Nơron thần kinh tiếng anh là gì

Liệt là một trong những lý do phổ biến nhất mà bệnh nhân đến gặp với các bác sỹ chăm sóc y tế ban đầu. Liệt là tình trạng mất cơ lực, mặc dù nhiều bệnh nhân còn sử dụng thuật ngữ này khi họ cảm thấy mệt mỏi hoặc có những hạn chế về chức năng [ví dụ do đau hoặc khớp hạn chế vận động] mặc dù cơ lực bình thường.

Liệt có thể ảnh hưởng đến một vài hoặc nhiều cơ và tiến triển đột ngột hoặc từ từ. Các triệu chứng khác có thể xuất hiện tùy thuộc vào nguyên nhân. Liệt các nhóm cơ đặc biệt có thể gây rối loạn vận nhãn, nói khó, khó nuốt, hoặc liệt hô hấp.

Vận động hữu ý được chỉ huy tại vỏ não vận động, ở phần sau của thùy trán. Các nơ-ron liên quan [nơ ron vận động trên hoặc bó vỏ gai] kết nối qua sy náp với các nơ-ron trong tủy sống [các tế bào thần kinh vận động dưới]. Tế bào thần kinh vận động dưới truyền các xung động đến khớp nối thần kinh cơ để gây co cơ.

Do vậy, các cơ chế chung của liệt bao gồm rối loạn chức năng

  • Tế bào thần kinh vận động trên [tổn thương bó vỏ gai bag và vỏ hành]

  • Tế bào thần kinh vận động dưới [ví dụ, do các bệnh đa dây thần kinh ngoại vi hoặc tổn thương tế bào sừng trước]

  • Synap thần kinh cơ

  • Cơ [ví dụ, do bệnh cơ]

Vị trí của một số thương tổn tương quan với các triệu chứng thực thể:

  • Các rối loạn chức năng của nơ-ron vận động trên gây mất ức chế nơ-ron vận động dưới, làm tăng trương cơ [co cứng] và tăng phản xạ căng cơ [tăng phản xạ]. Phản xạ da gan bàn chân [dấu hiệu Babinski] dương tính đặc hiệu đối với rối loạn chức năng bó vỏ gai. Tuy nhiên, rối loạn chức năng nơ-ron vận động trên có thể làm giảm phản xạ và trương lực cơ nếu liệt đột ngột và trầm trọng [ví dụ như cắt ngang tủy sống, trương lực cơ sẽ giảm trong vài ngày đầu, sau đó tăng dần qua nhiều ngày đến vài tuần] hoặc nếu tổn thương gây tổn thương vỏ não vận động ở khu vực trước rãnh trung tâm và không tổn thương các khu vực vận động liên hợp lân cận.

  • Sự rối loạn chức năng nơron vận động dưới phá vỡ các cung phản xạ, gây giảm phản xạ và giảm trương lực cơ [liệt mềm], và có thể gây giật bó cơ; và teo cơ theo thời gian.

  • Các bệnh đa dây thần kinh ngoại vị có xu hướng dễ nhận thấy nhất trong các dây thần kinh dài nhất [liệt ưu thế ở ngọn chi hơn gốc chi, chân nặng hơn tay] và gây ra các dấu hiệu rối loạn chức năng nơ-ron vận động thấp [ví dụ, giảm phản xạ và trương lực cơ].

  • Rối loạn chức năng cơ lan tỏa [ví dụ trong các bệnh cơ] có xu hướng dễ nhận thấy nhất trong các nhóm cơ lớn nhất [các cơ bắp gốc chi].

Nguyên nhân thường gặp của liệt khu trú bao gồm

Các nguyên nhân phổ biến nhất của liệt toàn thể

  • Mất chức năng do không hoạt động [teo cơ do không vận động] do bệnh tật hoặc tình trạng dễ bị tổn thương, nhất là ở người cao tuổi

  • Tiêu cơ toàn thân do bất động kéo dài khi điều trị tại Khoa hồi sức tích cực [ICU] [bệnh cơ ICU] - một tình trạng gọi là bệnh cơ khoa Hồi sức tích cực

  • Bệnh đa dây thần kinh khi bị bệnh rất nặng [bệnh thần kinh ICU]

  • Các bệnh cơ [myopathy] thường gặp [ví dụ, bệnh cơ do rượu, hạ kali máu, bệnh cơ do corticosteroid]

