Phú nghĩa là gì

Phú [chữ Nho:賦] là một thể văn chương cổ của Việt Nam, xuất phát từ Trung Hoa. Đây là một thể văn vần có từ thời nhà Hán nhưng thể phú thông dụng nhất tại Việt Nam là loại đặt ra từ đời nhà Đường, nên còn gọi là Đường phú. Những thể khác ít dùng là:

  1. phú tứ tự: phú bốn chữ, dùng câu chỉ có bốn chữ
  2. phú thất tự: phú bảy chữ, dùng câu chỉ có bảy chữ
  3. phú Sở từ: câu phú có năm, sáu chữ; cuối câu thì đệm chữ "hề"
  4. phú lưu thủy: phú không hạn chế số chữ, gần như văn xuôi.

Tổ thiền Trúc Lâm, vua Trần Nhân Tông, tác giả của một số bài phú bằng chữ Nôm xưa nhất trong văn chương Việt Nam

Phú theo nghĩa đen chủ yếu là thể văn tả cảnh. Nhưng từ cái ý chính tả ngoại cảnh, một bài phú thường liên kết với nội tâm để tả tình.

Thể phú được các vua chúa Việt Nam dùng trong khoa cử. Trong kỳ thi Hương và thi Hội thì bài phú là một phần của kỳ ba [tam trường].

Bài phú có hai yếu tố chính là có vần và có đối. Một câu chia làm hai vế phải đối nhau. Chữ cuối câu, tức cuối vế thứ nhì thì gieo vần. Ví dụ như trong bài "Phú hỏng thi" của Trần Kế Xương:

Quyển đệ tam viết đã xong rồi bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng Thầy chắc hẳn văn chương có mực, lễ thánh xem giò cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng

Cách sắp xếp bài phú có năm đoạn, có tên là:

  1. lung: mở đầu bài
  2. biện nguyên: tìm lại cái gốc của đề tài
  3. thích thực: tả ý nghĩa
  4. phu diễn: tán rộng ý
  5. nghị luận: tổng kết.

Luật vần

Đường phú có thể áp dụng một trong ba luật vần:

  1. độc vận: dùng chỉ một vần, gieo từ đầu đến cuối bài cho mọi câu của cả năm đoạn: lung, biện nguyên, thích thực, phu diễn và nghị luận.
  2. hạn vận: mỗi đoạn của bài phú dùng một vần riêng. Như đoạn lung thì mọi câu gieo cùng vần, sang đoạn biện nguyên thì mọi câu lại gieo vần khác...
  3. phóng vận: vần có thể thay đổi, không cần ăn khớp với mỗi đoạn của bài phú.

Phép đặt câu

Số câu trong bài phú không nhất định, muốn đặt bao nhiêu cũng được. Câu đầu mỗi đoạn thường dùng câu bốn chữ, gọi là tứ tự. Nếu xếp mấy câu bốn chữ liền nhau thì có thể gieo cùng một vần, gọi là vần liên châu.

Sau câu tứ tự thì đến thân đoạn. Số chữ mỗi câu có mấy loại, căn cứ trên cách ngắt câu.

  1. song quan: mỗi vế dưới 10 chữ, không ngắt
  2. cách cú: mỗi vế ngắt làm hai đoạn, một ngắn, một dài
  3. gối hạc hay hạc tất: mỗi vế ngắt làm ba đoạn.

Văn chương tiếng Việt còn lưu lại những bài phú nổi tiếng như bài "Cư trần lạc đạo phú" [居塵樂道賦] và "Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca" [得趣林泉成道歌] của vua Trần Nhân Tông,[1][2] soạn bằng chữ Nôm[3]

Thế kỷ 19 thì còn truyền lại bài "Tụng Tây Hồ phú" của Nguyễn Huy Lượng.

Phú chữ Hán thì có bài "Ngọc tỉnh liên phú" của Mạc Đĩnh Chi và "Bạch Đằng Giang phú" của Trương Hán Siêu.[1]

Ngoài ra văn chương Việt Nam còn dùng thể Đường phú để làm văn tế.

