Qua bài thơ thu vịnh em có cảm nhận gì về tình cảm của nhà thơ

Nhắc đến thơ viết về đề tài tình yêu không thể không nhắc đến Xuân Diệu; nhắc đến thơ ca cách mạng không thể không nhắc đến Tố Hữu; còn nếu nhắc đến thơ viết về mùa thu, chúng ta không thể nào không nhắc tới cái tên Nguyễn Khuyến! Ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu gồm 3 bài: Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Cả ba bài trong chùm thơ thu đều lấy bối cảnh là làng cảnh quê hương tác giả. Đó là vùng đồng chiêm trũng Bình Lục một năm chỉ cấy được một mùa, còn lại toàn là ngập nước. Làng quê Bình Lục ấy cũng bình dị như biết bao làng quê thân thuộc khác, có vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái tranh nghèo.

Nếu như trong Thu điếu bức tranh mùa thu được cảm nhận theo chiều không gian từ gần rồi đến cao, xa thì ở Thu vịnh, nhà thơ thưởng thức bức tranh thu bắt đầu từ cao xuống thấp. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bầu trời bao la, bát ngát, xanh trong rất điển hình của mùa thu nơi thôn dã:


Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu
“Xanh ngắt” có nghĩa là xanh thăm thẳm, dường như trời thu trong thơ Nguyễn Khuyến luôn được bao phủ bởi sắc màu “xanh ngắt” ấy. Ví dụ như trong Thu ẩm ông viết:
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt
Hay ở Thu điếu:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Xanh ngắt là sắc xanh trong, mở ra một không gian rất rộng, rất cao. Đặc biệt, khi kết hợp với “mấy từng cao” càng làm không gian thêm bao la, thăm thẳm. Mấy từng cao gợi cho chúng ra cảm giác là rất cao, tưởng như có nhiều lớp, nhiều tầng. Trên cái nền là bầu trời bao la nổi bật lên hình ảnh thanh tú của cần trúc. Không phải là “khóm trúc” mà là “cần trúc”, là cây trúc non dáng cong cong như chiếc cần câu đang đong đưa khe khẽ trước gió thu “hắt hiu” thổi. Gió hắt hiu là gió rất nhẹ, gió thổi không vội vàng cũng nhưng cũng không lưu luyến, gợi lên chút cảm giác hững hờ. Đến cả gió thu cũng đậm chất thu, phảng phất buồn như chứa chất tâm trạng bên trong. Tất cả dường như có một mối cảm thông thầm lặng, sâu kín, tinh tế và khó nắm bắt. Giữa cái nền “xanh ngắt”, sự lay động rất nhẹ của cần trúc càng làm tăng thêm cái lặng thinh, sâu thẳm của bầu trời. Bầu trời lại như dồn hết cái sâu lắng vào bên trong cần trúc, để cho nó vừa như đong đưa mà cũng vừa như đứng yên. Đó là nét động và nét tĩnh của cảnh thu, cũng chính là biệt tài trong dụng nghệ lấy động tả tĩnh của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Thông qua hai câu đề này, nhà thơ đã chấm phá hai nét phong cảnh đơn sơ, thanh thoát nhưng hoà điệu nhịp nhàng với tâm hồn tác giả. Trong đó, mọi chi tiết, sắc màu, đường nét, cử động đều rất hài hoà. Nhà thơ mới chỉ nói đến trời thu nhưng ta đã thấy cả hồn thu trong đó vậy!
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng trăng vào
Hai câu luận tiếp tục phác thảo rõ nét hơn cảnh sắc của mùa thu. Nước biếc là màu nước đặc trưng của mùa thu khi khí trời bắt đầu se lạnh. “Biếc” ở đây chỉ sắc xanh của nước: vừa xanh, vừa trong; còn gợi lên hình ảnh vừa tĩnh lặng vừa như sáng lấp lánh. Mùa thu, vào sáng sớm và chiều tối, trên mặt ao, mặt hồ có một lớp sương mỏng trông như khói phủ. Cảnh mặt nước khói sương bình thường ấy qua con mắt và tâm hồn thi sĩ đã trở thành một dáng thu ngâm vịnh. Cách sử dụng “tầng khói phủ” cũng đem lại hiệu ứng gợi hình, gợi cảm hơn hẳn. Không phải “làn” mà lại là “tầng”. Tầng khói phủ khác làn khói phủ vì sương đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, độ sâu, như chất chứa cái gì đó ở bên trong. Nước biếc cỏ tầng khói phủ thì màu nước không còn biếc nữa mà hoà lẫn vào làn khói lam mờ, trở nên mông lung, huyền ảo. Cách so sánh này thấy sự rất độc đáo, rất thơ! Từ bầu trời nhìn xuống mặt nước, rồi lại từ mặt ngước lên bầu trời. Tuy nhiên, khung cảnh thu càng làm nên thơ mộng khi được dát lên mình màu trắng bạc của ánh trăng. Hình ảnh song thưa gợi ý thanh thoát, cởi mở. Bóng trăng vào qua song thưa để ngỏ thì bóng trăng trở nên mênh mông hơn, lặng lẽ hơn. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra thành một bề rộng, mặc dù bj giới hạn bởi khung cửa sổ song thưa mà vẫn cứ mênh mông ở ý nghĩa bên trong, ở tinh thần và âm điệu, những trạng thái nào thì cũng đều tĩnh mịch và chất chứa suy tư. Cảnh thu trong bốn câu thơ đầu được miêu tả ở những thời điểm khác nhau. Nhìn thấy màu trời xanh ngắt; cần trúc là lúc đang trưa; mặt nước biếc trông như tầng khói phủ là lúc hoàng hôn và bóng trăng tràn qua song thưa là lúc trời đã vào đêm... Cảnh sắc chuyển biến theo thời gian, nhưng lại nhất quán trong ý thơ, trong tâm tư của hồn thi sĩ. Đến hai câu thơ trong thực, tác giả viết:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
Một tiếng trên không, ngỗng nước nào
Sau khi nhìn mặt nước khói phủ lại đến ngắm ánh trăng tràn qua song thưa; lúc này nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân thấy mấy chùm hoa đã nở. Hoa nở thì đâu có gì lạ? Điều lạ là bỗng dưng, nhà thơ cảm thấy đó là hoa năm ngoái. Nếu như ở 4 câu trên, cảnh vật được miêu tả qua con mắt nhìn có vẻ khách quan, thì đến đây cảm xúc của trái tim đã khoác lên cảnh vật màu sắc chủ quan. Rõ ràng là thấy hoa nở ngay trước mắt, nhưng nhà thơ lại cảm thấy đó là hoa nở từ năm ngoái. Phải chăng con người đang ở hiện tại mà như lùi về quá khứ? Hay quá khứ đang tìm về với thực tại mới đúng đây? Ở hai câu thơ này, âm điệu theo nhịp 4/1/2. Từ “Mấy chùm trước giậu đến hoa năm ngoái” có một đoạn suy tư, ngẫm nghĩ và sau đó đột nhiên xuất hiện cảm giác lạ lùng là hoa năm ngoái chứ không phải hoa năm nay. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không văng vẳng mà giật mình băn khoăn tự hỏi: ngỗng nước nào? Nếu như bốn câu đầu, cảnh vật hài hoà, giao cảm với nhau thì đến đây, con người hoà hợp với cảnh vật trong một nỗi niềm u uất. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và tâm tư con người thể hiện qua cách nhìn cảnh vật. Như vậy, cảnh vật được miêu tả qua đôi mắt và trái tim rung cảm của nhà thơ. Mùa thu tới, nhà thơ nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim kêu trên trời vẳng xuống mà trỗi dậy cả một niềm xót xa, lặng lẽ mà như nẫu ruột, chết lòng. Chiều sâu của tâm hồn thi sĩ lắng đọng vào chiều sâu của câu thơ là vậy. Quả ứng với câu:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo tình
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đứng trước cảnh thu, cảm nhận hồn thu khiến cảm hứng làm thơ của thi sĩ bỗng dạt dào. Ông toan cất bút nhưng rồi lại ngập ngừng:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.
Nhà thơ thẹn với ông Đào, là thẹn điều gì? Thẹn vì tài thơ thua kém hay thẹn vì mình chưa có được nhân cách trong sáng và khí phách cứng cỏi như Đào Tiềm? Câu hỏi ấy còn lửng lơ bỏ ngỏ. Một chữ “thẹn” vừa khiến nhịp thơ chùng xuống, vừa thấy được sự kính trọng, sùng bái của nhà thơ với người thi sĩ nhà Đường không màng danh lợi. Lời thơ trong câu kết có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo, do đó càng làm tăng thêm chất suy tư của cả bài thơ.

