Vì sao có câu ăn cơm tàu lấy vợ nhật

Phụ nữ Nhật chiều chồng xuất phát từ văn hóa thời phong kiến

Phụ nữ Nhật ở thời kỳ phong kiến sau khi kết hôn thường có cuộc sống hết sức khổ cực. Về làm vợ, nhưng họ không khác gì người đi ở cho bên nhà chồng, họ thực sự cam chịu bền bỉ mặc dù phải chịu nhiều cực khổ, phải làm hết tất cả mọi việc trong nhà từ sáng sớm cho đến tối mịt. Họ không có tiếng nói trong gia đình chồng,hay đối với chồng, mà chỉ biết phục tùng. Bộ phim “Oshin” được trình chiếu tại Việt Nam phản ánh đúng cuộc sống hôn nhân của phụ nữ Nhật thời đó. Oshin, tên của nhân vật chính đã trở thành một danh từ trong tiếng Việt. Người Việt hay nói đùa với nhau kiểu như:

“Nhà chị có Oshin không?” – Nghĩa là có mướn người làm hay không?. Hài hước hơn, hễ thấy người phụ nữ Nhật nào đó đi qua, nhiều người còn nói đùa là “Oshin kìa”.

Hay thay vì nói đi lao đông cực khổ ở Nhật thì người ta nói là đi “Ði Oshin”.

Có lẽ, nhiều đàn ông Việt Nam còn tính gia trưởng, ngoài công việc chính của mình ra thì chỉ thích tụ tập ăn nhậu, ít giúp vợ những công việc trong nhà. Vậy nên, đàn ông Việt Nam vẫn nói câu “lấy vợ Nhật”, nghĩa là vẫn còn mang tư tưởng muốn có một người phụ nữ phục vụ mình? Những người chưa sang Nhật bao giờ chắc vẫn còn nghĩ về phụ nữ Nhật như thế, điều này hoàn toàn sai. Phụ nữ Nhật hiện đại được thừa hưởng một nền giáo dục tốt nên tư tưởng của họ tiến bộ, họ vẫn sống vì gia đình, nhưng không phục tùng, cam chịu như thời trước.

Đám cưới của một cặp vợ chồng Nhật – Việt

Phụ nữ Nhật Bản hiện đại có tiếng nói trong gia đình còn hơn cả chồng

Xã hội Nhật ngày càng hiện đại, suy nghĩ của người Nhật cũng thay đổi theo. Nam nữ bình đẳng, phụ nữ có tiếng nói trong gia đình, có khi còn hơn cả chồng mình. Vậy nên, họ không chấp nhận những cái cũ không còn phù hợp với hiện tại.

Ngày nay nhiều phụ nữ Nhật Bản không thích kết hôn, thậm chí họ sợ kết hôn. Những người phụ nữ đã từng đi làm không thích nghỉ việc sau khi sinh. Vì đi làm, được tiếp xúc với xã hội, có thu nhập, không phụ thuộc vào đàn ông và không có đán ông họ vẫn sống tốt. Vì thế việc nghỉ làm để sinh con là một điều rất khó khăn đối với phụ nữ Nhật, bởi như thế đồng nghĩa với việc họ sẽ chấm dứt việc làm để ở nhà chăm con, trở thành một bà nội trợ và sống phụ thuộc vào chồng. Nhiều phụ nữ Nhật không chấp nhận điều đó khi mà họ cũng đã chăm chỉ học hành để có được sự nghiệp riêng cho mình.

Nếu như mẫu phụ nữ phong kiến gắn liền với hình ảnh nhu mì, hiền thục, hết lòng tận tụy với gia đình, chồng con, cam chịu khổ cực. Thì người phụ nữ Nhật Bản hiện đại ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Họ thoải mái diện những trang phục mà mình thích, mua sắm mỹ phẩm làm đẹp cho bản thân, thậm chí là giải phẫu thẩm mỹ để tân trang nhan sắc. Thay vì lập gia đình, thì rất nhiều người lựa chọn các cách khác nhau như sống thử để hiểu thêm về đối tượng cũng như trải nghiệm cuộc sống gia đình.

