Em hiệu thế nào là khái niệm văn hoá Phục hưng

Trường ĐHSP TP. Hồ Chí MinhKhoa: Lịch sửLớp: Quốc tế học K38 - 2B 2 0 1 4Văn hoá Phục HưngGiảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Văn Sơn Nhóm thực hiện đề tài: Nhóm 6Lời nói đầuTrong lịch sử phát triển của loài người in dấu sâu đậm cuộc lội dòng lịch sử vĩ đại của một nền văn hóa, nền văn hóa đã đánh thức châu Âu thoát khỏi “đêm trường trung cổ” tăm tối. Chúng ta đang nói tới phong trào văn hóa Phục Hưng vĩ đại. Phong trào Văn hoá Phục Hưng đã đánh bại hệ tư tưởng lỗi thời của phong kiến và Giáo hội Thiên chúa, góp phần quan trọng giải phóng tư tưởng tình cảm con người khỏi mọi sự kìm hãm và trói buộc của Giáo hội, đề cao những giá trị tốt đẹp cao quý của con người. Văn hoá Phục Hưng là một bước tiến kì diệu trong lịch sử văn minh ở Tây Âu.Văn hoá Phục Hưng vẫn là “cuộc cách mạng tiến bộ vĩ đại”, mở đường cho sự phát triển cao hơn của văn hoá châu Âu và văn hoá của loài người. Với sự yêu thích nghiên cứu khoa học và cùng với sự trợ hỗ trợ các từ các nguồn tài liệu trong sách vở cũng như các trang mạng uy tín, bài tiểu luận của Nhóm 5 xin đóng góp thêm một số kiến thức cơ bản về phong trào văn hoá Phục Hưng về các thành tựu của phong trào trên lĩnh vực khoa học tự nhiên cũng như trên lĩnh vực khoa học xã hội. Mặc dù đã cố gắng biên soạn nguồn tài liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu khoa học nhưng những sai sót là điều khó tránh khỏi. Chúng em rất mong nhân được sự đóng góp của Thầy và bạn sinh viên để bài tiểu luận có thể được hoàn thiện và tiếp tục phát triển rộng hơn nữa.Thay mặt nhóm,Nguyễn Minh Kha  Phần nội dungI. NHỮNG NÉT CHUNG VỀ PHONG TRÀO VĂN HOÁ PHỤC HƯNG Trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại đã ghi nhận, bất cứ một phương thức sản xuất, một mô hình xã hội hay một hệ tư tưởng nào đó muốn tồn tại và đóng vai trò chủ đạo của xã hội trong một giai đoạn nhất định thì nó cần hội tụ được những yếu tố cơ bản sau: Thứ nhất, mô hình đó phải đáp ứng được tiến trình phát triển khách quan của lịch sử. Thứ hai là phần đông người trong xã hội chấp nhận chung sống và cùng tồn tại với nó. Ngược lại, khi mô hình xã hội hay một hệ tư tưởng nào đó không đáp ứng được những yếu tố tất nhiên thì lịch sử sẽ đào thải và con người sẽ từ bỏ nó để tìm đến một mô hình hay một tư tưởng nào đó phù hợp hơn và giáo hội Kito cũng không nằm ngoài ngoại lệ.Trong phần lớn thời kỳ trung đại, những tư tưởng của giáo hội Kito đã thống trị mọi mặt về đời sống chính trị văn hoá – xã hội của mọi tầng lớp nhân dân. Trong suốt giai đoạn sơ và trung kỳ trung đại thì tất cả các ngành khoa học, duy vật chủ nghĩa đều bị coi là kẻ thù không đội trời chung của giáo hội và họ thẳng tay trừng trị những người nào dám gieo rắc những tư tưởng trái với quan điểm của nhà thờ Kito. Trong thời gian này, với mục đích duy trì sự thống trị của mình thì giáo hội Kito đã thực hiện một nền giáo dục áp đặt, toàn dạy những môn học mang nội dung phản động, phản khoa học mà tiêu biểu nhất là Triết học kinh viện. Khoa học bị coi là đầy tớ của thần học.Sở dĩ trong một thời gian dài, giáo hội Kito thống trị được châu Âu và trở thành hệ tư tưởng chính chi phối trong đời sống chính trị - xã hội của mọi tầng lớp nhân dân đó là do sự hạn chế về trình độ nhận thức của xã hội lúc bấy giờ. Khi một đứa bé được sinh ra thì đã được giáo hội truyền dạy những tư tưởng thần học. Chính vì