  • Sử dụng thuốc gây liệt ở bệnh nhân phải chăm sóc tích cực

Các nguyên nhân thường gặp của sự mệt mỏi bao gồm bệnh trầm trọng cấp tính do bất kỳ nguyên nhân nào, ung thư, nhiễm trùng mãn tính [ví dụ HIV Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người [HIV] là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau [HIV-1 và HIV-2] chúng phá hủy tế bào lympho CD4 + và làm giảm khả năng miễn dịch... đọc thêm

, viêm gan Nguyên nhân gây viêm gan Hepatitis is an inflammation of the liver characterized by diffuse or patchy necrosis. Viêm gan có thể là cấp tính hoặc mạn tính [thường được định nghĩa là kéo dài > 6 tháng]. Hầu hết các trường... đọc thêm , viêm nội tâm mạc Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn Viêm nội tâm mạc nhiễm trùng là nhiễm trùng của màng ngoài tim, thường do vi khuẩn [thường do các vi khuẩn như streptococci hoặc staphylococci] hoặc nấm. Triệu chứng điển hình là gây sốt, nhịp... đọc thêm
, mononucleosis Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn Bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do siêu vi khuẩn Epstein-Barr [EBV, herpesvirus type 4] và có đặc điểm là mệt mỏi, sốt, viêm họng, và hạch to. Mệt mỏi có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng... đọc thêm
], rối loạn nội tiết, suy thận Bệnh thận mạn Bệnh thận mạn [BTM] là sự suy giảm chức năng thận tiến triển, kéo dài. Các triệu chứng tiến triển chậm và trong các giai đoạn tiến triển có các triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn, viêm... đọc thêm
, suy gan Suy gan cấp Nguyên nhân thường gặp nhất của suy gan cấp là thuốc và virus viêm gan. Các triệu chứng chính là vàng da, rối loạn đông máu, và bệnh não. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng. Điều trị chủ yếu là hỗ trợ... đọc thêm , suy tim Suy tim [HF] Suy tim [HF] là một hội chứng rối loạn chức năng tâm thất. Suy tim trái gây khó thở và mệt mỏi, suy tim phải gây ứ trệ tuần hoàn ngoại biên; các tình trạng suy tim trên có thể tiến triển đồng... đọc thêm
và thiếu máu Nguyên nhân của thiếu máu Thiếu máu là sự giảm về số lượng hồng cầu [RBCs], dẫn đến giảm lượng hematocrit và hemoglobin. [Xem thêm Sản xuất hồng cầu.] Khối hồng cầu đại diện cho sự cân bằng giữa sản xuất và tiêu hủy... đọc thêm . Bệnh đa xơ cứng có thể gây ra mệt mỏi hàng ngày tăng lên khi tiếp xúc với nhiệt độ và độ ẩm.

Việc đánh giá yếu nên cố gắng phân biệt liệt thật sự với mệt mỏi, sau đó kiểm tra các triệu chứng giúp xác định cơ chế hoặc vị trí gây bệnh [ví dụ, liệt do rối loạn chức năng của não, tủy sống, đám rối, dây thần kinh ngoại vi, khớp thần kinh cơ hoặc cơ] khi có thể, xác định nguyên nhân.

Bệnh sử hiện tại nên bắt đầu với các câu hỏi mở, yêu cầu bệnh nhân mô tả chi tiết những gì họ đang trải qua khi bị liệt. Sau đó, có thể hỏi những câu hỏi cụ thể, đặc biệt về khả năng làm các công việc cụ thể, bao gồm đánh răng hoặc chải tóc, nói, nuốt, đứng dậy khỏi ghế, leo lên cầu thang và đi bộ.

Các thầy thuốc lâm sàng cũng nên hỏi về sự khởi phát yếu [đột ngột hoặc từ từ] và tiến triển [ví dụ, cố định, xấu đi, không liên tục] của các triệu chứng. Cần hỏi câu hỏi đóng để phân biệt khởi phát đột ngột với sự phát hiện đột ngột; bệnh nhân có thể đột nhiên nhận ra các triệu chứng chỉ sau khi liệt tiến triển chậm vượt qua ngưỡng làm ngăn cản họ thực hiện một số công việc thông thường [ví dụ như đi bộ, buộc giày].

