Mục đích của phong trào Duy tân là gì

10/11/2020 578

Câu hỏi Đáp án và lời giải

Đáp án và lời giải

đáp án đúng: A

Chọn đáp án: A. Lập ra một nước Việt Nam độc lập.

Lựu [Tổng hợp]

Năm 1904, Phan Bội Châu thành lập Hội Duy tân nhằm mục đích: Đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập, thiết lập một chính thể quân chủ lập hiến ở Việt Nam. Cùng Top lời giải tìm hiểu về Hội Duy tân:

Quá trình thành lập Hội Duy tân

Tổ chức này gắn liền với cái tên Phan Bội Châu [1867-1940], nhà yêu nước- nhà văn hóa lớn, nhân vật trung tâm của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Ngày 8/4/1904, từ Nam Kỳ trên đường trở về quê nhà [Nghệ An], Phan Bội Châu cùng với những người cùng chí hướng với mình như Cường Để, Đặng Thái Thân và khoảng hơn 20 đồng chí khác họp tại nhà riêng của Nguyễn Hàm [Nguyễn Thành, Nguyễn Tiểu La] tại Nam Thịnh sơn trang [Thăng Bình, Quảng Nam] thành lập một tổ chức có tên là Duy Tân Hội. Ngay tại cuộc họp thành lập, cương lĩnh và mục tiêu hành động của Duy Tân Hội được xác định: “ Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục được ViệtNam, lập ra một chính phủ độc lập…”, đồng thời đề ra ba nhiệm vụ trước mắt:

- Phát triển thực lực về người cũng như về tài chính

- Xúc tiến việc chuẩn bị bạo động và các công việc sau khi phát đi lệnh bạo động

- Chuẩn bị xuất dương cầu viện, xác định phương châm và thủ đoạn xuất dương

Nhiệm vụ thứ ba được coi là quan trọng nhất giao cho Nguyễn Thành và Phan Bội Châu trù liệu. Với danh xưng hợp pháp là “duy tân” [đổi mới] nhưng nội dung hoạt động và nhiệm vụ của Duy Tân Hội đã được xác định là “ chuẩn bị bạo động” và chuẩn bị “ xuất dương cầu viện”, phản ánh tư tưởng cách mạng bạo lực, biện pháp bạo lực, con đường tất yếu và tất thắng nhằm thực hiện mục tiêu đấu tranh của mình. “Giữ bí mật tuyệt đối” với kẻ thù xâm lược và tay sai của chúng trong hoàn cảnh lịch sử xã hội đương thời là một thách thức, đầy gay go đối với Duy tân Hội trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của mình. Về nhân sự của Hội cũng được phân định rõ ràng: tất cả các cử tọa đều nhất trí tôn Cường Để làm minh chủ; Phan Bội Châu là người lãnh đạo và chịu trách nhiệm chung; Tiểu La Nguyễn Thành [người Quảng Nam], Đặng Thái Thân [người Nghệ An] làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch tuyên truyền, vận động và tổ chức các hoạt động của Hội theo các nhiệm vụ đã nêu trên.

Kỳ Ngoại Hầu Cường Để [bên trái] và Phan Bội Châu tại Nhật Bản năm 1907.