vậy mà làm cho con người ta lớn lên trong sự cam chịu và chờ đợi sự sống sung sướng ở kiếp sau giống như giáo hội đã tuyên truyền. Họ không còn để ý đến cuộc sống xung quanh, họ cam chịu tất cả với một mong muốn được lên thiên đàng với Chúa. Nhưng tất cả tương lai của họ chưa có ai đoán định được và hiện tại họ đang sống trong sự mê muội, lạc hậu và lịch sư xã hội đang kêu cứu trong sự tụt hậu.Tuy nhiên, lịch sử nhân loại chưa ghi nhận một phương thức sản xuất, một mô hình xã hội hay một hệ tư tưởng nào đó có thể tồn tại được một cách vĩnh viễn mà không bao giờ bị thay đổi và tư tưởng của giáo hội Kito thống trị ở châu Âu cũng vậy. Bước vào thời kỳ trung đại, xã hội Tây Âu có những biến chuyển hết sức to lớn. Những nền móng vững chắc của chế độ phong kiến bắt đầu bị rạn nứt trước sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thành thị ra đời ở nhiều nơi và các hoạt động kinh doanh phát triển ngày càng mạnh. Chính điều này đã làm cho cuộc sống của con người dần tách khỏi nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc. Kinh tế Tây Âu chứng kiến sự giao lưu, trao đổi buôn bán ngày càng mạnh mẽ. Sự phát triển của kinh tế đã dần làm cho một bộ phận không nhỏ trong xã hội trở nên giàu có đó là sự xuất hiện của một giai cấp mới đó là giai cấp tư sản. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chỉ trong một thời gian ngắn nó đã chứng tỏ được đây là phương thức sản xuất được sinh ra để thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến đã lỗi thời, lạc hậu và không còn phù hợp với tiến trình phát triển chung của lịch sử nhân loại.Tuy nhiên, trong quá trình hình thành và phát triển của mình thì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đương đầu với một trở ngại rất lớn đó là tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến. Giai cấp phong kiến không dễ gì tự nguyện từ bỏ lợi ích của mình. Chính vì vậy mà giai cấp mới ra đời họ phải đấu tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực với một mục đích là để giành được thắng lợi về mặt chính trị, tư tưởng. Do đó mà dẫn đến các cuộc đấu tranh giành quyền thống trị giữa hai giai cấp đó là giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến và giáo hội Kito cũng đứng chung mặt trận với giai cấp phong kiến.Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng diễn ra trên nhiều mặt khác nhau như văn học, nghệ thuật, các môn khoa học… Thông qua những tác phẩm của mình, các tác giả đã đề cao các giá trị khoa học và tinh thần nhân văn sâu sắc. Đồng thời, nó cũng thể hiện được sự phê phán đối với những tư tưởng bảo thủ, trì trệ của giai cấp phong kiến và giáo hội. Các cuộc đấu tranh này diễn ra thành hai phong trào lớn ở thời hậu kỳ trung đại đó là phong trào cải cách tôn giáo và phong trào Phục Hưng.Một trong những cơ sở quan trọng để phong trào văn hoá Phục Hưng được diễn ra đó là sự phát triển trình độ nhận thức của xã hội dựa trên nền tảng kinh tế ngày càng phát triển. Họ không còn chấp nhận những giáo lý thần học của giai cấp thống trị do nhà thờ đưa ra và họ bắt đầu chống lại. Tuy nhiên để phong trào diễn ra mạnh mẽ và giành thắng lợi thì nền kinh tế phát triển là một yếu tố quan trọng nhưng nó chưa thể là yếu tố đảm bảo mà phải thêm vào đó là những thành tựu về khoa học kỹ thuật được phát minh. Những phát minh đó nó đã chứng tỏ nhiều lĩnh vực, quan điểm của nhà thờ là sai lầm và từ đó người ta mới bắt đầu tin vào