Các triệu chứng quan trọng liên quan bao gồm thay đổi cảm quan, thị giác kép, mất trí nhớ, khó sử dụng ngôn ngữ, động kinh và nhức đầu. Các yếu tố làm liệt nặng lên, như nhiệt độ nóng [gợi ý bệnh xơ cứng rải rác] hoặc sử dụng lặp đi lặp lại một cơ [gợi ý nhược cơ].

Thăm khám toàn thân nên tìm kiếm các triệu chứng gợi ý về nguyên nhân có thể gây ra, bao gồm những biểu hiện sau:

  • Mệt mỏi và yếu cơ hàng ngày tăng lên khi nóng và ẩm: Đa xơ cứng

  • Sốt: Nhiễm trùng mãn tính

  • Đau cơ: Viêm cơ

  • Chán ăn và giảm cân: Ung thư hoặc các bệnh mãn tính khác

  • Không chịu được nóng hoặc lạnh: Rối loạn chức năng tuyến giáp

Tiền sử y khoa nên xác định các rối loạn đã biết có thể gây ra yếu hoặc mệt mỏi, bao gồm

  • Rối loạn tuyến giáp, gan, thận hoặc tuyến thượng thận

  • Viêm xương khớp [bệnh lý tủy cổ]

  • Nhiễm trùng

Các thầy thuốc lâm sàng cần đánh giá các yếu tố nguy cơ đối với các nguyên nhân có thể, bao gồm các yếu tố nguy cơ nhiễm trùng [ví dụ như quan hệ tình dục không an toàn, truyền máu, tiếp xúc với lao] và đột quỵ [ví dụ, tăng huyết áp, rung nhĩ, xơ vữa động mạch].

Nên xem xét toàn bộ tiền sử các thuốc đã dùng.

Tiền sử gia đình nên bao gồm các rối loạn về di truyền đã biết [ví dụ rối loạn cơ di truyền, bệnh lý kênh ion, bệnh cơ chuyển hóa, các bệnh thần kinh di truyền] và các triệu chứng tương tự trong các thành viên gia đình [gợi ý một rối loạn di truyền không nhận dạng được]. Bệnh thần kinh vận động di truyền thường không được nhận ra trong các gia đình vì biểu hiện kiểu hình khác nhau, không đầy đủ. Ngón chân hình búa, bàn chân lõm, và chơi thể thao kém có thể gợi ý một bệnh thần kinh vận động di truyền không được chẩn đoán.

Tiền sử xã hội cần lưu ý những điều sau:

  • Sử dụng rượu: Gợi ý bệnh cơ do rượu

  • Sử dụng ma túy trái phép: Gợi ý tăng nguy cơ nhiễm HIV/AIDS, nhiễm khuẩn, lao hoặc đột quỵ do sử dụng cocaine

  • Việc tiếp xúc trong nghề nghiệp hoặc tiếp xúc với các chất độc khác [ví dụ, thuốc trừ sâu photphas hữu cơ, kim loại nặng, dung môi công nghiệp]

  • Đi du lịch gần đây: Gợi ý bệnh Lyme, liệt do côn trùng đốt, bệnh bạch hầu, hoặc nhiễm ký sinh trùng

  • Những căng thẳng xã hội: Gợi ý trầm cảm

Khám thần kinh và cơ toàn diện để xác định vị trí hoặc các triệu chứng phục vụ chẩn đoán. Những triệu chứng chính thường liên quan

  • Thần kinh sọ

  • Chức năng vận động

  • Phối hợp

  • Dáng đi

  • Cảm giác

  • Phản xạ

khám vận động Đánh giá Hệ vận động như thế nào Các chi và đai vai phải được bộc lộ đầy đủ, sau đó tìm kiếm những thông tin dưới đây: Teo cơ Phì đại cơ Phát triển không đối xứng Giật bó cơ đọc thêm bao gồm kiểm tra, đánh giá trương lực cơ và kiểm tra cơ lực. Khám toàn thân để tìm chứng vẹo cột sống [đôi khi gợi ý bằng triệu chứng liệt mạn tính của cơ cạnh sống], các vết sẹo phẫu thuật và do chấn thương. Tư thế loạn trương lực [ví dụ: vẹo cổ] có thể cản trở các động tác, và biểu hiện giống liệt. Khám cơ để tiềm dấu hiệu giật bó cơ và teo cơ; cả hai có thể khởi đầu khu trú hoặc không đối xứng trong bệnh xơ cứng cột bên teo cơ [ALS]. Giật bó cơ có thể nhìn thấy rõ nhất ở lưỡi những bệnh nhân bị ALS giai đoạn nặng. Teo cơ lan tỏa có thể rõ nhất ở bàn tay, mặt và vùng đai vai.

