Tình thế của Pháp sau hai chiến dịch Việt Bắc thu- đông 1947 và Biên giới thu- đông 1950 là

CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI 1950- BƯỚC NGOẶT CƠ BẢN CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược [1945-1954] đầy gian khổ, hy sinh song rất đỗi hào hùng của dân tộc ta, Chiến dịch Biên Giới Thu - Đông năm 1950 có một vị trí đặc biệt quan trọng - là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Pháp nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, khai thông biên giới, mở rộng và củng cố căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc. Cùng với thắng lợi của quân và dân ta trên khắp chiến trường cả nước, chiến thắng Biên Giới Thu - Đông 1950 mở ra một giai đoạn mới của sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngày đăng : 20/09/2021 Xem với cỡ chữ

Bản in

Sau chiến thắng Việt Bắc Thu - Đông 1947, quân và dân ta tiếp tục giành nhiều thắng lợi quan trọng: Lực lượng kháng chiến phát triển về mọi mặt; chiến tranh du kích được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch; lực lượng vũ trang ba thứ quân hình thành tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực phát triển nhanh, phương thức tác chiến phát triển từ đánh du kích lên đánh tập trung, với nhiều chiến dịch quy mô nhỏ trên chiến trường.

Thất bại trong việc thực hiện kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, từ năm 1948, thực dân Pháp buộc phải thay đổi chiến lược, chuyển sang “đánh kéo dài”, đẩy mạnh âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”. Nhằm đánh bại âm mưu của địch, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, phát triển chiến tranh du kích, gây cho địch nhiều khó khăn, tổn thất. Đến giữa năm 1949, thực dân Pháp tiến hành Kế hoạch Rơ-ve, đẩy mạnh việc củng cố hành lang Đông - Tây, mở rộng chiếm đóng ở trung du và Đồng bằng Bắc Bộ, củng cố tuyến phòng thủ biên giới Đông Bắc, thực hiện âm mưu khóa chặt biên giới Việt - Trung. Yêu cầu chiến lược của ta lúc này là phải phá tan âm mưu phong tỏa biên giới phía Bắc của địch, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của cách mạng Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa; mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

Thực hiện yêu cầu chiến lược và chủ trương của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Biên Giới. Đây là chiến dịch do Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức, chỉ huy; Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy. Đây cũng là chiến dịch duy nhất đích thân Chủ tịch nước - Hồ Chí Minh ra mặt trận, trực tiếp chỉ đạo.

Hạ tuần tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Theo kế hoạch tác chiến ban đầu, ta định tập trung lực lượng tiêu diệt địch ở Cao Bằng, đồng thời đánh địch lên ứng cứu, chi viện. Nhưng sau đó cân nhắc lại, Bộ Chỉ huy chiến dịch chủ trương đánh Đông Khê trước, mở màn cho chiến dịch, vừa bảo đảm chắc thắng, vừa tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển thuận lợi. Chủ trương này được Chủ tịch Hồ Chí Minh phê chuẩn. Người chỉ rõ: “Ta đánh vào Đông Khê là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, ta có cơ hội thuận lợi tiêu diệt chúng trong vận động”.

Ngày 13/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sở Chỉ huy chiến dịch để đến Mặt trận Đông Khê, trực tiếp theo dõi bộ đội đánh trận mở màn chiến dịch. Người chỉ thị cho bộ đội: "Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu". Ngày 16/9, quân ta bất ngờ tấn công cứ điểm Đông Khê. Sau 2 ngày chiến đấu ác liệt, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Đông Khê. Ngay lúc này, Người vạch ý đồ tác chiến của ta là "nhử thú vào tròng" để "khép vòng lưới thép" tiêu diệt chúng. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 3/10/1950, địch vội ra lệnh cho quân ở Cao Bằng rút chạy, đồng thời huy động quân ở Thất Khê lên ứng cứu. Bộ đội ta liên tiếp đánh chặn trong hai ngày 7 và 8/10/1950, lần lượt tiêu diệt hai binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông ở núi Cốc Xá và điểm cao 477. Thừa thắng, quân ta chuyển sang tiến công giải phóng một dải biên giới dài 100 km từ Đồng Đăng [Lạng Sơn] đến Đình Lập, An Châu, Tiên Yên [Quảng Ninh]. Ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên Giới kết thúc.

Trải qua 29 ngày đêm [từ ngày 16/9 đến ngày 14/10/1950] chiến đấu quyết liệt, mưu trí, dũng cảm, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, không chỉ tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng, tinh nhuệ của địch mà còn giải phóng một vùng đất rộng lớn, khai thông biên giới Việt Nam - Trung Quốc; nối liền liên lạc giữa cách mạng Việt Nam với phong trào hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, làm cho thế bao vây cả trong lẫn ngoài của địch đối với cách mạng nước ta bị phá vỡ.