khoa học và mở đầu thời kỳ đấu tranh chống giáo hội một cách mạnh mẽ.Trong hai thể kỉ 15 và 16, ở châu Âu đã dấy lên một cuộc vận động tư tưởng và văn hóa mới rất mực hòa hứng và quyết liệt, từ trước đến bấy giờ loài người chưa từng thấy. Thoạt tiên, ngọn gió mới thổi lên từ đất Italia. Tiếp đú nó lan rộng ra các nước ở Tây Âu và Trung Âu. Người Italia gọi phong trào này là “Renascita”, người Pháp đặt tên cho nó là “La renaissance”, “Renascita” hay “Renissance” đều cùng một nghĩa; có thể dịch là “Phục Hưng” hoặc “tái sinh” hoặc nôm na hơn nữa có thể dịch là “sống lại”. Nhưng “Phục Hưng” cái gì? Cái gì được tái sinh, được làm sống lại? Một số học giả phương Tây cho rằng phong trào này nhằm “phục hưng” nhằm làm sống lại nền văn hóa cổ đại Hy Lạp và La Mã vừa được phát hiện nhờ những cuộc khai quật, nhờ những bản sách chép tay từ thời đú cũn gìn giữ được. Đúng là từ thế kỉ 14 và tiếp theo là trong hai thế kỉ 15 và 16 ở châu Âu có cả một phong trào đi tìm kiếm những di tích của hai nền văn hóa cổ đại Hy Lạp, La Mã. Người ta đua nhau học tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh để đọc các bản sách chép tay đó. Việc dịch thuật, giới thiệu và xuất bản các tác phẩm Triết học, văn học cổ Hy Lạp đã thu hút một số đông những học giả, nhà nghiên cứu, chủ nhà in đỳng là chưa bao giờ Hy Lạp và La Mã cổ đại lại được chú ý được đề cao được say mê đến vậy. Nhưng thật là sai lầm nếu cho rằng mục đích của phong trào văn hóa Phục Hưng là nhằm khôi phục những nền văn hóa cổ đại đó, thật là sai lầm nếu nghĩ rằng phong trào sôi động này chỉ mang ý nghĩa phục cổ đơn thuần.Nhờ được tận mắt nhìn ngắm những di tích còn sót lại của hai nền văn minh Hy Lạp, La Mã mà các cuộc khai quật mới phát hiện được, nhờ được tự mình đọc và tìm hiểu ý nghĩa của các tác phẩm cổ đại Hy, La [qua nguyên tác hoặc qua bản dịch], phương Tây có dịp để đối chiếu và so sánh với nền văn hóa Trung Cổ trong đó có họ đang sống, họ đã rút ra được kết luận quan trọng này: Trung Cổ phong kiến và nhà thờ đã kìm hãm nền văn hóa, hơn thế nữa, đã chà đạp thô bạo lên quyền sống quyền tự do của con người. Họ đã cảm thấy như mình vừa trải qua một đêm trường tăm tối. Họ nhận ra rằng cổ đại Hy Lạp sở dĩ đã xây dựng một nền văn minh rực rỡ chính là vì nó chưa hề biết chế độ phong kiến là gỡ, vỡ nó chưa phải chịu đựng sự thống trị tinh thần của giáo hội Thiên chúa. Ănghen viết: “Trong những cuốn sách viết tay còn cứu vớt được sau nền văn minh Bygiăngxơ đã sụp đổ, trong những pho tượng thời cổ đại khai quật được trong những đống hoang tàn ở La Mã, người ta thấy cả một thế giới mới lạ hiện ra trước mắt phương Tây kinh ngạc: đó là thời cổ đại Hy Lạp; những hình thức chói lòa của nó đánh tan những bóng ma thời trung cổ”.Cuộc vận động tư tưởng và văn hóa Phục Hưng đã gặt hái được những mùa hoa trái tốt đẹp, phong phú vô cùng. Nó đó làm cho Tây Âu như bừng thức dậy sau “đờm trường trung cổ”, đưa những nước này tiến nhanh, tiến mạnh vào lịch sử cận đại. Văn hóa Phục Hưng vì vậy được thừa nhận là một trong những nền văn hóa rực rỡ của loài người. Tác động thúc đẩy của cuộc vận động tư tưởng và văn hóa Phục Hưng đối với lịch sử phương Tây và lịch sử nhân loại nói chung là điều đã rõ ràng. Tuy nhiên, lại phải thấy rằng bản thân cuộc vận động tư tưởng và văn hóa đó là sản phẩm của một bước ngoặt lịch sử, do những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội bấy giờ đòi hỏi, tạo