  • Dương Quảng Hàm. Quốc văn trích diễm. Paris: Institut de l'Asie du Sud-est, 1989. trang 159-60.

  1. ^ a b "Từ hai bài phú Nôm..."”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2014.
  2. ^ Tìm hiểu giá trị "Cư trần lạc đạo Phú" của Trần Nhân Tông"
  3. ^ "Cư trần lạc đạo" nguyên văn

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Phú&oldid=67886498”

Ảnh minh họa Chữ tượng hình là một di sản của văn hóa truyền thống trái đất, không riêng gì diễn đạt trực diện sự vật hiện tượng kỳ lạ mà còn tiềm ẩn rất nhiều điều huyền bí và bài học kinh nghiệm nhân văn thâm thúy. Ngày xưa, những mái ấm gia đình truyền thống cuội nguồn Nho giáo thường dạy con cháu bài học kinh nghiệm làm người từ những con chữ tượng hình đã sống sót hàng nghìn năm trước đó. Những bài học kinh nghiệm làm người đúc rút từ đời sống in đậm trong từng con chữ tượng hình một cách huyền bí mà logic. Những bài học kinh nghiệm bộc lộ sau từng nét chữ sinh động và mê hoặc hơn hẳn mọi lời giáo điều khô cứng. Vì vậy, văn hóa truyền thống truyền thống cuội nguồn phương Đông và di sản vô giá là chữ tượng hình luôn được gìn giữ bằng sự kính ngưỡng và trân trọng. Nhưng thực tiễn cho thấy, nhiều người dùng và hiểu chưa đúng về những điển tích văn hóa truyền thống hay chữ nghĩa thời xưa, dẫn đến những bài học kinh nghiệm đạo đức mãi luôn cần cho con người bị hiểu xô lệch, thậm chí còn bị mai một, đó là một mất mát lớn cho con cháu tất cả chúng ta và cho quả đât.

Chữ “Phú” và câu chuyện nhân văn trên từng nét chữ

Chữ Phú [富 – giàu có] trong chữ tượng hình chính thể bao gồm chữ Phúc [畐- đầy đủ] và chữ Miên [宀 – mái nhà], nghĩa là có một mái nhà để che thân, có những điều kiện đầy đủ để sống tốt thì đó là giàu có. Nhưng thế nào là đầy đủ? Chữ Phúc [畐- đầy đủ] lại gồm chữ Nhất [一 – một, mỗi từng, toàn], chữ Khẩu [口 – cái miệng] và chữ Điền [田 – ruộng vườn]. Nghĩa là có ruộng vườn để làm ăn sinh sống [hay có công việc để kiếm miếng cơm manh áo], để mỗi nhân khẩu, miệng ăn, hay toàn bộ gia đình đều đủ ăn đủ mặc, thì đó là đầy đủ, giàu có, là có phúc.

Như vậy, nghĩa của chữ Phú hoàn toàn có thể diễn giải là : có công ăn việc làm để cơm ăn ba bữa, áo mặc ấm thân và một mái nhà để dung thân, như thế là phong phú, giàu sang. Chữ “ Phú ” còn có một từ đồng âm có nghĩa là “ ban cho ”. Sự phong phú cũng là được ban cho xứng với đức hạnh của người nhận, hoặc vì thiên chức phải làm lợi cho xã hội mà được ban cho. Xã hội ngày càng tăng trưởng, đời sống vật chất niềm tin ngày càng nhiều mẫu mã văn minh, ý niệm về sự giàu [ phú ] không còn đơn thuần như xưa. Người ta cho rằng, của cải càng nhiều càng tốt, ăn không chỉ đủ no mà phải ngon, áo không riêng gì đủ ấm mà phải đẹp, nhà không riêng gì để che nắng che mưa mà phải tiện lợi bề thế … Nhưng, nhu yếu đi liền với dục vọng, nhu yếu càng cao thì dục vọng càng nhiều. Đúc rút từ đời sống qua nhiều đời người, cổ nhân đã thấm thía rằng “ lợi nhiều thì trí mờ ám, tiền dễ thì thêm mắc lỗi ” ; Cái gì cũng nên vừa đủ, biết điểm dừng, không tham lam ; Cần phải biết san sẻ, bù đắp cho người thiếu vắng, nghèo nàn. Người giàu thời nay có người ý niệm rằng phải tiêu thì mới được. Thật ra phải là ngược lại : khi được thì phải tiêu vào việc đem lại điều tốt đẹp cho người khác, cho hội đồng. Có biết dùng chỗ dư thừa để làm lợi cho người, cho xã hội, như thế cái sự không thiếu mới vững chắc, bởi Thiên Địa vốn có đạo bất di bất dịch, hợp với đạo thì được mà ngược lại sẽ mất.