Không thể phủ nhận Thu vịnh là một trong những bài thơ đỉnh cao viết về đề tài mùa thu, về làng cảnh trong nền văn học Việt Nam. Bài thơ không chỉ khắc hoạ bức tranh mùa thu thôn dã đẹp bình dị, mộc mạc mà gần gũi, qua đó còn thể hiện cái tâm của người thi sĩ yêu làng quê, đất nước; người thi sĩ có tâm hồn cũng trong sáng, mộc mạc như chính cảnh sắc thu quê.

Trang Chủ Diễn Đàn > Thư Viện Điện Tử > Data & Ebook > Học Tập >

Mỗi nghệ sĩ có một lãnh địa sáng tác riêng. Với Nguyễn Khuyến, lãnh địa đó là làng quê Việt Nam. Dưới ngòi bút tài hoa của ông, làng cảnh Việt Nam hiện lên thật gần gũi, hồn hậu. Phân tích thu vịnh sẽ thấy được những nét đặc trưng của làng quê trong những ngày mùa thu của đất trời.

  • Phân tích thu vịnh của Nguyễn Khuyến chi tiết

Như đã nói, Nguyễn Khuyến thường dành tình cảm đặc biệt cho quê hương làng cảnh Việt Nam. Ông có một chùm thơ nổi tiếng viết về mùa thu gồm có 3 bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm đều đặc tả phong cảnh làng quê. Phân tích thu vịnh cũng như chùm thơ này sẽ thấy, Nguyễn Khuyến đã sáng tác theo lối “chùm ba” của đại thi hào Trung Quốc – Đỗ Phủ.

 Thân bài

  • Phân tích thu vịnh của Nguyễn Khuyến – bức tranh mùa thu huyền hoặc

Đối với bài “Thu vịnh”, Xuân Diệu từng nhận xét rằng đây là bài thơ trong ba bài về mùa thu của Nguyễn Khuyến mang cái hồn, cái chất của mùa thu hơn cả. Qua “Thu vịnh”, mùa thu xử Bắc hiện lên rõ nét, tinh tế và cũng ẩn chưa những tâm sự sâu kín của người viết:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao.

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

Nước biếc trông như tảng khói phủ,

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.

Mở đầu bài thơ, tác giả phác họa một bức tranh không gian thoáng đãng. Trên nền trời được chấm phá một nét mỏn, mềm của cành trúc:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.

“Trời thu xanh ngắt” là điểm đặc trưng đầu tiên của mùa thu xứ Bắc. Nhưng màu xanh ấy không chỉ là màu của trời thu mà còn ẩn chứa tình yêu tha thiết của người viết đối với mùa thu cũng như làng cảnh quê hương.

Không gian ngày mùa thu còn mở ra thăm thẳm với “mấy tầng cao”. Giữa màn trời xanh ngắt, một cành trúc vươn lên thật thanh cao mà không đìu hiu như “rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang” như trong thơ của Xuân Diệu. Từ láy “lơ phơ” khi tả cành trúc cũng thật gợi hình, nó gợi tả sự thưa thớt của lá trúc, nên trước gió mùa thu không ngừng lay động. Còn cơn gió “hắt hiu” là gió như thế nào? Đúng hơn, cái sự “hắt hiu” đó là những rung động, là nỗi buồn mơ hồ mà tâm hồn người thi nhân cảm thấy khi đứng trước cảnh thu đượm buồn.