ra và quy định. Cần tránh hai khuynh hướng sai lầm khá phổ biến xưa nay là “trung cổ húa”hoặc “hiện đại húa” thời phục hưng. Khuynh hướng thứ nhất phủ nhận chất lượng mới của thời Phục Hưng, chỉ coi nó như giai đoạn sau của trung cổ, coi những thành tựu của nó như là hoa qủa muộn mằn của Trung Cổ, do Trung Cổ gieo giống và chăm nom. Về thực chất khuynh hướng này do các học giả nặng đầu óc bảo thủ, gắn bó với lập trường và quan điểm của giai cấp quý tộc phong kiến và đẳng cấp tăng lư để xuất ra. Khuynh hướng thứ hai thì ngược lại, nó quan niệm rằng phục hưng là sự “cắt đứt” hoàn toàn với Trung Cổ và mở đầu cho thời hiện đại. Khuynh hướng này đề cao Phục Hưng nhằm tô vẽ cho nền văn minh tư sản. Những kẻ đề xướng khuynh hướng đó nhấn mạnh rằng: buổi bình minh của kỷ nguyên tư bản chủ nghĩa thật là huy hoàng tráng lệ và đú chớnh là sự tự khẳng định của chủ nghĩa tư bản ngay trong buổi mới trào đời, là cống hiến đầu tiên, to lớn của chủ nghĩa tư bản đối với lịch sử nhân loại Bước ngoặt đú đó diễn ra trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo tư tưởng, khoa học kĩ thuật, văn học nghệ thuật. Nó làm biến đổi sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội Tây Âu, phơi bày tính chất trì trệ lạc hậu lỗi thời của những thiết chế tinh thần vật chất của chế độ phong kiến và của nhà thờ Trung Cổ. Nó tạo nên một đà phát triển cho các lĩnh vực nói trên, khiến cho xã hội Tây Âu vào nửa sau của thế kỉ 16, đầu thế kỉ 17 thực sự đã mang lại một bộ mặt mới, mạng lại khởi sắc phồn vinh đầy khí thế. Vùng bắc Italia là một trung tâm kinh tế và một trung tâm văn hóa phát triển sớm hơn cả [từ thế kỉ 14]. Ở đó, các quốc gia-đụ thị như Vơnidơ, Giờnơ, Plorăngxơ đó chứng kiến một thời kì phát đạt của công thương nghiệp, xưa nay chưa từng thấy. Trên cơ sở một nền kinh tế công thương nghiệp phát triển như vậy, một nền văn học nghệ thuật mới, phong phú, rực rỡ đã đơm hoa kết quả. Chính vì vậy mà Italia trở thành cái nôi của phong trào văn hóa Phục Hưng.Vùng thấp [gồm các nước Hà Lan, Bỉ và Luychxămbua ngày nay] cũng là một trung tâm kinh tế và văn hóa hình thành tương đối sớm [hầu như cũng một lúc với vùng bắc Italia]. Ở đó, các đô thị như Bơruygiơ, Anve [ngày nay thuộc Bỉ] Amxtộcdam[nay thuộc Hà Lan ]cũng tấp nập trù phú vụ cựng. Chính nhờ vậy mà nơi đây cũng từng là một trung tâm văn hóa mới của thời kì Phục Hưng. Sau sự kiện Côngxtăngtinốp bị Thổ Nhĩ Kì chiếm đóng [1453] cắt đứt đường giao thông buôn bán giữa Tây và Đụng, cỏc nước phương Tây bèn lao đi tìm những con đường liên ngạch, buôn bán mới. Các phát kiến địa lý đã dẫn tới một kết quả to lớn, bất ngờ, ngoài dự kiến. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ănghen đã nới về ý nghĩa đó như sau: “Việc tìm ra châu Mĩ và đường hàng hải quanh châu Phi đã tạo ra cho giai cấp tự sản đang lên một trường hoạt động mới. Thị trường Ấn Độ và Trung Hoa, việc chiếm châu Mĩ làm thuộc địa, việc buôn bán với các thuộc địa, việc tăng thêm một số phương tiện trao đổi và số lượng hàng hóa những cái ấy nói chung đã đem lại cho thương nghiệp, hàng hải, công nghiệp một đà phát triển chưa từng có, và do đó, đã làm cho yếu tố cách mạng phát triển nhanh chóng trong lòng xã hội phong kiến đang suy tàn. Phương thức kinh doanh phong kiến hay phường hội trước kia không còn có thể thỏa mãn được nhu cầu đang lên theo sự mở mang nhiều thị trường mới. Thời đại phục hưng còn được đánh dấu