theo bốn vấn đề [hình 2.1]:
Có thể kiểm toán đợc. Kiểm toán viên phải thu thập thông tin về tính trung
thực của ban Giám đốc với bản chất và phạm vi của sổ sách kế toán để thoả mãn là
bằng chứng đầy đủ, thích hợp và có sẵn để chứng minh cho các số d trên báo cáo
tài chính .
Các sai phạm nghiêm trọng tiềm tàng. Sự hiểu biết sẽ cho phép kiểm toán
viên nhận diện các loại sai phạm tiềm ẩn mà có thể ảnh hởng đến các báo cáo tài
chính .
12
Xác định liệu mức đánh giá về
rủi ro kiểm soát có được chứng
minh bởi các cuộc khảo sát quá
trình kiểm soát hay không
Rủi ro phát hiện. Rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi
ro kiểm soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đợc đánh giá là cao thì rủi ro phát
hiện có thể đợc đánh giá ở mức thấp để giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có
thể chấp nhận đợc. Ngợc lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đợc đánh giá là thấp
thì có thể chấp nhận mức rủi ro phát hiện cao hơn nhng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán
xuống thấp đến mức có thể chấp nhận đợc.
Thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ đợc dùng để đánh giá rủi ro kiểm
soát đối với từng mục tiêu kiểm soát và rủi ro kiểm soát có ảnh hởng một cách trực
tiếp đến rủi ro phát hiện.
Thiết kế các cuộc khảo sát. Thông tin thu đợc cho phép kiểm toán viên

thiết kế các cuộc khảo sát hiệu quả về các số d trên báo cáo tài chính. Những cuộc
khảo sát này gồm các cuộc khảo sát các chi tiết của nghiệp vụ kinh tế và của số d
cùng các thể thức phân tích và đợc gọi là khảo sát chính thức.
Hình 2.1: Khái quát về việc nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh
giá rủi ro kiểm soát
Không thể kiểm toán
đợc

Có thể kiểm toán đợc
13
Đạt đợc sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội
bộ của khách hàng đủ để lập kế hoạch cho
cuộc kiểm toán các báo cáo tài chính
Đánh giá liệu các báo
cáo tài chính có thể kiểm
toán được hay không
í kiến từ
chối hoặc
rút ra khỏi
hợp đồng
Đánh giá mức độ của rủi ro kiểm soát từ sự hiểu
biết đạt đợc [đánh giá ban đầu] và chi phí của việc
khảo sát các quá trình kiểm soát thích hợp
Đánh giá xem liệu có khả năng mức độ của rủi ro
kiểm soát thấp hơn sẽ đợc chứng minh hay không,
và chi phí để có đợc sự chứng minh đó
Quyết định về mức đánh
giá thích hợp của rủi ro
kiểm soát phải sử dụng
[1] Mức tối đa

[2] Mức đợc chứng minh
bằng sự hiểu biết có đợc
[3] Mức thấp hơn có thể
chứng minh đợc
Mở rộng sự hiểu biết nếu
cần thiết
Lập kế hoạch và thực hiện các
khảo sát quá trình kiểm soát
Xác định liệu mức đánh giá về
rủi ro kiểm soát có được chứng
minh bởi các cuộc khảo sát quá
trình kiểm soát hay không
Không chứng minh

Chứng minh
Chứng minh
Chứng minh

2.1.2. Hiểu biết về cách thiết kế và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Tìm hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ đợc thực hiện trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán. Từng yếu tố của hệ thống kiểm soát nội bộ phải đợc nghiên cứu
và hiểu rõ. Kiểm toán viên phải xem xét hai khía cạnh: [1] thiết kế các chế độ và
thể thức khác nhau trong từng yếu tố của hệ thống kiểm soát, và [2] liệu chúng có
đợc đa vào trong qúa trình hoạt động hay không. Điều này giúp cho kiểm toán
viên xác định đợc khối lợng các nghiệp vụ kinh tế tài chính cần đợc kiểm tra cũng
nh việc thiết lập các thủ tục kiểm tra cần thiết.
Hiểu biết về môi trờng kiểm soát.
Kiểm toán viên sử dụng hiểu biết nh một căn cứ để đánh giá thái độ và nhận
thức của Ban giám đốc đối với tầm quan trọng của kiểm soát.
Ví dụ, kiểm toán viên có thể xác định bản chất của hệ thống dự toán của