Trương lực cơ được đánh giá bằng cử động thụ động. Gõ vào một cơ [ví dụ, cơ mô út] có thể gây giật bó cơ trong các bệnh thần kinh ngoại vi hoặc co rút cơ trong bệnh loạn dưỡng cơ.

Kiểm tra cơ lực Đánh giá cơ lực như thế nào Bệnh nhân phàn nàn yếu có thể có nghĩa là mệt mỏi, vụng về, hoặc yếu cơ thực sự. Do đó, người khám phải xác định chính xác đặc điểm của các triệu chứng, bao gồm vị trí, thời gian xuất hiện,... đọc thêm nên bao gồm các cơ vùng gốc chi, ngọn chi, cơ duỗi và cơ gấp. Một số xét nghiệm các cơ lớn vùng gốc chi bao gồm đứng lên từ tư thế ngồi; ngồi xổm và đứng lên; và uốn cong, duỗi dài, và xoay đầu chống lại sự đề kháng.

Cơ lực thường được đánh giá theo thang điểm từ 0 đến 5:

  • 0: Không có sự co cơ

  • 1: Nhìn thấy co cơ nhưng không gây di chuyển được chi

  • 2: Cử động được chi nhưng không chống lại được trọng lực

  • 3: Động tác chống lại được trọng lực nhưng không chống được lực đối kháng

  • 4: Yếu khi làm nghiệm pháp đối kháng

  • 5: Cơ lực bình thường

Mặc dù những con số này có vẻ khách quan, nhưng đánh giá cơ lực từ 3 đến 5 [những mức điển hình trong liệt giai đoạn sớm, khi thường có chẩn đoán] lại khá chủ quan; nếu triệu chứng một bên, việc so sánh với bên không bị ảnh hưởng sẽ cải thiện khả năng phân biệt. Mô tả cụ thể những gì mà bệnh nhân có thể hoặc không thể làm thường hữu ích hơn là chỉ đơn giản đưa ra mức độ liệt, nhất là để đánh giá sự thay đổi của liệt theo thời gian. Suy giảm nhận thức có thể gây mất khả năng duy trì vận động [không có khả năng tập trung chú ý vào việc hoàn thành một nhiệm vụ vận động], động tác lặp lại nhiều lần, thất dụng, hoặc nỗ lực không đầy đủ. Sự giả vờ và những kiểu liệt chức năng khác thường đặc trưng bởi kiểu liệt đột ngột, trong đó đột ngột mất đi cơ lực bình thường khi gắng sức.

Kiểm tra khả năng phối hợp Làm thế nào để Đánh giá Dáng đi, Tư thế và Phối hợp động tác Dáng đi, tư thế và phối hợp động tác bình thường đòi hỏi sự toàn vẹn của con đường vận động, tiền đình, tiểu não, và nhận cảm cảm giác [ xem thêm Bệnh lý vận động và tiểu não]. Một tổn thương... đọc thêm bao gồm nghiệm pháp ngón tay chỏ-mũi và gót chân-đầu gối, bước đi nối gót để kiểm tra rối loạn chức năng tiểu não. Rối loạn này có thể xảy ra khi bị đột quỵ vùng tiểu não, teo thùy nhung tiểu não [ví dụ: do lạm dụng rượu], một số chứng thất điều do teo bó gai tiểu não có tính di truyền Thất điều di truyền Bệnh lý tiểu não có nhiều nguyên nhân, bao gồm dị tật bẩm sinh, thất điều di truyền và các bệnh mắc phải. Các triệu chứng khác nhau tùy theo nguyên nhân nhưng thường bao gồm mất điều hòa [suy... đọc thêm , bệnh đa xơ cứng Xơ cứng rải rác [MS] Xơ cứng rải rác [MS] được đặc trưng bởi mất các mảng myelin ở não và tủy sống. Các triệu chứng thường gặp gồm những bất thường về vận nhãn, dị cảm, yếu cơ, co cứng, rối loạn tiểu tiện và rối... đọc thêm

, và hội chứng Miller Fisher, một biến thể của hội chứng Guillain-Barré Hội chứng Guillain - Barre [GBS] Hội chứng Guilain - Barre là bệnh cấp tính, tiến triển nhanh, đặc trưng bởi quá trình viêm tự miễn nhiều dây thần kinh, gây ra yếu cơ và giảm cảm giác nơi thần kinh chi phối. Nguyên nhân gây... đọc thêm .