bằng một phong trào cải cách tôn giáo rộng lớn, sôi động, xưa nay chưa từng thấy. Kết quả bước đầu là nền “độc tài tinh thần của giáo hội bị phá vỡ”, đại bộ phận các dân tộc Giộcmanh đã bỏ thẳng giáo hội để theo đạo Tin lành, đồng thời trong các dân tộc Latinh một thứ tư tưởng tự do phê bình hoạt bát, hấp thu của người Ả Rập, và thấm nhuần thứ Triết học Hy Lạp vừa mới phát hiện ra, càng ngày vàng ăn sâu vào tinh thần người ta và chuẩn bị cho chủ nghĩa duy vật hồi thế kỉ 18 ra đời [Ănghen: lời nói đầu cuốn Phép biện chứng của thiên nhiên.]. Nói tóm lại, đúng như Ăngghen đã nhận định, thời đai Phục Hưng là “bước ngoặt tiến bộ, vĩ đại nhất, từ trước đến bấy giờ loài người chưa từng thấy”. Bước ngoặt đú đó diễn ra, làm thay đổi mọi mặt kinh tế, chớnh trị-xó hội, tôn giáo, tư tưởng và tinh thần. Chính trong bối cảnh đó, văn học nghệ thuật Phục Hưng đã nở hoa kết quả, một mùa hoa quả tốt dẹp hiếm có.II. Một số nét lớn của phong trào văn hoá Phục HưngThời hậu kỳ trung đại, ở Tây Âu đã có nhiều phát minh có ý nghĩa to lớn và đó là cơ sở, tiền đề quan trọng cho sự nhận thức của con người như: thuật ấn loát của Gutenberg, nghề nấu thép, đúc súng đạn… Thời kỳ này cũng có nhiều phát kiến địa lý lớn đem lại nhiều giá trị khoa học và nó làm thay đổi sự nhận thức của con người về nhiều lĩnh vực.Phong trào văn hoá Phục Hưng diễn ra đầu tiên ở Italia vì có rất nhiều nguyên nhân tác động. Thứ nhất đó là bước vào thế kỷ XIV ở Italia đã có những thành thị tự do phát triển mạnh mẽ như những quốc gia riêng biệt như: Phirenxe, Venexia, Milano… Ở những thành thị này, quan hệ tư bản chủ nghĩa chiếm địa vị thống trị. Thứ hai là Italia là quê hương của nền văn minh La Mã cổ đại, nhưng bước vào thời sơ và trung kỳ trung đại thì những giá trị văn hoá, thành tựu của nền văn minh này đã bị tiêu diệt đi vào quá khứ. Giờ đây, khi nền kinh tế phát triển, người Italia nhớ lại về quá khứ của cha ông mình và họ muốn khôi phục lại những giá trị đó. Phong trào bắt nguồn từ Ý, sau đó truyền sang Pháp qua cuộc chiến tranh Pháp – Ý. Tiếp đó, phong trào văn hoá Phục Hưng tiếp tục truyền sang các nước khác như Hà Lan, Anh, Đức và có ảnh hưởng nhiều đến các quốc gia này.Sự ra đời và phát triển của phong trào văn hoá Phục Hưng là điều tất yếu trong quá trình phát triển và đi lên của lịch sử nhân loại. Cả Tây Âu suốt trong một thời kỳ dài bị đắm chìm trong sự lạc hậu và tăm tối, giờ đây dưới tác động của những tư tưởng tiến bộ và mang màu sắc tự do thì đó chính là những động lực to lớn cho sự thay đổi của xã hội. Phong trào văn hoá Phục Hưng không chỉ diễn ra ở một lĩnh vực riêng lẻ mà nó được diễn ra ở hầu khắp các lĩnh vực như: văn học, nghệ thuật, khoa học… Những thành tựu trong các lĩnh vực trên trong thời kỳ này hết sức to lớn. Văn học, nghệ thuật trong thời kỳ này được coi là khuôn mẫu và tuyệt tác mà các thế hệ sau phải thán phục. Có thể coi phong trào văn hoá Phục Hưng gồm có các nét lớn sau:- Phong trào diễn ra trên một địa bàn rộng lớn, có sự lan truyền nhanh chóng và có ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống văn hoá, chính trị xã hội ở những nơi phong trào diễn ra, đạt những thành tựu hết sức lớn lao và có nhiều lĩnh vực là tiền đề quan trọng, không thể thiếu cho sự phát triển của xã hội.