khách hàng nh một phần của việc hiểu biết về thiết kế môi trờng kiểm soát. Hoạt
động của hệ thống dự toán khi đó có thể đợc đánh giá một phần bằng cách thẩm
vấn các nhân viên dự toán để xác định các thể thức dự toán và theo dõi các chênh
14
Hình 2.2: Hiểu biết về cách thiết kế và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ
Hiểu biết về môi
trờng kiểm soát
Hiểu biết về hệ
thống kế toán
Hiểu biết về các
thủ tục kiểm soát
Thiết
kế
Hoạt
động
Thiết
kế
Hoạt
động
Thiết
kế
Hoạt
động
Xác định liệu mức đánh giá về
rủi ro kiểm soát có được chứng
minh bởi các cuộc khảo sát quá
trình kiểm soát hay không
Quyết định về rủi ro phát hiện tăng lên
thích hợp và lập kế hoạch các cuộc
khảo sát chính thức để thoả mãn mức

rủi ro phát hiện tăng lên này
Quyết định về rủi ro phát hiện gắn liền
với mức tối đa của rủi ro kiểm soát cao
hơn mức kế hoạch ban đầu và lập kế
hoạch các cuộc khảo sát chính thức để
thoả mãn rủi ro phát hiện
lệch giữa dự toán với thực tế. Kiểm toán viên cũng có thể xem xét các bảng liệt kê
của khách hàng có so sánh kết quả thực tế với dự toán.
Hiểu biết về hệ thống kế toán.
Kiểm toán viên phải hiểu biết về hệ thống kế toán và việc thực hiện công
việc kế toán của đơn vị để xác định đợc:
- Các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
- Nguồn gốc các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu;
- Tổ chức bộ máy kế toán;
- Tổ chức công việc kế toán, gồm: Hệ thống chứng từ kế toán, tài khoản kế
toán, sổ kế toán và hệ thống báo cáo tài chính;
- Quy trình kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu và các sự kiện từ khi phát
sinh đến khi lập và trình bày báo cáo tài chính.
Thông thờng, điều này đợc hoàn thành và chứng minh bằng sự mô tả liệt kê
hệ thống hoặc bằng sơ đồ thể hiện sự phát triển của hệ thống qua các giai đoạn.
Hoạt động của hệ thống kế toán thờng đợc xác định bằng cách theo dõi một hoặc
một số nghiệp vụ kinh tế xuyên suốt hệ thống kế toán [đợc gọi là nghiệp vụ kinh
tế xuyên suốt].
Hiểu biết về các thủ tục kiểm soát.
Các kiểm toán viên có đợc hiểu biết về môi trờng kiểm soát và về hệ thống
kế toán theo một cách tơng tự nh nhau ở hầu hết các cuộc kiểm toán, nhng việc có
đợc một sự hiểu biết về các thủ tục kiểm soát thì lại khác nhau đáng kể. Đối với
những khách hàng có quy mô nhỏ hơn thì thờng chỉ nhận diện đợc rất ít hoặc thậm
chí không có thể thức kiểm soát nào cả vì quá trình kiểm soát thờng không có hiệu
quả do số lợng nhân viên hạn chế. Trong trờng hợp đó, mức đánh giá cao của rủi