Tỷ lệ phụ nữ Nhật đến độ tuổi kết hôn nhưng vẫn còn độc thân ở Nhật ngày càng cao. Có thể họ ưu tiên việc phấn đấu cho sự nghiệp, không có cơ hội và thời gian để tìm hiểu đối phương, cũng có thể họ thích hưởng thụ cuộc sống, ngại cuộc sống hôn nhân. Vì tuy nói là tiến bộ, nhưng sau khi kết hôn, rốt cuộc phụ nữ cũng vẫn phải bỏ việc để lo cho gia đình. Người Việt Nam mình hay nói, trời sinh voi sinh cỏ. Đó là ngày xưa, và ở nông thôn, chứ câu nói này không đúng ở thời điểm hiện tại nữa. Ở Nhật, nuôi con từ khi chúng sinh ra cho đến khi trưởng thành còn khó hơn cả Việt Nam vì có nhiều ràng buộc của một xã hội hiện đại.

Suy cho cùng, hầu hết phụ nữ Nhật hay Việt, sau khi kết hôn ai cũng vất vả. Phụ nữ Việt Nam khổ là do sống phụ thuộc vào chồng, cả tinh thần lẫn tài chính. Sau khi kết hôn, phụ nữ Việt Nam có xu hướng thường nuông chiều chồng quá mức, giành hết việc trong gia đình để làm, rốt cuộc tự mình làm mình khổ cả đời.

Ca sĩ Hải Triều – tác giả bài viết

Phụ nữ Nhật sau khi kết hôn có sướng hơn không? Cũng không hẳn. Cho dù có tiến bộ đến mấy họ cũng phải chu toàn cho gia đình. Họ tất tả từ sáng sớm cho đến tận khuya, loay hoay với việc nấu ăn cho chồng con, dọn dẹp nhà cửa. Ngoài ra, một đứa trẻ Nhật khi đi học sẽ có rất nhiều hoạt động tại trường và đòi hỏi sự có mặt của cha mẹ.

Cũng bởi thế mà họ đứng giữa hai lựa chọn, một là kết hôn rồi nghỉ việc hiện tại, hai là làm việc và sống độc thân, không nghĩ đến việc kết hôn, sinh con mà vẫn được tiếp tục công việc yêu thích. Cũng chính vì thế mà nhiều phụ nữ Nhật hiện đại chọn cuộc sống độc thân, tập trung hơn cho công việc, trì hoãn kết hôn.

Nhưng tại sao họ có thể sống độc thân được? Một lý do cực kỳ thuyết phục mà phụ nữ Việt chưa có được. Là họ có thể độc độc lập về cả tài chính và tư tưởng. Không có đàn ông họ vẫn sống tốt, vì họ đi làm và có thu nhập và muốn hưởng thụ cuộc sống. Và họ đủ bản lĩnh khi chọn cho mình cuộc sống độc thân.

Văn hóa của người Nhật là chiều khách, chiều bạn… chứ không riêng gì chiều chồng, nhưng họ “chiều” trên sự bình đẳng, hiểu biết chứ không hy sinh có khi đến mù quáng như nhiều phụ nữ Việt Nam.

Nên quý ông nào còn tư tưởng “lấy vợ Nhật” thì các ông đã lạc hậu rồi…

Tôi đoán chừng câu “ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật” đã xuất hiện không lâu trước hoặc sau khi đất nước bị chia đôi và nó đã được lưu truyền rộng rãi ở miền Nam Việt Nam. Thời còn trẻ tô i cũng đã từng hả hê nói câu này vì tôi cho là nó hay. Sau này tôi dần dần cảm thấy đây là câu nói rất vớ vẩn. Tôi còn cho là nó phản văn hoá, phản dân tộc và chất chứa nhiều tác hại ngấm ngầm.

Nói về ăn cơm Tàu. Trước năm 1975 ở miền Bắc chắc không có quán ăn Tàu vì kinh doanh tư nhân bị cấm. Trong khi đó tại miền Nam, thành phố nhỏ nào cũng có phố Tàu phồn thịnh với tiệm buôn, quán ăn, tiệm thuốc bắc, trường học, hội quán…. Tại các tỉnh miền Trung dù người Tàu không nhiều như trong Nam nhưng hầu hết quán ăn có bảng hiệu, có thực đơn, có đồng phục cho nhân viên, và được trang trí đàng hoàng đều bán thức ăn Tàu và do người Tàu làm chủ.

Đất nước bị chiến tranh nên ẩm thực Việt chưa thật sự được thương mại hóa. Số lượng nhà hàng có menu thuần việt rất ít ỏi. Trong menu của nhà hàng do người Việt mở thường có món Tây và món Ta lẫn lộn. Quán ăn Việt theo dạng bình dân không phục vụ chuyên nghiệp cũng có, nhưng thường chỉ bán vài ba món chuyên trị như: cháo, phở, bún, cơm đĩa.