- Nội dung chủ yếu của các thành tựu được các tác giả phản ánh qua những tác phẩm của mình, đó là sự đề cao giá trị con người và tự do cá nhân, nó mang đầy ý nghĩa nhân văn và ý nghĩa khoa học. Đồng thời nó phê phán, bác bỏ những quan điểm lạc hậu, bảo thủ của chế độ phong kiến và giáo hội bằng những cách thể hiện hết sức đa dạng, kín đáo.- Những thành tựu trên các lĩnh vực của phong trào văn hoá Phục Hưng là điểm hội tụ sáng nhất của các giá trị nghệ thuật và là nền tảng lớn nhất của khoa học thời cận đại.III. Những thành tựu của phong trào văn hoá Phục hưng1. Triết học và khoa học tự nhiêna. Tiền đề chungQuá trình phát minh trong khoa học dù đó là một hệ tư tưởng mới, một quan điểm mới, thì phần lớn đều phải có sự kế thừa những gì đã có và phát triển thêm những giá trị tiến bộ, phù hợp với lịch sử tồn tại lúc bấy giờ. Trong thời kỳ văn hoá Phục Hưng và hậu Phục Hưng cũng vậy. Trong tất cả các lĩnh vực như Triết học, thiên văn học, Toán học… thì thời kỳ tiền Phục Hưng đều đã có với những nhà khoa học nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực như Aristotle, Ptolemy, Plato… Họ được coi là những nhà khoa học vĩ đại của thời cổ đại và những quan điểm của họ vẫn luôn có ảnh hưởng to lớn đến mọi thời đại.Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển đi lên của lịch sử nhân loại, rất nhiều quan điểm của họ đã không còn phù hợp và đòi hỏi cần có những nghiên cứu để chứng minh những quan điểm đó là sai và phải thay bằng một quan điểm mới đúng hơn. Do đó, tiền đề quan trọng nhất của những phát minh khoa học tự nhiên thời kỳ văn hoá Phục Hưng đó là sự kế thừa những giá trị khoa học tiền Phục Hưng.Tiền đề thứ hai có thể nói là sự tổng hợp của nhiều yếu tố về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội có sự thay đổi đã tạo ra sự nhận thức mới về thế giới và cộng thêm vào đó là sự tồn tại của giáo hội với thần quyền thống trị về mặt tinh thần của xã hội con người với những quan điểm sai lệch và bảo thủ. Chính điều này đã đặt ra cho các nhà khoa học chân chính những nội dung cần giải quyết.Khoa học thời tiền văn hoá Phục Hưng thường gắn liền với Triết học. Mà Triết học kinh viện với sự phục tùng thần học một cách mù quáng đã làm tê liệt mọi tìm tòi, nghiên cứu ngăn cản mọi tiến bộ của khoa học. Chính vì vậy, khoa học muốn phát triển thì nó phải đấu tranh với Triết học kinh viện và đồng nghĩa với nó là đối đầu với giáo hội.Những quan điểm và nội dung mà các nhà khoa học đưa ra thường trái với quan điểm của nhà thờ. Chính vì vậy, giáo hội đã coi khoa học và các nhà nghiên cứu khoa học là những kẻ thù. Họ đã nhân danh đức Chúa trời để phán xử, gán ghép những tội lội cho các phát minh, sáng chế hay những tư tưởng tiến bộ để từ đó trừng trị họ. Mặc dù các nhà khoa học phải trả giá cho những phát minh, những quan điểm của mình bằng chính mạng sống của bản thân.Bằng niềm đam mê của mình, trong suốt thời kỳ văn hoá Phục Hưng và một giai đoạn hậu Phục Hưng nữa thì đã có rất nhiều các phát minh, quan điểm mới được đưa ra bởi các nhà khoa học trên nhiều những lĩnh vực như: Triết học, Thiên văn học, Vật lý, Toán học, Y học… Với một đội ngũ các nhà khoa học đông đảo và đầy nhiệt huyết trong đó tiêu biểu nhất như: Descartes, Copernicus, Bruno, Galilei, Kepler… Những phát minh của họ dù ở lĩnh vực nào đi chăng nữa nó cũng có những tác động to lớn đến lịch sử phát triển của nhân loại. Nó là một trong những nhân tố quyết định nhất để phá tan đêm trường trung cổ đã bao vây lấy châu Âu ngót 1000 năm bằng những tư tưởng, quan điểm hết sức lạc hậu và thủ cựu. Những