Duy Tân hội hoạt động ở nước ngoài

Đầu năm 1905, chương trình kế hoạch hoạt động của Duy Tân Hội được triển khai không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài. Cụ thể là Chi hội ở Nhật được thành lập với tên Công Hiến Hội, tại Hồng Kông và Xiêm [Thái Lan] thành lập chi nhánh của Duy Tân Hội; đồng thời chuẩn bị kế hoạch đưa Phan Bội Châu vượt biển sang Nhật Bản, cùng đi có Đặng Tử Kính [người Nghệ An], Tăng Bạt Hổ [người Bình Định] là người hướng dẫn Phan Bội Châu đến Nhật Bản. Năm 1906, Hội nghị lần thứ II của Duy Tân Hội họp ở Hồng Kông, đánh dấu sự tiến bộ của hội trên các mặt hoạt động nói chung và quan hệ đối ngoại nói riêng. Từ đó lãnh đạo Duy Tân Hội không ngừng quan tâm tuyên truyền nội dung Cương lĩnh của Hội dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là qua thơ văn và những tài liệu quan trọng của Phan Bội Châu như: Lưu cầu huyết lệ tân thư [1903]: lấy các nhân vật quan trọng trong bộ máy quan lại triều Nguyễn làm đối tượng phản ánh, tỏ thái độ về khoa cử, thuế má, đề cập đến tầng lớp giàu có trong xã hội, ít nhiều ảnh hưởng qua Tân Thư của Trung Quốc thời đó; Hải ngoại huyết thư [1906]: Phần mở đầu đã chỉ ra ba tệ nạn đưa Việt Nam tới mất nước: “ vua của nước không biết có dân; tôi của nước không biết có dân; dân của nước không biết có nước”. Lẽ ra “dân là gốc của nước”, kẻ làm “vua phải lấy dân làm trời”, thì trái lại vua quên mất đi điều căn bản đó. Tác phẩm đã kêu gọi tất cả mọi người trong cả nước đồng lòng yêu nước, căm thù giặc, nêu cao tinh thần “ đồng tâm cứu nước”, “ vai trò quốc dân nỗ lực, đồng tâm cứu nước”. Tất cả các tài liệu trên đều dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ, lưu hành trong thanh niên du học ở Nhật, Hồng Kông và gửi về nước, tán phát trong quần chúng nhân dân.

Tiểu La Nguyễn Thành [1863-1911], một trong những yếu nhân sáng lập Duy Tân Hội.

Về chủ trương xuất dương du học của Duy Tân Hội đã gây ảnh hưởng lớn trong nhân dân, không chỉ ở Trung Kỳ mà ở cả Nam Kỳ lục tỉnh, nơi hội tụ nhiều nhân sĩ, trí thức ở địa phương đồng tình ủng hộ như: Nguyễn An Khương và Nguyễn An Cư, thân sinh và thúc phụ của Nguyễn An Ninh [Hóc Môn-Gia Định], Võ Công Tồn [Tân An, Long An], Nguyễn Quang Diêu [Cao Lãnh, Đồng Tháp]…Năm 1906, Cường Để đến Nhật được bố trí vào học ở trường Trấn Võ. Cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật du học lên tới 200 người, sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ có tên là Việt Nam Cống hiến hội. Ngoài việc tuyển chọn các thanh niên đưa đi du học, Duy Tân Hội còn tổ chức các hoạt động như: tuyên truyền, vận động các sĩ phu, nhà doanh nghiệp và người dân yêu nước lập ra các hội nông, hội buôn, hội học với mục đích nhằm tập hợp quần chúng và kiếm nguồn kinh phí cho hội; Chuẩn bị vũ khí để tiến tới bạo động, nhưng rất khó khăn, bàn đi tính lại mãi vẫn không có hướng giải quyết nên hội đề ra hướng xuất dương cầu viện; Tổ chức liên kết với các tổ chức kháng chiến khác như liên lạc với phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh, thuyết phục Hoàng Hoa Thám-thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Yên Thế gia nhập Duy Tân Hội. Như vậy Duy Tân Hội đã có những hoạt động trên qui mô rộng lớn khắp cả nước, không còn bó hẹp tại hai trung tâm là QuảngNamvà Nghệ An như trước. Với các hoạt động của mình hội ngày càng đi vào quần chúng nhân dân, uy tín của Phan Bội Châu và các đồng chí cùng chí hướng với hoạt động đối ngoại ngày càng có ảnh hưởng trong dư luận xã hội đương thời. Nhận thấy được mức nguy hiểm của Duy Tân Hội, nhất là sau khi phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ nổ ra rầm rộ ở Quảng Nam rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp và bắt bớ. lần lượt các yếu nhân của hội sa vào tay chúng. Để tận diệt phong trào Đông Du, tháng 9/1908 Pháp ký với Nhật một hiệp ước mà theo đó Pháp sẽ cho Nhật vào Việt Nam mua bán, đổi lại Nhật sẽ không cho các nhà cách mạng và lưu học sinh ở Nhật nữa. Chính quyền Nhật đã cử cảnh sát đến trường Đông Á đồng văn thư viện để giải tán học sinh người Việt, đến tháng 3/1909, Phan Bội Châu và Cường Để bị trục xuất. Ở nhiều nơi trong nước, mọi hoạt động quyên góp tài chính và chuẩn bị vũ trang bạo động của Duy Tân Hội cũng bị Pháp cho quân đàn áp dữ dội. Đến tháng 6/1912 tại một cuộc họp ở Quảng Đông [Trung Quốc], có đông đủ đại biểu ba kỳ đã quyết định giải tán Duy Tân Hội và thành lập Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ mới là “đánh đuổi quân Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc kiến lập Việt Nam” cho phù hợp với tình hình chuyến biến trên trường quốc tế.