Chiến dịch Biên Giới Thu - Đông1950 đánh dấu bước phát triển vượt bậc về trình độ tác chiến tập trung của Quân đội ta, có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đáp ứng kịp thời yêu cầu bức thiết về mặt chiến lược của cuộc kháng chiến lúc bấy giờ, làm thay đổi cục diện chiến tranh, đưa cuộc kháng chiến của quân và dân ta bước sang giai đoạn chủ động tiến công và phản công, buộc thực dân Pháp phải chuyển dần vào thế phòng ngự bị động. Cũng từ đây, cuộc kháng chiến của ta chuyển từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới Thu - Đông 1950 đồng thời đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính mà Đảng ta đã vạch ra ngay từ đầu cuộc kháng chiến. Bài học về về sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Chỉ huy Chiến dịch; về phát huy nội lực; xây dựng thực lực kháng chiến; xây dựng Quân đội về tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi; chủ động đối phó với những khó khăn, thử thách; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đưa cuộc kháng chiến bước sang giai đoạn mới… để làm nên chiến thắng Biên Giới vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay. Minh Huyền- TH

Lê Thùy Trang

Lần xem: 28264

Go top

Bài viết khác

Tháng 6/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt-Trung. Nguồn: TTXVN

[Thanhuytphcm.vn]- Sau 29 ngày đêm quân ta chiến đấu quyết liệt, anh dũng và mưu trí [16/9 đến 14/10/1950], chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950 đã giành thắng lợi. Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam vào hệ thống phòng ngự của quân Pháp trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn, mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược [1945-1954].

Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực, trong nước có nhiều biến đổi lớn:

Trên thế giới: Các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, phát triển và lớn mạnh về mọi mặt. Trong đó, Liên Xô giành được nhiều thắng lợi quan trọng trong xây dựng, phát triển đất nước, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ La-tinh. Ngày 30/1/1950, Việt Nam và Liên Xô chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Trong khu vực: Sau ngày thành lập [1/10/1949], Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố là một nước dân chủ mới, thực hiện chuyên chính dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo; đồng thời tuyên bố đoàn kết với tất cả các nước và dân tộc yêu chuộng hòa bình, tự do trên thế giới, cùng các dân tộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của đế quốc để giữ gìn nền hòa bình lâu dài. Ngày 18/1/1950, Việt Nam và Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tình hình trong nước: Sau chiến thắng Việt Bắc Thu Đông 1947, quân và dân ta tiếp tục giành nhiều thắng lợi quan trọng: Lực lượng kháng chiến phát triển về mọi mặt; chiến tranh du kích được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch; lực lượng vũ trang ba thứ quân hình thành tương đối hoàn chỉnh, đặc biệt là bộ đội chủ lực phát triển nhanh, phương thức tác chiến phát triển từ đánh du kích lên đánh tập trung, với nhiều chiến dịch quy mô nhỏ trên chiến trường. Thực dân Pháp thực hiện kế hoạch mới, được Mỹ giúp sức ráo riết thực hiện Kế hoạch Rơ-ve, tập trung lực lượng mở rộng chiếm đóng vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ; ra sức phong tỏa biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của cách mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam; bao vây, cô lập căn cứ địa Việt Bắc.

Trước tình hình đó, để đẩy mạnh kháng chiến tiến lên một bước mới. Tháng 6/1950, Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch lớn đánh địch trên tuyến biên giới Việt - Trung với mục đích tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần biên giới, mở đường giao thông với các nước xã hội chủ nghĩa, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn kế hoạch tác chiến với các sĩ quan quân đội trong chiến dịch vào hạ tuần tháng 8/1950. Nguồn: TTXVN

Ngày 7/7/1950, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở chiến dịch giải phóng vùng biên giới Đông Bắc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn, lấy mật danh là Chiến dịch Lê Hồng Phong II, tiến công phòng tuyến của địch trên đường số 4, tập trung vào khu vực Cao Bằng - Thất Khê. Đây là chiến dịch tiến công quy mô lớn đầu tiên của quân đội ta, mang ý nghĩa chiến lược rất to lớn. Sự thành bại trong chiến dịch này có ảnh hưởng quyết định đến việc thay đổi cục diện chiến tranh, đến lòng tin của quân và dân đối với đường lối kháng chiến của Đảng, đến quá trình xây dựng, trưởng thành của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Chiến dịch này hết sức quan trọng, chỉ được thắng không được thua!”[1].