Dáng đi được quan sát để tìm những triệu chứng sau:

  • Thất dụng, như khi bàn chân dính chặt xuống sàn: Tràn dịch não áp lực bình thường hoặc rối loạn thùy trán khác

  • Dáng đi không kìm lại được: Bệnh Parkinson

  • Mất cân xứng chi, như khi bệnh nhân đi phải kéo lê một chân, giảm độ vung cánh tay, hoặc cả hai: Đột quỵ ở bán cầu

  • Thất điều: Bệnh đường giữa tiểu não

Kiểm tra khả năng đi trên ngón chân và gót chân; yếu cơ ngọn chi làm cho những động tác này trở nên khó khăn. Đi bộ trên gót đặc biệt khó khăn khi tổn thương đường họng là nguyên nhân của sự yếu đuối. Đi giày dép là đáng chú ý đối với việc kéo [chân hơi cong ở hông và đầu gối, khiến cho đầu gối, đùi và đùi đập hoặc nhảy theo kiểu kéo] và đi bộ trên ngón chân. Dáng đi bàn chân ngựa và bước chân rơi có thể xuất hiện trong bại não thần kinh peroneal.

Cảm giác ngứa ran và áp lực trong phân bố da liễu là một dấu hiệu tủy sống xảy ra với cả tổn thương bên trong và bên ngoài.

  • Dấu hiệu Babinski cổ điển [ngón chân cái gấp lên và các ngón còn lại cụp xuống và xòe ra như nan quạt] rất đặc hiệu đối với tổn thương bó tháp.

  • Tăng phản xạ gân xương ở tứ chi và phản xạ hàm bình thường gợi ý tổn thương cột sống cổ làm ảnh hưởng đến bó vỏ gai, thường là chứng hẹp ống sống cổ.

  • Trương lực hậu môn, phản xạ co thắt hậu môn, hoặc cả hai đều giảm hoặc mất trong chấn thương tủy sống nhưng vẫn còn trong liệt lan lên do hội chứng Guillain-Barré.

  • Phản xạ da bụng mất ở phía dưới mức tủy sống bị chấn thương.

  • Phản xạ da bìu có thể kiểm tra sự toàn vẹn của tủy thắt lưng trên và rễ thần kinh ở nam giới.

Việc đánh giá cũng bao gồm

  • Gõ cột sống tìm điểm đau và ổ áp xe [biểu hiện khi viêm đốt sống, một số khối u đốt sống và áp xe ngoài màng cứng]

  • Nâng thẳng chân lên [xuất hiện đau khi bị tổn thương dây thần kinh tọa]

  • Kiểm tra dấu hiệu xệ vai [gợi ý liêt cơ đai vai]

Nếu bệnh nhân không liệt vận động rõ ràng, thì khám toàn thân rất quan trọng; ở những bệnh nhân này, cần tìm kiếm các rối loạn không do thần kinh cơ.

Cần lưu ý dấu hiệu suy hô hấp [ví dụ như thở nhanh, thở yếu]. Kiểm tra dấu hiệu vàng da, nhợt nhạt, phát ban, và sưng tấy. Những phát hiện quan trọng khác trong quá trình khám bệnh bao gồm mặt tròn như mặt trăng của hội chứng Cushing và sưng vùng mang tai, da trơn không có lông, cổ trướng và sao mạch do uống rượu kéo dài.

Nên khám hạch vùng cổ, nách, và vùng bẹn; lưu ý tuyến giáp to.

Nghe tim và phổi để phát hiện ral nổ, tiếng khò khè, kéo dài thì thở ra, tiếng thổi và tiếng ngựa phi.

Khám bụng tìm khối u, cầu bàng quang nếu rối loạn chức năng tủy sống.

Khám trực tràng để kiểm tra máu trong phân.

Đánh giá phạm vi chuyển động của khớp.