Nội dung nào sau đây thể hiện đúng đường lối cứu nước của Phan Châu Trinh?

Mục đích chính của cuộc vận động Duy tân đầu thế kỉ XX là

Hạn chế lớn nhất trong quá trình hoạt động cứu nước của Phan Châu Trinh là

Sự kiện nào đã châm ngòi cho sự bùng nổ của cuộc cách mạng Tân Hợi [1911]?

Đâu là chính đảng của giai cấp tư sản Trung Quốc được thành lập năm 1905?

Ý nghĩa quan trọng nhất của cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc năm 1911 là

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hạn chế của Cách mạng Tân Hợi 1911 là

Sự kiện nổi bật nhất của phong trào Nghĩa Hoà đoàn là

Phong trào Duy Tân là gì? Mục tiêu và mục tiêu của phong trào Duy Tân là gì? Phong trào Duy Tân có gì đặc biệt? Ý nghĩa của phong trào Duy Tân ở Việt Nam cũng như tác động của nó đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược? Hạn chế của phong trào Duy Tân? Tại sao phong trào Duy Tân thất bại?… Hãy Tip.edu.vn Hãy tìm hiểu qua bài viết sau đây.

Trong thời kỳ đầu khi thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, hàng loạt phong trào của các sĩ phu yêu nước đã được tổ chức. Trong số đó có thể kể đến phong trào Cần Vương [Phò vua trị nước], phong trào Văn Thân. Cả hai phong trào này đều thất bại do quan điểm lạc hậu và thiếu định hướng. Sau này nổi lên phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh.

Phong trào Duy Tân còn được gọi là phong trào Duy Tân hay phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ, đây là một phong trào cải cách ở miền Trung Việt Nam diễn ra từ năm 1906 đến năm 1908. Cuộc vận động do Phan Châu Trinh phát động nhanh chóng kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp. .

Phan Châu Trinh chủ trương chỉ đạo phong trào Duy Tân bất bạo động, cải tạo mọi mặt của xã hội bằng con đường nâng cao dân trí. Trong đó, phong trào này chủ trương đổi mới toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội và giáo dục. Với những hoạt động thiết thực như: Mở trường dạy học hiện đại, lập các thương điếm lớn để tự lực, mở mang kinh tế.

Phong trào Duy Tân tập trung vào việc theo cái mới và cải cách để xóa bỏ cái cũ. Có thể nói, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ đã đi đầu trong tinh thần cải cách với những bản điều trần và văn kiện Đại thế chí. Duy Tân chú trọng nâng cao dân trí nhằm phát triển kinh tế và giành lại chính quyền.

Khác với phong trào Đông Du dựa vào sự giúp đỡ của người Nhật, phong trào Duy Tân tập trung vào tiềm lực của đất nước. Phan Châu Trinh từ quân tiến hành Nam Bắc để xem xét tình hình khắp cả nước. Từ đây, anh cũng tìm được những nhà văn, những người bạn có cùng chí hướng và ý tưởng đổi mới như mình.