Quẻ Khiêm trong Chu Dịch có viết: “Đạo trời là rút bớt chỗ dư thừa mà bồi đắp chỗ thiết hụt. Quy luật của đất đai là chỗ cao lồi thì bị xói mòn còn chỗ trũng thấp thì được đắp bồi. Luật quỷ thần thì trừng phạt kẻ ngạo mạn, ban phước cho người khiêm nhường. Đạo làm người thì tự mãn bị ghét bỏ, còn khiêm hạ được thương yêu”. Thế nên, gia sản, bạc vàng, nhiều quá mà không biết dùng cho đúng thì sẽ trở thành cái dư thừa, rồi sẽ đến lúc bị rút bớt đi.

Ảnh minh họa

Người Việt xưa chứng minh khái niệm phù hợp với đạo

Xem thêm: sĩ quan trong tiếng Tiếng Anh – Tiếng Việt-Tiếng Anh

Nguyễn Công Trứ trong “ Hàn vi phong vị phú ” có viết về gia cảnh nghèo khó của mình, nhưng ông lại cảm thấy thế vẫn là đủ, thậm chí còn còn làm cho đời sống thái bình chẳng phải lo nghĩ. “ Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no, Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ ”. Anh hùng dân tộc bản địa Nguyễn Trãi cũng từng làm thơ răn con rằng :

“Áo mặc miễn là cho cật ấm/Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon”.

Xem thêm: Mã dự thưởng MobiFone là gì? Lấy mã dự thưởng MobiFone thế nào?

Đó đúng là cái Phú đúng mực, hợp với đạo của người xưa, mọi thứ chỉ cần vừa đủ. Người quân tử đặt chí ở nơi cao xa, không nặng về cái ăn chốn ở, “ ăn không cầu ngon, ở chẳng cầu an ”. Say sưa với cơm ăn áo mặc thì tâm lý xao lãng, sa đà vào những nụ cười phù phiếm, vô bổ, trí tuệ chẳng thể thanh tịnh để nghĩ suy lo việc lớn. Hơn nữa, sống sung sướng quen rồi thì dục vọng tăng lên, những gì chăm sóc sẽ chỉ là quyền lợi, thỏa mãn nhu cầu nhu yếu của bản thân, lúc đó sẽ chẳng còn khiêm hạ, tự đẩy mình rơi vào cái thế bị rút bớt, tiền tài gia tài có được từ tranh giành quyền lợi sẽ tiêu tán. Những bậc trí giả xưa đã nhận thấy rằng dục vọng của con người sẽ không khi nào giảm đi nếu không có cách gì ngăn cản. Việc tổng hợp chữ Phú từ chữ Phúc [ 畐 – rất đầy đủ ] và chữ Miên [ 宀 – mái nhà ] từ đó đặt ra định nghĩa cho chữ Phú là để số lượng giới hạn lòng tham của con người, một tiêu chuẩn của người tử tế, chính là để duy trì đạo đức và sự cân đối, bảo vệ sự hòa hợp giữa quyền lợi của những cá thể trong xã hội. Giàu có, ấy là sự không thiếu vừa đủ, không phải sự xa hoa, thừa thãi.

Video liên quan

Chủ Đề