ro kiểm soát đợc sử dụng. những khách hàng có các quá trình kiểm soát sâu
rộng và kiểm toán viên tin tởng là những quá trình kiểm soát đó có khả năng tuyệt
vời thì việc nhận diện đợc rất nhiều quá trình kiểm soát trong suốt giai đọan tìm
hiểu các quá trình kiểm soát là điều thích hợp. các cuộc kiểm toán khác, kiểm
toán viên vẫn có thể nhận diện một số lợng quá trình kiểm soát giới hạn trong giai
đọan này rồi sau đó nhận diện thêm các quá trình kiểm soát khác khi công việc
đang tiến triển. Mức độ mà theo đó các quá trình kiểm soát đợc nhận diện là một
vấn đề thuộc về sự phán xét kiểm toán.
2.1.3. Đánh giá và quyết định.
Khi đã đạt đợc sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ, và đủ cho việc lập
kế hoạch kiểm toán, thì có ba đánh giá đặc thù phải đợc thực hiện. Nh ta thấy trên
hình 2.1, chúng cũng đòi hỏi kiểm toán viên phải đề ra một số quyết định nhất
định.
Đánh giá liệu các báo cáo tài chính có kiểm toán đợc hay không: Quá
trình đánh giá đầu tiên là đánh giá liệu công ty đó có thể kiểm toán đợc hay
15
không. Hai yếu tố chính xác định khả năng có thể kiểm toán đợc là tính liêm chính
của ban Giám đốc và tính đầy đủ của sổ sách kế toán. Rất nhiều thể thức kiểm
toán trên chừng mực nào đó dựa vào các kiến nghị của ban Giám đốc.
Ví dụ, đối với kiểm toán viên, sẽ rất khó để đánh giá liệu hàng tồn kho có
lạc hậu hay không nếu không có sự đánh giá trung thực của ban Giám đốc. Nếu
ban Giám đốc thiếu tính trung thực, ban Giám đốc có thể cung cấp những ý kiến
gian dối khiến cho kiểm toán viên phải dựa vào bằng chứng không đáng tin cậy.
Sổ sách kế toán có vai trò nh một nguồn trực tiếp của bằng chứng kiểm toán
cần thiết. Ví dụ, nếu khách hàng không lu giữ bản sao các hóa đơn bán hàng và
hoá đơn của bên bán thì thông thờng không thể thực hiện cuộc kiểm toán trừ phi
kiểm toán viên có thể nhận diện đợc một nguồn thay thế của bằng chứng đáng tin
cậy, hoặc trừ phi sổ sách thích hợp thể đợc xây dựng cho nhu cầu sử dụng của
kiểm toán viên, thì cách duy nhất là cho rằng Công ty không thể kiểm toán đợc.
Khi kết luận là Công ty không thể kiểm toán đợc, kiểm toán viên sẽ tranh

luận về các tình huống với khách hàng [thờng ở cấp cao nhất] và hoặc rút lui khỏi
hợp đồng, hoặc công bố một báo cáo kiểm toán từ chối.
Đánh giá mức độ của rủi ro kiểm soát dựa trên sự hiểu biết đã thu thập đ-
ợc: Sau khi thu đợc một sự hiểu biết về cách thiết kế và vận hành của hệ thống
kiểm soát, kiểm toán viên thực hiện một ớc lợng ban đầu về rủi ro kiểm toán cho
từng mục tiêu kiểm soát chi tiết. Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát bao gồm
việc đánh giá tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ trong việc ngăn ngừa,
phát hiện và sửa chữa các sai phạm trong hoạt động tài chính kế toán của doanh
nghiệp.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 Đánh giá rủi ro và kiểm soát
nội bộ, sau khi hiểu đợc hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên
phải thực hiện đánh gía ban đầu về rủi ro kiểm soát theo các cơ sở dẫn liệu cho số
d của mỗi tài khoản trọng yếu.
Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ đợc thiết kế và vận hành hữu hiệu thì rủi ro
kiểm soát đợc đánh giá thấp và ngợc lại. Công việc này đợc làm riêng rẽ cho từng
loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu trong từng chu trình nghiệp vụ. Ví dụ, kiểm toán
viên thực hiện một quá trình đánh giá mục tiêu có căn cứ hợp lý cho doanh số và
một quá trình đánh giá riêng cho mục tiêu tính đầy đủ. Có nhiều cách khác nhau
để diễn tả mức rủi ro này. Một số kiểm toán viên sử dụng cách diễn đạt chủ quan
nh cao, trung bình hoặc thấp. Một số khác sử dụng các xác suất bằng số nh 100%,
60% hoặc 20%.
Quá trình đánh giá ban đầu thờng bắt đầu bằng việc xem xét môi trờng
kiểm soát. Nếu thái độ của ban Giám đốc cho rằng quá trình kiểm soát là không
quan trọng thì độ tin cậy của các thể thức kiểm soát chi tiết rất đáng nghi ngờ.
Cách tốt nhất là kiểm toán viên giả sử rủi ro kiểm soát của tất cả các mục tiêu đều
ở mức cao nhất [Ví dụ 100%]. Ngợc lại, nếu thái độ của ban Giám đốc là tích cực,
16

Video liên quan

Chủ Đề