Tuy cùng chung mục tiêu giành lại quyền lực với Phan Bội Châu nhưng ông không tán thành chủ trương duy trì chế độ quân chủ. Ông không muốn sử dụng bạo lực cách mạng cũng như tìm kiếm sự giúp đỡ từ bên ngoài, nhất là khi Nhật Bản còn là một nước đế quốc.

Phong trào Duy Tân còn được gọi là Hội ngoài ánh sáng với chủ trương đi theo con đường dân chủ. Phong trào này diễn ra công khai dưới hình thức cải tạo xã hội, nâng cao dân trí và dân quyền. Tuy nhiên, sai lầm chính của phong trào này là chủ trương dựa vào Pháp để làm giàu và mạnh.

Phan Châu Trinh là thủ lĩnh của phong trào Duy Tân
  • Mục tiêu của phong trào Duy Tân là nâng cao dân trí, chấn hưng tinh thần nhân dân, mở mang dân trí để có ý thức về quyền và nghĩa vụ của mình đối với đất nước.
  • Phong trào này đáp ứng được nguyện vọng của nông dân nên lực lượng tham gia phong trào đòi tiền, giảm thuế [phong trào kháng thuế thời Trung cổ năm 1908] chủ yếu là nông dân.
  • Phong trào này bắt đầu ở Hà Tĩnh, với sự đấu tranh của nông dân huyện Can Lộc, sau đó lan rộng ra khắp các phủ, huyện trong tỉnh.
  • Phong trào Duy Tân diễn ra mạnh mẽ nhất ở các huyện Nghi Xuân, Thạch Hà [Hà Tĩnh], Thanh Chương, Hưng Nguyên, Quỳnh Lưu, Yên Thành [Nghệ An].

Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh điều hành và được phát động từ năm 1906. Hoạt động tiêu biểu của phong trào này là việc thành lập Trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường này được thành lập với tư cách là cơ sở Duy Tân ở miền Bắc. Với sự tham gia của bà con Bắc Hà cũng như Lương Văn Can.

Phan Bội Châu thực hiện chính sách dùng Pháp làm giàu, mạnh. Ông đã gửi một bức thư bằng tiếng Trung Quốc cho Toàn quyền Jean Beau vạch trần hệ thống phong kiến ​​thối nát. Trong thư, ông cũng yêu cầu nhà cầm quyền Pháp thay đổi thái độ đối với người Việt Nam. Cũng như sửa đổi, hoàn thiện các chính sách quản trị để giúp dân tộc Việt Nam từng bước văn minh.

Đồng thời, ông cùng với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng với tư tưởng dân quyền thực hiện phương châm “tự cường, văn minh”. Với khẩu hiệu hành động: “Biết dân trí, phục khí dân, đăng dân phục”. Họ đi hầu khắp các tỉnh miền Trung và một số tỉnh lân cận để vận động phong trào Duy Tân.

Trong quá trình phát triển của phong trào Duy Tân đã bộc lộ hai khuynh hướng. Một số học giả như Nguyễn Đình Kiên, Lê Văn Huân có khuynh hướng bạo lực. Những người khác, như Huỳnh Thúc Kháng và Phan Châu Trinh, chủ trương cải cách quốc hội và điều độ. Họ vận động để mở các trường dạy học, khuyến khích mở rộng công nghiệp và thương mại, và thay đổi phong tục và lối sống.

Phong trào Duy Tân ở miền Trung diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng nổi bật nhất là giáo dục và kinh tế. Phong trào này cũng nhận được rất nhiều sự ủng hộ của người dân cũng như các sĩ phu yêu nước. Duy Tân ngày càng lớn mạnh và nhận được sự hưởng ứng đông đảo.

Kể từ đó, phong trào này bị chính quyền phong kiến ​​và thực dân nghiêm cấm. Có thể kể đến như: Đặng Nguyên Cẩn, làm Đốc học Hà Tĩnh, đổi ra Bình Thuận; Tổng đốc Quảng Nam là Hồ Đắc Trung cấm dân chúng tụ tập nghe diễn thuyết; Lê Đình Cẩn bị thừa sai Quảng Ngãi tra khảo nhiều lần; Ngô Đức Kế bị bắt vì tội giết Cao Ngọc Lễ, bị can tội âm mưu…

Năm 1908, nhân dân Trung Kỳ đứng lên đấu tranh – Chống vợ chồng, đòi giảm sưu thuế do thực dân Pháp sưu cao. Phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ bắt đầu ở các địa phương Đại Lộc, Thăng Bình, Tam Kỳ, Hòa Vang, Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam. Sau đó, nhân dân Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế, Bình Định, Phú Yên, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Nghệ An … cũng đứng lên đấu tranh.