Với quyết tâm giành thắng lợi cho chiến dịch lớn có ý nghĩa chiến lược quan trọng này, Thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp nghiên cứu tình hình, phê chuẩn kế hoạch tác chiến, chỉ đạo các ngành ở Trung ương và địa phương đem hết sức mình phục vụ tiền tuyến và thực hiện sự phối hợp chiến trường trên toàn quốc để bảo đảm cho chiến dịch toàn thắng. Liên khu Việt Bắc là địa phương chính động viên sức người, sức của phục vụ chiến dịch. Để bảo đảm chắc thắng, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định sử dụng nhiều đơn vị mạnh tham gia chiến dịch. Với tổng số lực lượng tương đương hai đại đoàn, Chiến dịch Biên Giới đã vượt tất cả các chiến dịch trước đây về quy mô sử dụng lực lượng.

Ngày 27/7/1950, Thường vụ Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Chỉ huy chiến dịch. Đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp được chỉ định làm Bí thư Đảng ủy mặt trận và Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy chiến dịch. Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng chiến dịch; đồng chí Lê Liêm làm Chủ nhiệm Chính trị; đồng chí Trần Đăng Ninh làm Chủ nhiệm Cung cấp.

Số lượng lớn pháp binh và công binh của Bộ Tư lệnh được tập trung cho Chiến dịch biên giới. Nguồn: TTXVN

Tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên đường ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trên đường ra mặt trận, Người ân cần thăm hỏi, nắm thêm tình hình, động viên bộ đội, dân công.

Ngày 16/8/1950, sau khi cân nhắc, thảo luận, Đảng ủy chiến dịch quyết định đánh Đông Khê trước để mở màn chiến dịch; đồng thời, tổ chức tiêu diệt quân ứng cứu cho Đông Khê, sau đó đánh xuống Thất Khê và chỉnh đốn rồi tiếp tục đánh Cao Bằng.

Lực lượng của thực dân Pháp tại biên giới hầu hết là các đơn vị tinh nhuệ, tổng số binh lực chiếm đóng và cơ động là 11 tiểu đoàn, 9 đại đội bộ binh, 4 đại đội cơ giới, 4 đại đội công binh, 27 khẩu pháo các loại và 8 máy bay; xây dựng thành các cụm cứ điểm có lô cốt, hầm hào tương đối kiên cố, hỏa lực chi viện được cho nhau.

Lực lượng của ta tham gia chiến dịch với khoảng 2/3 lực lượng chủ lực của Bộ, cùng lực lượng chủ lực của Liên Khu Việt Bắc và lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn; được phân chia làm ba mặt trận: mặt trận Đông Khê đánh cụm cứ điểm Đông Khê và quân dù có thể nhảy xuống quanh Đông Khê; mặt trận đánh quân ứng chiếm bố trí ở đoạn đường giữa Đông Khê - Thất Khê; mặt trận Na Sầm - Lạng Sơn có nhiệm vụ phá đường, tiêu hao, quấy rối, phục kích địch trên đoạn đường Thất Khê - Lạng Sơn.

Chiến dịch Biên Giới diễn ra 3 đợt:

Đợt 1 [từ ngày 16 đến ngày 20/9/1950]: Ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê.

Đợt 2 [từ ngày 21 đến ngày 29/9/1950]: Tiến hành trận then chốt quyết định tiêu diệt hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác - tông.

Đợt 3 [từ ngày 9 đến ngày 14/10/1950]: Địch ở Thất Khê, Na Sầm, Lạng Sơn rút chạy, ta truy kích địch giải phóng Thất Khê, Na Sầm.

Sáng ngày 16/9/1950, ta bắt đầu nổ súng đánh cụm cứ điểm Đông Khê mở màn chiến dịch. Mặc dù địch chống cự hết sức quyết liệt và tình huống chiến đấu diễn ra rất gay go, phức tạp, song bộ đội ta vẫn dũng cảm chiến đấu, tổ chức nhiều đợt xung phong, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ. Sáng ngày 18/9, bộ đội ta chiếm toàn bộ cụm cứ điểm Đông Khê.

Sau thất bại Đông Khê, Tổng chỉ huy Pháp ở Đông Dương vội vàng thực hiện kế hoạch rút quân khỏi thị xã Cao Bằng, điều động binh đoàn Lơ Pa-giơ ở Thất Khê hành quân tiến lên chiếm lại Đông Khê và đón binh đoàn Sác-tông từ Cao Bằng rút về. Ngoài ra, Bộ chỉ huy quân Pháp còn mở cuộc hành quân Phô-cơ đánh lên vùng tự do Thái Nguyên, nhằm thu hút chủ lực của ta, giải tỏa cho hướng biên giới Cao Bằng - Lạng Sơn.

Nhờ phán đoán từ trước và đã chuẩn bị sẵn sàng để đối phó, ta vẫn tập trung lực lượng tại biên giới, kiên quyết tiến hành kế hoạch chiến dịch như đã xác định. Bộ Chỉ huy chiến dịch tập trung gần như toàn bộ lực lượng để đánh quân địch đi tiếp viện, lấy đó là đòn đánh then chốt quyết định giành toàn thắng.

