Kinh nghiệm chữa viêm tai giữa cho con

Bị viêm tai giữa, coi chừng biến chứng suy giảm thính lực

Viêm tai giữa là bệnh thường gặp trong bệnh lý về tai; là sự tổn thương và viêm nhiễm xuất hiện trong tai giữa. Nguyên nhân có thể do vi khuẩn hoặc bị tác động từ các yếu tố bên ngoài môi trường, do cấu trúc tai trẻ chưa hoàn chỉnh hay bất thường sọ mặt...

Bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp ở trẻ em. Thống kê cho thấy, cứ 3 trẻ thì có 2 trẻ mắc ít nhất một đợt viêm tai giữa khi 1 tuổi.

Viêm tai giữa ở trẻ em nếu không phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm và khó khắc phục như: Viêm tai xương chũm, viêm màng não, áp xe não, gây liệt dây thần kinh số 7. Lâu dài trẻ bị nghe kém, nhất là từ khi chưa phát triển lời nói, sẽ dẫn đến rối loạn ngôn ngữ [nói ngọng, nói không rõ âm, từ…] làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng giao tiếp xã hội sau này của trẻ.

Hình ảnh màng nhĩ chứa dịch.

2. Biểu hiện của trẻ khi bị viêm tai giữa cấp

Một số dấu hiệu thường gặp có thể nhận thấy nếu trẻ bị viêm tai giữa cấp:

  • Đau tai, đặc biệt là khi nằm, đau nhiều khi kéo nhẹ vành tai.
  • Khó ngủ, quấy khóc nhiều hơn. Ở trẻ nhỏ, bé thường khó chịu và đòi bế nhiều hơn.
  • Khó nghe, phản ứng chậm với âm thanh, mất thăng bằng.
  • Sốt, có thể sốt từ 38 độ C trở lên.
  • Chảy mủ tai, kèm theo sổ mũi, hắt hơi, ho.
  • Đau đầu, đau tai, ù tai, giảm thính lực.
  • Ăn kém, nôn hoặc tiêu chảy.

Viêm tai giữa khiến trẻ đau tai.

3. Cách điều trị bệnh viêm tai giữa

Việc điều trị viêm tai giữa nhằm mục đích phục hồi thính lực, giảm nguy cơ tái phát viêm tai giữa cấp, phòng tránh biến chứng...

3.1 Thuốc giảm đau hạ sốt

Các nghiên cứu cho thấy, điều trị đầu tiên của viêm tai giữa là giảm đau cho trẻ. Có thể dùng các thuốc như paracetamol hay ibuprofen để giảm đau tai và giảm sốt cho trẻ [khi trẻ sốt trên 38,5 độ C]. Liều dùng 10-15mg/kg cân nặng với paracetamol, cách 4-6 giờ uống lại liều nếu vẫn sốt cao hoặc đau tai nhiều. ibuprofen 10mg/kg cân nặng, khoảng cách giữa các liều là ít nhất 6 giờ.

Lưu ý, trẻ từ 6 tháng đến dưới 2 tuổi bị viêm tai giữa 1 bên hoặc trẻ trên 2 tuổi bị hai bên nhẹ thì có đến 2/3 có thể tự khỏi khi chỉ dùng thuốc giảm đau.

3.2 Các thuốc kháng sinh

Kháng sinh uống là thuốc được chọn hàng đầu và việc chọn lựa kháng sinh dựa trên kiến thức về vi khuẩn thường gặp trong viêm tai giữa. Chính xác nhất là dựa trên kết quả kháng sinh đồ cấy mủ tai. Thời gian điều trị viêm tai giữa diễn ra tối thiểu trong 7-10 ngày. Nếu màng nhĩ thủng có thể nhỏ tai trong 3 - 4 ngày đầu [loại không độc cho tai] để ngăn chặn sự hình thành các bửng mủ làm bít dẫn lưu.