Nếu nghi ngờ liệt do côn trùng đốt cần phải kiểm tra kỹ, da, đặc biệt là da đầu, để tìm vết đốt.

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Liệt tiến triển nặng hơn trong vài ngày hoặc ít hơn

  • Khó thở

  • Không thể nâng đầu chống lại trọng lực

  • Các triệu chứng của hành tủy [ví dụ như khó nhai, nói chuyện và nuốt]

  • Mất khả năng đi lại

Bệnh sử giúp phân biệt liệt với mệt mỏi, xác định quá trình tiến triển theo thời gian của bệnh, và đưa ra những triệu chứng để định khu giải phẫu của liệt. Liệt không hoàn toàn và mệt mỏi có xu hướng gây ra các triệu chứng khác nhau:

  • Liệt không hoàn toàn: Bệnh nhân thường phàn nàn họ không thể làm những công việc cụ thể. Họ cũng có thể nói rằng các chi của mình có cảm giác nặng hoặc cứng. Liệt thường có một mô hình nhất định theo thời gian, giải phẫu, hoặc cả hai.

  • Mệt mỏi: Triệu chứng mệt mỏi khi bị bệnh nhân nhầm lẫn với liệt thường có xu hướng không có khuôn mẫu thời gian [ví dụ, "mệt mỏi suốt ngày"] hoặc không có định khu giải phẫu cụ thể [ví dụ, "yếu ở khắp cơ thể"]; triệu chứng tập trung nhiều hơn về cảm giác mệt mỏi hơn là không thể làm được những hoạt động cụ thể.

Các mô hình thời gian của các triệu chứng rất hữu ích.

  • Liệt tiến triển nặng hơn trong vài phút hoặc ngắn hơn thường là do chấn thương nặng hoặc đột quỵ; trong đột quỵ, thường liệt một bên và mức độ nhẹ hoặc nặng. Liệt đột ngột, tê và đau dữ dội ở một chi có thể do tắc động mạch khu trú và thiếu máu cục bộ chi. Điều này có thể được phân biệt bằng khám mạch máu [ví dụ như mạch đập, màu sắc, nhiệt độ, nghiệm pháp đo thời gian đổ đầy mao mạch, tỉ số huyết áp chi trên chi dưới đo qua siêu âm Doppler]. Ép tủy cũng có thể gây liệt, tiến triển trong vài phút [nhưng thường qua hàng giờ hoặc nhiều ngày] và dễ phân biệt bằng đại tiểu tiện không tự chủ được và những triệu chứng lâm sàng về cảm giác và vận động.

  • Liệt tiến triển tăng dần qua nhiều giờ đến nhiều ngày có thể do các bệnh lý cấp tính hoặc bán cấp [ví dụ, ép tủy, viêm tủy ngang, thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết tủy sống, hội chứng Guillain-Barré, đôi khi teo cơ do một bệnh nặng, tiêu cơ vân, ngộ độc bệnh ngộ độc Ngộ độc thịt [botulism] gây ra bởi độc tố của Clostridium botulinum và gây ảnh hưởng đến dây thần kinh ngoại vi. Có thể nhiễm botulism mà không gây bệnh nếu nuốt, tiêm hoặc hít phải độc... đọc thêm độc tố vi khuẩn ngộ độc thịt, ngộ độc phosphate hữu cơ Ngộ độc Phospho hữu cơ và Ngộ độc Carbamate Các chất phospho hữu cơ và cacbamate là các thuốc trừ sâu thông thường ức chế hoạt tính của cholinesterase, gây ra hiện tượng muscarinic cấp tính [ví dụ như tăng tiết nước bọt, chảy nước mắt... đọc thêm ].

  • Liệt dao động từ ngày này sang ngày khác có thể do xơ cứng rải rác và đôi khi là do bệnh cơ chuyển hóa.

Các mô hình giải phẫu của liệt được đặc trưng bởi những khó khăn khi thực hiện các động tác. Các mô hình giải phẫu gợi ý một số chẩn đoán nhất định:

  • Liệt cơ gốc chi gây khó khăn khi làm động tác với lên cao [ví dụ như chải tóc, nâng vật qua đầu], đi lên cầu thang, hoặc đứng dậy từ tư thế ngồi; mô hình này là điển hình của bệnh cơ.