Theo Hồi ký Phạm Duy, vào năm 1908, cha của ông cùng học giả Nguyễn Văn Vĩnh mở quán ăn Việt Nam đầu tiên tại Hà Nội nhằm khuyến khích người Việt vùng lên làm kinh doanh và để cạnh tranh với người Tàu giành lại quyền làm chủ nước nhà cùng với chủ trương: phải kinh doanh mới có cơ hội làm giàu và giàu mới làm được việc lớn dễ dàng. Cộng đồng Tàu ở Hà Nội đã bị rúng động, họ lo sợ người Việt sẽ có cơ hội vượt qua sự kiềm chế kinh tế của họ. Bởi vậy, họ đã cùng nhau tuyên truyền, nói xấu và mướn đám du côn người Việt phá phách, gây rối, ngăn chận khách. Đồng thời họ vận động chính khách Pháp, Việt gây khó dễ cho quán ăn mới mở, cũng như gây khó cho 2 ông chủ người Việt trong thời gian mới khai trương.

Ngày xưa, đi ăn tiệm Tây [Tây là Pháp chứ không phải Mỹ, Anh] phải sành điệu phong cách ăn uống theo kiểu quí tộc Tây: ngồi ăn, kêu đồ ăn, gọi bồi bàn, nhai đồ ăn, cầm muỗng nĩa đúng kiểu [cầm lên phải đúng tay, bỏ xuống phải đúng bên, ăn xong bữa ăn phải để đúng cách cho bồi bàn hiểu ý, và phải biết cầm muỗng nào cho món ăn nào], cầm dao cắt cầm cắt phải đúng thế để tránh làm văng đồ ăn. Đủ chuyện rắc rối, nhưng nếu không muốn ăn cơm Tây thì chỉ còn cách ăn cơm Tàu, chứ cơm Việt còn nằm chủ yếu ở bếp nhà.

Thời ấy dân nghèo ở quê, ở tỉnh đến Sài Gòn là tưởng mình bị lạc vào thiên đàng, thấy nhà lầu 5-10 tầng là nhìn hoài đến nỗi đạp bể bánh tráng của người người bán hàng rong. Trình độ dân trí thấp [mù chữ] đến nỗi mỗi trạm xe điện phải có hình con cua, con cò, con cá… để cho dễ nhớ. Nghèo quá mà, nên vào cuối thập niên 60 mới có tương đối nhiều khách Việt trong các nhà hàng Tàu. Tiệm Tàu mở ra phục vụ cho người ngoại quốc, cho một nhóm nhỏ người Việt khá giả và cho cộng đồng người Tàu giàu có. Bởi vậy, có thể nói đa số chỉ nghe nói và mơ ước thôi chứ việc lo gạo đủ ăn quanh năm cho cả một bầy con đông đã là việc mà hầu hết mọi gia đình Việt Nam vào thời buổi xa xưa ấy đã không dễ gì thực hiện nổi, nói chi đến việc có quần áo tươm tất hay có dư tiền để đi ăn tiệm.

Vậy, “ăn cơm Tàu” ở đây có thể chỉ phản ảnh cái ước mơ của hơn 90% dân số vào thời ấy: mơ được ăn cho biết ra sao, cho thoả mãn cái giấc mơ được ăn cơm tiệm, chứ nó không mang  ý nghĩa tôn vinh cơm Tàu. Tương tự, thời ấy ai cũng mơ được ngủ một đêm ở khách sạn để nếm thử cái mùi sang trọng và hiện đại của Tây. Ai cũng muốn có cơ hội nếm thử miếng fromage, cũng ước gì được hớp thử một ngụm rượu champagne.

Vì đi lập nghiệp nơi xứ người nên người Tàu biết đoàn kết để sống còn.Nhờ có nghề buôn bán nên người Tàu có suy nghĩ sâu xa và đa mưu. Cái câu vớ vẩn “ăn cơm Tàu….” chắc chắn là cái quảng cáo độc đáo nhất, ưu ái nhất, vinh dự nhất trên thế giới dành cho thức ăn Tàu. Cũng có thể vì thấy người Việt ngây thơ, dễ bị dụ, cũng như thường thờ ơ với tinh thần dân tộc nên chính người Tàu đã vẽ ra câu này. Có thể lắm chứ!