Chỉ dùng kháng sinh điều trị viêm tai giữa trong các trường hợp sau:

  • Khi bệnh không cải thiện khi sau 48 - 72 giờ theo dõi.
  • Trẻ dưới 6 tháng.
  • Trẻ dưới 6- 24 tháng cả hai bên hoặc có nhiều yếu tố nguy cơ.
  • Viêm tai giữa cấp nặng [đau nhiều hoặc trên 48h hoặc sốt trên 39 độ]
  • Nếu trẻ không có khả năng khám lại.

Ngoài ra có thể thông vòi, bơm thuốc vòi nhĩ. Một số trường hợp viêm tai nhưng trị kháng sinh không hiệu quả sẽ phải chích rạch màng nhĩ để đặt ống thông nhĩ. Nếu viêm tai giữa kèm với dấu hiệu viêm đường hô hấp trên do tắc nghẽn bởi viêm amidan phì đại VA thì cần nạo VA, cắt amidan. Trong trường hợp bệnh nhân xuất hiện các biến chứng nặng hơn và điều trị nội khoa không mang lại kết quả khả quan, có thể cần đến phẫu thuật hòm nhĩ, khoét xương chũm.

Lưu ý, chỉ sử dụng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.

3.3 Các thuốc nhỏ tai

Các thuốc nhỏ tai giảm đau [ví dụ: antipyrine/ benzocaine] đôi khi được khuyến cáo sử dụng. Tuy nhiên, các loại thuốc này có thể không có sẵn ở một số nước. Một số nghiên cứu cho thấy nhỏ tinh dầu có thể có tác dụng giảm đau như thuốc gây tê, tuy nhiên còn nhiều tranh cãi.

Lưu ý, các thuốc giảm đau và kháng viêm nhỏ tai không được sử dụng khi tai thủng màng nhĩ.

Ngoài ra có thể dùng một số thuốc nhỏ mũi để làm sạch mũi họng và tai giữa. Nhờ đó, có thể hỗ trợ phục hồi niêm mạc viêm trong tai giữa dễ dàng hơn và dẫn lưu dịch mủ từ tai giữa ra ngoài qua đường vòi tai. Có thể dùng một số loại thuốc chống sung huyết, co mạch, giảm phù nề, chống viêm… [otrivin sunfarin, collydexa, naphtazoline, xylomethazoline, adrenaline…]. Tuy nhiên, cần dùng đúng chỉ định của bác sĩ.

Chỉ dùng thuốc nhỏ tai khi có chỉ định của bác sĩ.

4. Lưu ý khi dùng thuốc trị viêm tai giữa

Tác dụng phụ hay gặp nhất khi dùng thuốc điều trị viêm tai giữa là tiêu chảy. Có thể dùng thêm men vi sinh trong các trường hợp này. Nếu tiêu chảy nhiều bác sĩ sẽ cân nhắc đổi loại kháng sinh khác phù hợp.

Một số trẻ dị ứng với các thuốc điều trị: Trẻ nổi mề đay, mẩn ngứa, hay các dấu hiệu nặng hơn... cần liên hệ ngay với bác sĩ khi có các dấu hiệu này.

Cho trẻ uống thuốc đầy đủ theo chỉ dẫn của bác sĩ, không tự ý sử dụng các loại thuốc điều trị viêm tai.

Tuyệt đối không được tự ý nhỏ thuốc tai, tự rắc bột kháng sinh hay thổi thuốc bột vào tai, sẽ gây bít tắc lỗ tai làm ứ mủ bên trong hòm nhĩ dẫn tới các biến chứng nặng.

Việc quyết định dùng kháng sinh cần sự thăm khám cẩn trọng tỉ mỉ của thầy thuốc, cần đúng đủ liều, đủ thời gian mới đạt kết quả tốt.

Vệ sinh tai thế nào?

Tai: Nếu chảy dịch mủ làm sạch tai cho trẻ, không dùng bông nút kín tai. Nên để dịch thoát ra ngoài tự nhiên. Không nên để nước vào tai.

Mũi: Rửa mũi cho trẻ 2-3 lần/ ngày bằng nước muối sinh lý 0,09% ấm.