Từ ngày 1/10 đến 5/10/1950 đã diễn ra nhiều trận đánh ác liệt ở khu vực phía Nam và phía Tây Đông Khê. Binh đoàn Lơ Pa-giơ chẳng những không thực hiện được ý định chiếm Đông Khê mà còn bị ta tiêu diệt một bộ phận, cuối cùng phải chạy dồn vào khu núi đá Cốc Xá, nơi có địa hình hiểm trở, dựa vào đó cố thủ và lấy đó làm địa điểm đón quân Sác-tông.

Từ ngày 5/10 đến 7/10/1950, với tinh thần chiến đấu dũng cảm, 4 tiểu đoàn của ta đã liên tục công kích địch ở Cốc Xá. Lơ Pa-giơ cùng ban tham mưu và một bộ phận tàn quân chạy thoát, nhưng đến chiều 8/10/1950 toàn bộ bị bắt gọn.

Ngày 7/10/1950, binh đoàn Sác-tông bị quân ta bao vây công kích tại khu điểm cao 477 [cách Cốc Xá 3km].

Ngày 8/10/1950, một tiểu đoàn do Đờ-la Bôm chỉ huy từ Thất Khê tiến lên định ứng cứu cho Lơ Pa giơ và Sác-tông cũng bị ta đánh tan. Địch liên tiếp rút chạy khỏi Na Sầm, Đồng Đăng, thị xã Lạng Sơn, Lạng Giang, Lộc Bình, Đình Lập, An Châu.

Ngày 14/10/1950, Chiến dịch Biên Giới kết thúc.

Trải qua 29 ngày chiến đấu quyết liệt, quân và dân ta đã giành được thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Biên giới, bộ đội ta tiến vào giải phóng Thất Kê năm 1950. Nguồn: TTXVN

Phối hợp với Chiến dịch Biên Giới, quân và dân ta đồng loạt tiến công địch trên khắp các chiến trường: ở Thái Nguyên, ta đánh bại cuộc hành quân Phô-cơ của Pháp; hướng Tây Bắc Bắc Bộ, ta bao vây tiến công, buộc địch rút khỏi Lào Cai, Hà Giang, thị xã Hòa Bình; ở Đồng bằng Bắc Bộ, ta tiêu diệt và bức rút hàng chục vị trí, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm; ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ, ta mở nhiều chiến dịch tiến công địch.

Chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950 đã khẳng định tầm nhìn chiến lược, những quyết sách sáng tạo, hiệu quả của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, được thể hiện trên một số nội dung cơ bản: nhận định chính xác tình hình, kịp thời hạ quyết tâm mở chiến dịch, tạo bước ngoặt cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc phát triển; kịp thời, chính xác chuyển hướng chiến lược tiến công; tập trung lực lượng lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Quân đội, tổ chức chỉ huy chặt chẽ, đoàn kết thống nhất cao.

Thắng lợi của quân và dân ta trong Chiến dịch Biên giới Thu Đông 1950 là sự kết tinh sức mạnh tổng hợp của cả nước, thành quả của cuộc chiến đấu kiên cường suốt 5 năm [1945-1950] trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc.

Quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới, từ thị xã Cao Bằng đến thị trấn Đình Lập [Lạng Sơn] - một địa bàn chiến lược trọng yếu, tạo nên thế trận mới vững chắc; làm phá sản âm mưu “khóa chặt biên giới Việt-Trung” và chọc thủng “hành lang Đông-Tây” của thực dân Pháp.

Thủ đô kháng chiến Việt Bắc không những được giữ vững, mà còn được củng cố, mở rộng, trở thành vùng tự do, an toàn; niềm tin vào thắng lợi của quân và dân cả nước ngày càng thêm vững chắc; nối liền đường giao thông quốc tế giữa căn cứ địa Việt Bắc [Việt Nam] với Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu.

Sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam có điều kiện thuận lợi để tiếp nhận các nguồn viện trợ về vật chất, vũ khí, trang bị quân sự và học hỏi kinh nghiệm tổ chức chiến đấu của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Cùng với ý nghĩa to lớn đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta, Chiến thắng Biên Giới Thu Đông 1950 góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia từng bước phát triển vững chắc, phối hợp nhịp nhàng với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam; đồng thời cổ vũ tinh thần chiến đấu và tăng thêm niềm tin cho các dân tộc đang đấu tranh vì độc lập, tự do, nhất là trong giai đoạn này đế quốc Mỹ đang mở cuộc chiến tranh xâm lược Bắc Triều Tiên.

Sau Chiến thắng Biên giới Thu Đông 1950, quân và dân ta tiếp tục giữ vững quyền chủ động, phát huy thế tiến công chiến lược trong những năm 1951 - 1953; tiến tới giành thắng lợi liên tiếp trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

[Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM]

-------
[1]
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006, tr.626

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ Đề