*

Ở nhà Tây? Thời thuộc địa, đa số nhà của người Việt là nhà tranh, vách đất và nền đất. Trong khi người Tây nhập cảng nguyên liệu để xây nhà theo kiểu như bên châu Âu: bằng gạch hay đá và xi măng. Vật liệu xây dựng nhà của họ cho phép ngôi nhà có tuổi thọ lâu hàng trăm năm và nó có khả năng chống đỡ tốt mọi thiên tai. Vào thời đó, nhà Tây cũng đồng nghĩa với biệt thự của các quan chức người Pháp. Mơ ước “Ở nhà Tây” là cái mơ ước rất chính đáng vì nó to rộng, hiện đại, đẹp đẽ và kiên cố.

Lấy vợ Nhật? Đúng là người vợ Nhật rất chiều chuộng chồng. Tính người Nhật lại rất siêng năng, sâu sắc, tế nhị và ý tứ. Bởi vậy, phụ nữ Nhật dễ trở thành mẫu người vợ lý tưởng. Tuy nhiên, vào thời đó ở nước ta con số đàn ông Việt lấy vợ Nhật còn rất là khiêm tốn. Số lượng người Việt đã từng có dịp đặt chân lên xứ sở hoa Anh đào chưa tới hàng trăm. Thời bấy giờ, cũng thiếu thốn tài liệu giúp cho người Việt có kiến thức chính xác về Nhật bản. Bởi vậy, “lấy vợ Nhật là nhất” là một ao ước không dựa vào thực tế.

*

Chuyện gì cũng vậy, nếu không có thật mà cứ nói hoài, nghe hoài thì sẽ có lúc thế hệ sau cho là có thật. Nhiều người ẩu tả cứ mặc nhiên xem cái câu nói này như một ngạn ngữ. Bởi vậy nên mới có chuyện nhiều trí thức, nhà văn, nhà báo… vô tư nói cái câu ấy cho vui miệng chứ không ý thức là họ đang nói sai.

Ngày xưa muốn đi ăn tiệm chỉ có cơm Tàu, ngày nay ta có vô số chọn lựa: cơm Ý, cơm Mễ, cơm Lì [Lebanese], cơm Ấn, cơm Hàn, cơm Thái, cơm Tàu, cơm Nhật. Nhưng cơm tiệm thường chỉ ngon nếu thỉnh thoảng ăn, chứ ăn liên tục thì ta sẽ dễ bị ớn. Chỉ có cơm nhà mới ăn hoài, ăn cả đời mà vẫn thấy ngon hoài.

Nhà ở là sản phẩm vật chất và sản phẩm vật chất là kết quả của khoa học kỹ thuật, kết quả của sự sáng tạo và sự văn minh. Sản phẩm vật chất không phải là sở hữu của một dân tộc nào cả. Nó luôn thay đổi theo thời gian và mọi dân tộc đều vui vẻ đón nhận những sản phẩm mới và hữu dụng. Khi có điều kiện đầy đủ thì bất cứ một cá nhân nào cũng có thể tạo ra một ngôi nhà lý tưởng. Nói “ở nhà Tây là nhất” không còn đúng với ngày nay, nhưng nói vậy cũng không có hại.

Cái cách người vợ Nhật phục tùng mấy ông chồng Nhật làm cho người đàn ông Việt thèm muốn. Tuy nhiên, nói người đàn ông Việt “lấy” vợ Nhật là nhất thì hoàn toàn vô lý.  Ngày xưa dân tộc ta lạc hậu và có ít kiến thức nên ta thường có khuynh hướng thần tượng những cái hay đẹp của người nước ngoài. Ngày nay, người Việt đã văn minh nhiều nên kiến thức phải có cơ sở, phải xuất phát từ trải nghiệm thực tế hoặc ít ra phải từ sách vở, tài liệu. Ngoài ra, người Việt hiện đại cần phải có tinh thần tự tôn dân tộc nữa.

Nhiều người hay so sánh giữa hai dân tộc hay hai nền văn hoá để thoả mãn niềm kiêu hãnh dân tộc của mình. Ở các nước khác chắc chắn vẫn có những người có tính này khi họ tán dốc hay nói chuyện với bạn bè. Dĩ nhiên, họ cho là dân tộc họ ngon lành nhất và họ có thể vô tư chê bai các dân tộc khác. À, chê người khen ta chứ không phải khen người chê ta! Bởi vậy, rõ ràng cái câu nói “Ăn cơm… ở nhà… lấy vợ…”  rất là ngược đời và rất là bậy. Và bậy bạ hơn nữa khi có nhiều người lầm tưởng nó là một ngạn ngữ.

Paulle

  • Posted in: Bình Luận ♦ Lịch Sử ♦ Văn Hoá

Video liên quan

Chủ Đề