Một số thủ lĩnh trong phong trào kháng thuế cũng thuộc phong trào Duy Tân. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự cai trị của triều đình nhà Nguyễn và thực dân Pháp nên bị thẳng tay đàn áp. Họ ra lệnh khám xét và bắt giữ hàng trăm người liên quan, giải tán các hiệp hội thương mại, đóng cửa các trường học. Đồng thời cho lính đi bắt những phần tử lãnh đạo phong trào Duy Tân và có liên quan đến phong trào sưu thuế.

Ra lệnh xử tử những thủ lĩnh chủ chốt trong phong trào chống thuế của Trung Kỳ như Nguyễn Bá Loan, Trần Quý Cáp, Lê Khiết,… đày ra Côn Đảo những người chỉ tham gia phong trào Duy Tân như: Phan Châu Trinh. , Trần Cao Vân, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế,… Phong trào Duy Tân và đấu tranh chống sưu thuế kết thúc vào cuối tháng 5/1908.

Dù thất bại nhưng lịch sử không thể phủ nhận tinh thần yêu nước cũng như tư tưởng tiến bộ của một bộ phận sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ. Điều đó cũng cho thấy yêu cầu cấp thiết về đường lối đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Mở đường cho Nguyễn Ái Quốc sau này tìm đường cứu nước.

  • Phong trào Duy Tân nhằm khơi dậy tư tưởng tiến bộ, tấn công mạnh mẽ hệ tư tưởng phong kiến ​​lạc hậu, bảo thủ nhằm thay đổi chế độ tư tưởng phong kiến.
  • Phong trào Duy Tân có tính chất hiển hách, góp phần giải quyết những yêu cầu của thời bấy giờ.

Trước khi tìm hiểu những nhược điểm và hạn chế của phong trào Duy Tân, chúng ta cần hiểu rõ những ưu điểm của phong trào này.

  • Phong trào này đã đáp ứng một phần yêu cầu của nước ta lúc bấy giờ.
  • Đồng thời, nó cũng ảnh hưởng đến lối suy nghĩ và hành động của các quan lại triều đình lúc bấy giờ.
  • Các đề xuất cải cách còn rời rạc.
  • Những mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ vẫn chưa được giải quyết như mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp, mâu thuẫn sâu sắc giữa nông dân với địa chủ phong kiến.
  • Phong trào Duy Tân bị hạn chế bởi tính khả thi của nó, bị hạn chế bởi Tấn Thư.
  • Những đề nghị cải cách của phong trào Duy Tân còn tản mạn, xa rời thực tế, không phù hợp với hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
  • Quan trọng nhất, những đề xuất này đã không đáp ứng được nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, do đó không được nhân dân đồng tình ủng hộ.
  • Do triều đình Huế bảo thủ nên bác bỏ mọi cải cách, không muốn đổi mới. Điều này khiến xã hội Việt Nam lâm vào bế tắc của một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, đồng thời làm cho những cải cách của phong trào Duy Tân trở nên xa rời thực tế.

Tip.edu.vn đã cung cấp cho quý vị và các bạn những thông tin về phong trào Duy Tân qua bài viết trên. Hi vọng bài viết đã mang lại những kiến ​​thức bổ ích về nguyên nhân, mục đích, chính sách và hoạt động, kết quả, ý nghĩa, những thuận lợi và khó khăn, hạn chế của phong trào Duy Tân cũng như nguyên nhân khiến phong trào Duy Tân thất bại. Hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết tiếp theo trong chuyên mục Lịch sử của Tip.edu.vn.

Video liên quan

Chủ Đề