Tại sao các nhà sư lại mang họ thích
Pháp danh theo Phật giáo Đại thừa của người Việt là tên được vị Sư đặt cho một người theo đạo Phật phát nguyện làm lễ quy y Tam Bảo và thọ năm giới căn bản gồm:
Khi quy y, tín đồ nguyện sống theo đạo lý của nhà Phật. Người nào dù không đi tu mà phát nguyện theo Tam bảo đều được ban pháp danh.
Pháp danh là do vị sư chứng giám đặt cho người thụ lễ như một thể thức truyền thừa cho đệ tử một lý tưởng chung. Vì vậy pháp danh thường chiếu theo một hệ thống rút từ kinh điển ví dụ như một bài kệ, một câu kinh, dùng một chữ chung khởi đầu. Những chữ thường dùng là Phúc, Huệ, Diệu, Tâm, Trí, Tuệ với ý nghĩa cao đẹp. Hoặc đặt pháp danh theo dòng phái của các vị Tổ Sư truyền kệ nối pháp, theo thứ tự chữ của từng đời như Liễu Quán Tổ Sư có kệ rằng: “Thiệt Tế Đại Đạo, Tánh Hải Thanh Trừng, Tâm Nguyên Quảng Nhuận, Đức Bổn Từ Phong,...”
Pháp danh được dùng trong mọi việc giữa cá nhân đó và nhà chùa từ lúc sinh thời cho đến sau khi mất.
Theo Phật giáo thì cần phân biệt pháp danh, pháp tự và pháp hiệu. Người Phật tử nhận Pháp danh khi thụ năm giới; nhận Pháp tự khi thụ 10 giới; và Pháp hiệu khi làm Tỳ kheo[1] tức xuất gia đi tu. Pháp hiệu ở miền Trung đặc biệt là xứ Huế, là do vị sư phụ truyền cho người xuất gia tu tập khi đạt đạo. Chữ được rút lấy từ kệ truyền với như lời nhắn nhủ đệ tử. Ngoài ra pháp hiệu là sợi dây nối kết với nhưng những vị tiên Sư trước đó.
Nam giới đi tu ngày nay nhất thể lấy thêm họ "Thích", còn nữ giới gọi là Ni thì lấy "Thích Nữ" để nhấn mạnh địa vị đệ tử của đức Thích Ca. Lệ này có từ thế kỷ thứ IV do thiền sư Đạo An người Trung Hoa khởi xướng. Tuy nhiên đối với người Việt thì Pháp tự hay Pháp hiệu dùng chữ "Thích" thì đến thế kỷ XX mới xuất hiện. Có nguồn cho rằng Điều-Ngự-Tử Thích-Mật-Thể khi ký tên trong văn liệu cuốn Việt-Nam Phật Giáo Sử Lược ấn hành năm 1943 có thể đã khởi xướng lệ dùng chữ Thích như họ đối với Tăng chúng Việt Nam.
Pháp hiệu cũng do vị sư chứng giám đặt cho người đi tu. Tăng ni khi nhận một vị thầy khác cũng có thể nhận pháp danh và pháp hiệu mới.
Ở Trung Hoa những người theo đạo Lão như các đạo sĩ cũng có pháp danh.
Ở Nhật Bản thì tương đương pháp danh là "giới danh" (戒名, kaimyō). Ai quá cố cũng được nhà chùa ban cho giới danh để dùng khi cúng lễ.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Pháp_danh&oldid=68912535” Chiết tự chữ Thích 釋 trong chữ Hán. Có lẽ chúng ta đã không còn xa lạ với họ Thích trong Đạo Phật. Vậy chữ hãy viết như thế nào, được cấu thành bởi những chữ gì và có ý nghĩa ra sao. Cùng Jenny tìm hiểu nhé! 📌 Hashtag: #Chiết tự Xem thêm: >> Thiền là gì? >> Bản ngã là gì? Đi từ chiết tự chữ Hán đến quan điểm trong Đạo Phật Chữ Thích ở đây không phải thể hiện ý nghĩa “yêu thích” như nhiều người lầm tưởng. Thậm chí họ còn trêu đùa, cợt nhả bằng những cái tên thể hiện sự châm chọc “Thích + ….”. Ấy là những người chưa hiểu hoặc cũng không quan tâm tới chữ Hán. Còn bạn, bạn có muốn biết chữ Thích ở trường hợp này có nghĩa là gì và viết như thế nào không? Bạn sẽ thấy ngay trong bài viết này của wikihanhphuc.com. Đôi nét về Họ Thích trong Đạo PhậtHọ Thích thường chỉ được sử dụng cho Người xuất gia. Còn Phật tử tại gia thì lại không. Truyền thống lấy họ Thích chỉ có ở Việt Nam hay ở những quốc gia khác?Theo bài đăng trên website của Chùa Xá Lợi có đề cập đến người tăng sĩ lấy họ Thích từ lúc nào như sau: Xét trên nguyên tắc chung về họ Thích |