Chế độ ăn uống

- Cho trẻ ăn thức ăn giàu dinh dưỡng, dễ tiêu.

- Cho trẻ ăn theo nhu cầu, chia nhiều bữa trong ngày và uống thêm các loại nước hoa quả.

- Đối với trẻ dưới 6 tháng bú mẹ hoàn toàn cho trẻ bú tăng số lần lên.

5. Khi nào cần đưa trẻ đi khám ngay?

Cần cho trẻ đi khám ngay khi trẻ có 1 trong các biểu hiện sau:

- Trẻ đau tai tăng lên.

- Sốt cao liên tục dùng thuốc hạ sốt và chườm ấm không đỡ.

- Trẻ quấy khóc nhiều, bỏ ăn, bỏ bú.

- Trẻ nôn nhiều đi ngoài phân nhiều lần trong ngày.

- Các dấu hiệu bệnh của trẻ không tốt lên sau 2 ngày điều trị.

Để tránh mắc bệnh viêm tai giữa cần thực hiện:

- Giữ ấm cơ thể, nhất là cổ, gan bàn chân khi thời tiết lạnh.

- Vệ sinh mũi họng sạch sẽ để phòng tránh viêm mũi họng.

- Bỏ thói quen cho tay vào miệng, ngoáy mũi.

- Đảm bảo môi trường sống tránh khói bụi, ẩm mốc, chật chội.

- Đưa trẻ đi khám ngay khi có dấu hiệu bệnh về mũi họng.

- Điều trị sớm các bệnh viêm mũi họng, VA, Amidan…

- Khám định kỳ với trẻ mắc viêm tai giữa mạn tính.

- Cho trẻ tiêm vaccine cúm, phế cầu.

- Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.

Xem thêm video đang quan tâm:

Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19

BS. Nguyễn Văn Hùng

By Victoria Healthcare 22 Tháng 3 2021

Bệnh viêm tai giữa [VTG] thường gặp nhất ở lứa tuổi nhỏ, đặc biệt là những bé đi nhà trẻ sớm. Bệnh này thường gặp ở trẻ em đến độ ở nước ngoài các bác sĩ Nhi là người có nhiều kinh nghiệm điều trị VTG hơn bác sĩ chuyên khoa tai-mũi-họng. Các trường hợp VTG ở trẻ em đều được bác sĩ Nhi chẩn đoán bởi vì họ khám tai tất cả các bé. Tuy vậy, có một thực tế là hiếm có bác sĩ Nhi nào ở nước ta có thói quen khám tai cho bé, đặc biệt là những bé có triệu chứng nhiễm cảm siêu vi hay bị sốt, và do đó VTG chỉ được chẩn đoán khi bé có triệu chứng đau tai hay chảy mủ tai. Kết cục là thay vì trấn an các bậc cha mẹ, các bác sĩ thông thường sẽ đưa ra những chẩn đoán gây lo lắng với những biến chứng rất dễ làm nhụt lòng bất cứ ai. Và điều này hẳn không phải là cách thức tốt để điều trị VTG cho trẻ, cũng như cho cha mẹ trẻ.

HIỂU VỀ BỆNH VIÊM TAI GIỮA

Để hiểu rõ về bệnh VTG, ta cần biết cấu tạo cơ bản của tai giữa. Tai giữa là một khoang KHÔNG thông với tai ngoài, mà CHỈ thông xuống sau mũi họng qua một ống nhỏ gọi là vòi nhĩ hay vòi Eustache. Trong khoang tai giữa có ba chuỗi xương con. Âm thanh nghe được bên ngoài đập vào màng nhĩ, màng nhĩ rung truyền chấn động đi qua ba chuỗi xương con với đúng tần số đó để truyền rung động vào tai trong, để người có thể nghe được âm thanh.