  • Liệt cơ ngọn chi gây khó khăn khi làm các động tác như bước qua lề đường, cầm cốc, viết, cài khuy hoặc sử dụng chìa khóa; mô hình này điển hình cho bệnh đa dây thần kinh và chứng loạn dưỡng cơ. Nhiều bệnh lý [ví dụ bệnh đa dây thần kinh hủy myelin mạn tính Viêm đa rễ dây thần kinh mất myelin mạn tính [CIDP] Viêm đa rễ dây thần kinh mất myelin mãn tính là bệnh gây ra do trung gian miễn dịch, có đặc điểm là yếu đồng đều đối xứng cơ gốc chi và ngọn chi, kéo dài > 2 tháng. [Xem thêm Tổng quan về bệnh... đọc thêm , hội chứng Guillain-Barré Hội chứng Guillain - Barre [GBS] Hội chứng Guilain - Barre là bệnh cấp tính, tiến triển nhanh, đặc trưng bởi quá trình viêm tự miễn nhiều dây thần kinh, gây ra yếu cơ và giảm cảm giác nơi thần kinh chi phối. Nguyên nhân gây... đọc thêm , bệnh nhược cơ, bệnh lý rễ thần kinh, hội chứng Eaton-Lambert] gây liệt gốc và ngọn chi, nhưng thường có một mô hình liệt nổi trội hơn tại thời điểm khởi phát.

  • Liệt hành tủy có thể gây liệt mặt, khó nói, và khó nuốt, có hoặc không rối loạn vận nhãn; các biểu hiện này điển hình cho một số rối loạn thần kinh cơ, như bệnh nhược cơ, hội chứng Eaton-Lambert, hoặc bệnh ngộ độc thịt, một số rối loạn nơ ron vận động, như xơ cứng cột bên teo cơ Bệnh xơ cột bên teo cơ [ALS] và bệnh thần kinh vận động khác [MND] Bệnh xơ cột bên teo cơ và các bệnh lý thần kinh vận động khác được đặc trưng bởi sự thoái hóa liên tục, lan dần tới các bó dẫn truyền, tế bào sứng trước tủy sống, các nhân vận động hành não... đọc thêm hoặc liệt trên nhân tiến triển. Liệt trên nhân tiến triển [PSP] Liệt trên nhân tiến triển là bệnh lý thoái hóa hệ thần kinh trung ương hiếm gặp, gây liệt vận nhãn tiến triển, chậm vận động, co cứng cơ, loạn trương lực quanh trục tiến triển, giả liệt hành... đọc thêm

Khám thực thể tiếp tục giúp định khu tổn thương. Thứ nhất, các mô hình chung được phân biệt:

  • Liệt chủ yếu ở các cơ gốc chi sẽ gợi ý bệnh cơ.

  • Liệt đi kèm với tăng phản xạ và tăng trương lực cơ gợi ý các rối loạn chức năng nơ-ron vận động trên [bó vỏ gai hoặc các bó vận động khác], đặc biệt nếu phản xạ da gan bàn chân [dấu hiệu Babinski] dương tính.

  • Rối loạn không đều động tác tính vi của các ngón tay [ví dụ các động tác kẹp kiểu gọng kìm, chơi piano] với cơ lực được duy trì tương đối cho thấy sự gián đoạn chọn lọc của bó vỏ gai [bó chóp].

  • Liệt hoàn toàn kèm theo mất phản xạ và giảm nặng trương lực cơ [liệt mềm] xảy ra khi tổn thương tủy sống nặng, đột ngột [choáng tủy].

  • Liệt đi kèm giảm phản xạ, giảm trương lực cơ [có hoặc không có giật bó cơ] và teo cơ mãn tính gợi ý rối loạn chức năng nơron vận động thấp.

  • Liệt các cơ được chi phối bởi các sợi thần kinh dài nhất [nghĩa là liệt ngọn chi nhiều hơn gốc chi, chân nặng hơn tay], nhất là mất cảm giác ngọn chi, gợi ý rối loạn chức năng nơ ron vận động thấp do bệnh đa thần kinh ngoại vi.

  • Không có các bất thường thần kinh [tức là phản xạ bình thường, không có teo cơ hay giật bó cơ, cơ lực bình thường hoặc gắng sức không tốt khi kiểm tra cơ lực] hoặc gắng sức không tốt ở những bệnh nhân bị mệt mỏi hoặc liệt nhưng không có mô hình thời gian hoặc giải phẫu phù hợp gợi ý chứng mệt mỏi hơn là liệt thật sự. Tuy nhiên, nếu liệt không liên tục và tại thời điểm khám không liệt, các bất thường có thể bị bỏ sót.