Nhưng rồi bức tranh mùa thu trong “Thu vịnh” được Nguyễn Khuyến cho thêm sắc màu mới, đường nét và hình ảnh mới. Cái không khí mùa thu xứ Bắc vì thế thêm đa đa dạng hơn:

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào

Và mùa thu được pha thêm màu “nước biếc”, mùa thu được khoác lên chiếc áo mới với màu xanh tha thiết. Gợi hình, gợi cảm hơn nữa khi áo thu trong xanh hòa quyện cùng “khói phủ” nhạt nhòa. Như cảnh đêm thu còn huyền diệu hơn thế khi có thêm trăng.

Người thi nhân mở cửa để đón trăng “Song thưa để mặc bóng trăng vào”. Cũng như nhiều nhà thơ khác, trăng là người bạn tri kỉ của Nguyễn Khuyến. Và có lẽ, nếu không có sự hiện diện của trăng, bức tranh mùa thu sẽ thiếu đi nhiều sự thi vị. Cảnh vật trong đêm được bao trùm bởi ánh trăng sẽ trở nên huyền ảo, mộng mơ hơn.

Cảnh đêm thu ấy càng trở nên huyền hoặc hơn khi có sự góp mặt của tiếng chim, của “giậu hoa”;

Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái

Một tiếng trên không ngỗng nước nào?

Hoa mùa thu vẫn thế, không có sắc màu, là bởi khói phủ nhạt nhòa hay người viết đã không còn ý niềm về dòng thời gian trôi. Nên chỉ biết là hoa năm ngoái, mà chẳng rõ “mấy chùm trước giậu” là hoa gì, có màu sắc ra sao. Điều này khiến tứ thơ của Nguyễn Khuyến thêm trừu tượng và dường như đó cũng là tâm trạng bất biến của người viết. “Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”, câu thơ mang một nỗi buồn man mác, khi âm thanh của mùa thu là một tiếng ngỗng trời xa lạ, cái xa lạ khiến lòng người thi nhân thổn thức.

  • Phân tích thu vịnh của Nguyễn Khuyến – Nỗi lòng của người thi nhân trước cảnh thu

Nguyễn Khuyến viết bài thơ với cảm hứng từ một đêm thu huyền diệu, nhưng cũng chính trong đêm thu ấy mà niềm thi hứng lại mang nỗi niềm u uẩn.

Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào

Trước cảnh thu đẹp mà buồn man mác, Nguyễn Khuyến đã bộc lộ nỗi lòng mình. Với Nguyễn Khuyến cũng như với các nhà thơ chân chính, thơ sẽ luôn gắn liền với nhân cách. Nhân cách lớn thì thơ lớn.

Khi rung động trước cảnh đêm thu, toan cất bút làm thơ, Nguyễn Khuyến lại cảm thấy “thẹn với ông Đào”. Ông Đào Nguyễn Khuyến nhắc đến là Đào Tiềm – nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc xưa kia. Ông thẹn bởi so với “ông Đào” vì cái khí tiết của ông trong giới quan trường Trung Hoa khi dứt khoát từ quan. Nghĩ về mình, Nguyễn Khuyến làm quan trong thời buổi khó tránh khỏi việc là tay sai của giặc Pháp. Bởi vậy, khi đã về quê sống ẩn dật, ông vẫn luôn ân hận về những năm làm việc trong bộ máy chính quyền thối nát tàn bạo thời ấy. Như vậy, phân tích thu vịnh ta không chỉ thấy một bức tranh mùa thu đẹp huyền ảo mà còn thấy được tấm lòng chân thực cũng như niềm u uẩn một nhà thơ, một nhân cách lớn Nguyễn Khuyến.

Kết luận

Một lần nữa cần khẳng định rằng “Thu vịnh” là một bài thơ thơ viết về  mùa thu. Qua bài thơ, bức tranh mùa thu hiện lên thật thanh đạm, uyển chuyển và cũng thật huyền ảo. Bên cạnh đó, “Thu vịnh” còn là nỗi lòng tha thiết của nhà thơ đối với quê hương đất nước. Bởi vậy, phân tích thu vịnh ta như thấy, Nguyễn Khuyến miêu tả vẻ đẹp của đêm mùa thu và cũng là bộc bạch những nỗi niềm sâu kín.

Qua bài thơ “Thu vịnh” người đọc sẽ cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên của làng quê Việt Nam, từ đó càng thêm yêu quý quê hương mình.

Video liên quan

Chủ Đề