Bình thường, tai giữa sẽ tiết dịch để chuỗi xương con hoạt động mềm mại. Dịch tiết ra đi theo ống thông xuống họng. Nếu gặp nguyên do nào đó làm cho ống thông bị tắc, dịch sẽ không còn đường thoát và ứ lại trong tai giữa. Trong cơ thể con người, bất cứ chỗ nào thông mà bị tắc lại thì dễ bị nhiễm trùng [giống như cống thoát nước, nếu thông thì không sao, nhưng nếu ứ lại thì sẽ có vấn đề, vi khuẩn sẽ sinh sôi nảy nở]. Do đó, VTG xảy ra do tắc vòi nhĩ, gây ứ dịch trong tai giữa, dẫn đến nhiễm trùng tai giữa.

BIỂU HIỆN CỦA VIÊM TAI GIỮA

Nhiều cha mẹ thấy trẻ dùng tay nghịch ngợm chọc vào tai thì thường cho rằng trẻ bị VTG và vội vàng mang con đi khám. Điều này không thực sự chính xác. Nếu trẻ bị VTG, dịch ứ lại trong tai ép vào màng nhĩ, khiến màng nhĩ bị sưng phồng lên [giống như việc lên xuống một độ cao nào đó như cất cánh lên xuống máy bay chẳng hạn] gây ra đau tai. Do đó, để chẩn đoán VTG, cha mẹ nên căn cứ vào triệu chứng đau tai ở trẻ.

Nếu trẻ nhỏ bị VTG mà chưa nói được thì bé quấy khóc một cách vô cớ, càng nằm càng bị đau nhiều hơn nên bé khóc rất dữ, ngủ không yên. Còn trẻ đủ lớn để biểu đạt thì có thể cho ngón tay ngoáy tai và khóc. Trẻ đã biết nói thì sẽ nói bị đau tai. Vì những triệu chứng gợi ý đau tai trên không đặc hiệu và không đáng tin cậy nên bác sĩ phải khám tai trong mọi lần khám.

Ngoài triệu chứng đau tai, trẻ còn có thể có một số triệu chứng không đặc hiệu khác như sốt, ói, ù tai hay lùng bùng tai.

PHƯƠNG PHÁP "CHỜ" TRONG ĐIỀU TRỊ VTG Ở TRẺ

Hiện tại, ở Việt Nam, khi trẻ bị VTG, các bác sĩ hầu như vẫn còn sử dụng phương thức chữa trị của thế giới cách đây mười mấy năm, đó là cho trẻ uống kháng sinh. Tuy nhiên, cách chữa trị này đã không còn phù hợp với khuyến cáo hiện nay.

Phương thức chữa trị VTG của thế giới đã thay đổi vào khoảng 10 năm khi số liệu cho thấy có một số trẻ bị VTG một cách rõ ràng, chỉ uống thuốc giảm triệu chứng [hạ sốt, giảm đau] chứ không dùng kháng sinh điều trị nhưng trẻ vẫn tự khỏi bệnh sau 2-3 ngày theo dõi. Do đó, vào thời điểm đó, khuyến cáo điều trị dành cho trẻ bị VTG là lựa chọn “chờ”. Nghĩa là, nếu trẻ bị VTG, bác sĩ cần thảo luận với cha mẹ để có thể đưa ra quyết định lựa chọn giữa hai phương thức điều trị: phương thức “chờ” hoặc cho trẻ uống thuốc khàng sinh liều cao. Nếu cha mẹ lựa chọn uống kháng sinh thì bác sĩ sẽ kê đơn , tuy nhiên, tác dụng phụ của kháng sinh không tốt cho trẻ. Còn nếu cha mẹ đồng ý không dùng kháng sinh thì cho trẻ chờ. Và khuyến cáo này lúc đó chỉ áp dụng cho trẻ trên 2 tuổi.

Quay về thời điểm 10 năm trước tại Việt Nam, tôi cũng có áp dụng phương pháp “chờ” cho những trẻ bị VTG sau khi trao đổi thảo luận với cha mẹ trẻ đến khám. Tất nhiên,tôi có theo dõi và thường kiểm tra qua điện thoại với bà mẹ để xem tình trạng của trẻ biểu hiện như thế nào để phòng hờ những biến chứng khác. Và đúng là 2-3 ngày sau trẻ hết bệnh.