Những phát hiện bổ sung có thể giúp định khu tổn thương chính xác hơn. Ví dụ,

  • liệt đi kèm các dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động trên cùng với các dấu hiệu khác như thất ngôn, rối loạn chức năng tâm thần hoặc rối loạn chức năng vỏ não khác gợi ý tổn thương não: Tổn thương não

  • Dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động trên một bên [co cứng, tăng phản xạ, dấu hiệu Babinski dương tính] và liệt một tay và một chân cùng bên: Tổn thương bán cầu bên đối diện, thường là do đột quỵ

  • Dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động trên hoặc dưới [hoặc cả hai] cùng với mất cảm giác phía dưới mức một đoạn tủy nhất định và mất kiểm soát ruột hoặc bàng quang [hoặc cả hai]: Tổn thương tủy sống

Liệt đi kèm các dấu hiệu tổn thương nơ ron vận động dưới có thể do một rối loạn gây ảnh hưởng đến một hoặc nhiều dây thần kinh ngoại vi; rối loạn như thế có kiểu biểu hiện liệt rất đặc trưng [ví dụ, bàn tay rủ cổ cò trong chấn thương thần kinh quay]. Khi bị tổn thương đám rối cánh tay hoặc thắt lưng cùng, các rối loạn vận động, cảm giác và phản xạ thường không đều và không theo bất kỳ sự phân bố của dây thần kinh ngoại vi nào.

Bệnh nhân có nhiều bệnh có thể bị hạn chế chức năng nhưng không mất cơ lực thực sự. Ví dụ, rối loạn chức năng tim phổi hoặc thiếu máu có thể gây ra sự mệt mỏi do khó thở hoặc không dung nạp các bài tập. Rối loạn chức năng khớp [ví dụ, do viêm khớp] hoặc đau cơ [ví dụ, do đau đa cơ dạng thấp hoặc đau cơ xơ] có thể gây khó khăn cho các hoạt động thể chất. Những rối loạn thể chất này gây ra nhiều than phiền về liệt [ví dụ: cúm, nhiễm trùng tăng bạch cầu đơn nhân, suy thận] thường đã được chẩn đoán hoặc được gợi ý bởi những phát hiện trong bệnh sử, khám thực thể, hoặc cả hai.

Nhìn chung, nếu bệnh sử và khám thực thể không phát hiện các bất thường gợi ý các rối loạn thực thể thì các rối loạn này khó xảy ra; Các rối loạn gây mệt mỏi liên tục, toàn thân không kèm theo kiểu thái dương hoặc giải phẫu sinh lý [ví dụ: trầm cảm; hội chứng mệt mỏi mãn tính; bệnh toàn thân chưa được phát hiện như thiếu máu nặng, suy giáp hoặc bệnh Addison; tác dụng phụ của thuốc] cần được xem xét.

Mặc dù nhiều xét nghiệm có thể được thực hiện nếu bệnh nhân bị liệt thật sự, nhưng các xét nghiệm như vậy thường chỉ hỗ trợ.

Nếu không có liệt thật sự, các triệu chứng lâm sàng khác [ví dụ, khó thở, nhợt, vàng da, tiếng thổi ở tim], nếu có, được sử dụng để định hướng xét nghiệm.

Nếu bệnh nhân không có bất thường trên lâm sàng, thì thường kết quả xét nghiệm sẽ không bất thường. Trong những trường hợp như vậy, các phương pháp xét nghiệm rất khác nhau. Các xét nghiệm ban đầu thường bao gồm một số kết hợp của công thức máu [CBC], chất điện giải [bao gồm canxi và magiê], glucose, xét nghiệm chức năng thận và gan, hormone kích thích tuyến giáp [TSH], tốc độ máu lắng [ESR] và xét nghiệm huyết thanh viêm gan C.

Nếu liệt toàn thân đột ngột hoặc nghiêm trọng hoặc có bất kỳ triệu chứng hô hấp, cần phải kiểm tra dung tích sống gắng sức và dung tích hít vào tối đa để đánh giá nguy cơ suy hô hấp cấp. Bệnh nhân có dung tích sống

Chủ Đề