Trở lại với “câu chuyện thế giới”. Một vài năm sau thời điểm đó, người ta hạ lứa tuổi “chờ” xuống vì có những trẻ dưới 2 tuổi bị VTG không uống kháng sinh vẫn tự khỏi. Trong khoảng thời gian này, tôi cũng đã áp dụng “chờ” cho trẻ bị VTG dưới 2 tuổi nhưng dặn dò rất kỹ bà mẹ cách thức theo dõi và vẫn như lần trước là trẻ tự khỏi thật. Sau đó một thời gian nữa, khi tiếp tục có những số liệu mới, người ta giảm độ tuổi “chờ” xuống 1 tuổi. Sau một số năm nữa, tuổi “chờ” giảm xuống 6 tháng tuổi.

Do đó, hiện nay, nếu trẻ bị VTG mà 6 tháng tuổi trở lên, bác sĩ có thể thảo luận với cha mẹ để chờ. Đối với trẻ dưới 6 tháng tuổi, do chưa kiểm soát được tình trạng diễn tiến sức khỏe của trẻ, nên người ta đều cho trẻ uống kháng sinh. Nhưng sau đó, nghiên cứ của một số nước châu Âu đưa ra khuyến cáo là tất cả trẻ bị VTG đều nên “chờ”, không nên sử dụng thuốc kháng sinh cho bất cứ bệnh nhi nào. Hiện nay, y khoa Mỹ vẫn sử dụng “chờ” ở trẻ 6 tháng tuổi, còn các nước bên châu Âu – theo khuyến cáo của Hà Lan thì hầu hết trẻ bị VTG cũng cho chờ hết.

Tuy nhiên, phương pháp này đến hiện nay vẫn còn “mới” đối với cha mẹ ở Việt Nam, nên cũng có những mẹ không muốn “chờ”. Bên cạnh đó, nhiều bác sĩ cho rằng nếu để VTG không chữa ngay thì sẽ gây ra hiện tượng áp xe tai, làm tiêu xương, gián đoạn chuỗi xương con… gây ảnh hưởng đến thính giác [sức nghe] và gây nguy hiểm cho trẻ, khiến nhiều cha mẹ lo lắng cho con uống kháng sinh ngay, nhưng điều này không đúng. Dựa trên nghiên cứu thống kê, trong khoảng 200.000 bé bị VTG không điều trị kháng sinh, thì có khả năng 1 bé bị biến chứng viêm xương chũm phía sau, còn biến chứng viêm màng não cực kỳ hiếm, có thể lên đến tỷ lệ 1/1.000.000. Tuy nhiên, cân nhắc giữa lợi và hại thì các bác sĩ nên đưa ra phương thức điều trị mang lại lợi ích cho cộng đồng, không nên chỉ vì xác suất hiếm mà điều trị kháng sinh cho cả 200.000 trẻ chỉ để đảm bảo cho một trẻ không bị biến chứng. Về thực chất, vấn đề này cũng giống như tiêm vaccine vậy, với tỉ lệ sốc phản vệ 1/1.000.000 mà không cho trẻ tiêm phòng thì rất có hại cho cộng đồng. Quan điểm của tôi vẫn là không muốn cho trẻ uống nhiều kháng sinh. Thế nên, tôi chỉ kê toa kháng sinh cho trẻ theo ý muốn của cha mẹ và khuyên rằng: nếu có thể, cha mẹ hãy cố gắng chờ khoảng 2-3 hôm, nếu trẻ không khỏi thì lúc đó cho trẻ uống kháng sinh vẫn không muộn.

Trong thời gian “chờ và theo dõi” này, cha mẹ có thể cho bé thuốc giảm triệu chứng đau [tức thuốc hạ sốt như paracetamol hay ibuprofen] cho dù bé không sốt nhưng bị đau tai quá gây khó chịu.

[Bài viết của sử dụng hình ảnh từ Shutterstock]

Video liên quan

Chủ Đề