phát minh đó đã tạo ra một động lực hết sức to lớn để châu Âu nói riêng và thế giới nói chung tiến vào giai đoạn phát triển mới. Những phát minh, sáng chế của các nhà khoa học trong thời kỳ này là một trong những nền tảng quyết định cho sự phát triển của nền khoa học cận – hiện đại ngày nay.b. Triết học Vào thời kỳ trung đại, với sự phá hoại của những cuộc chiến tranh chinh phục kéo dài suốt mấy thế kỷ, nó đã làm cho di sản văn hoá cổ điển vốn đã bị phá hoại nhiều lần, chẳng hạn như hoạt động phá hoại mang tính huỷ diệt của người Visi Goth và người Vandal, thêm nữa là cuộc hỗn chiến của tầng lớp thống trị Germans càng làm cho nền văn minh La Mã suy sụp tới mức không thể tưởng tượng. Chính Charlemagne đã thừa nhận. Ông nói: trong một thời gian dài đã qua, do tiền nhân sơ suất nên công tác văn hoá giáo dục bị lãng quên. Giáo sĩ không biết viết, không thể nào hiểu được kinh thánh, hiểu sai là điều hết sức nguy hiểm.Trong điều kiện lịch sử như vậy, giới giáo sĩ đạo Cơ Đốc đã nắm địa vị và lũng đoạn tri thức giáo dục. Cũng trong thời kỳ này ở Tây Âu giáo hội Cơ Đốc có một địa vị cực kỳ quan trọng. Những quan điểm của giáo hội nó đã xâm nhập vào toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những ngành thuộc về ý thức hệ trong đó có Triết học đều phủ lên một màu sắc thần học hết sức sâu đậm. Lợi dụng địa vị của mình, giáo hội đã chi phối toàn bộ các hoạt động giáo dục trên các lĩnh vực như: khoa học, Triết học… để phục vụ cho thần học mà không ngoài mục tiêu đó là duy trì địa vị thống trị của mình.Trong xã hội Tây Âu thời bấy giờ, các cuộc đấu tranh chống phong kiến của nhân dân liên tục xảy ra, thêm vào đó là những kỳ tích về thánh đồ, những câu chuyện mê tín và cả những môn học của cha cố xuất hiện ở giai đoạn sau của đế quốc La Mã đã không còn gạt gẫm người dân được nữa và nó cũng không đáp ứng được nhu cầu của giai cấp thống trị đương thời. Trong bối cảnh đó, Triết học kinh viện đã kịp thời xuất hiện. Đó là Triết học Cơ đốc giáo, nó chiếm địa vị thống trị trong thời kỳ trung cổ tại châu Âu. Như vậy, cũng phải thấy rằng nó đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử lúc bấy giờ.Chủ nghĩa kinh viện [scholasticism] trở thành thuật ngữ để chỉ về hệ thống tư tưởng có ưu thế được triển khai bởi các giáo sư trong các trường học và phương pháp họ dùng để giảng dạy Triết học. Các nhà Triết học kinh viện cho rằng mọi chân lý cuộc sống đã được “thánh kinh” nói rõ tất cả và không được nghi ngờ những điều đã được ghi trong đó. Nhiệm vụ của các nhà Triết học là giảng giải lại những chân lý mà “thánh kinh” đã đề cập và tìm ra những chứng cứ hợp lý cho tín ngưỡng. Những nhà Triết học ở giai đoạn này gần như là những người cuồng tín. Họ tin một cách thành kính vào những điều ghi trong thánh kinh. Suốt cả cuộc đời họ cứ ngày này qua tháng khác sống trong nhà thờ, học viện của giáo hội và họ cùng với nhau bàn bạc về kinh sách, giáo lý chứ không hề quan tâm tới việc nghiên cứu vạn vật ngoài tự nhiên, cũng không tiếp xúc với thực tế. Họ phủ nhận tất cả các hoạt động của cảm tính. Suốt cả cuộc đời, họ chỉ chuyên tâm vào việc đọc thánh kinh, giải thích giáo lý. Họ tìm hiểu những nội dung trong chủ nghĩa duy tâm của Aristotle cũng như diễn giải theo logic của loại Triết học này nhằm mục đích là khẳng định những hoạt động của loài người chịu sự chi phối của thượng đế, họ thần thánh chế độ phong kiến để cho mọi người phải phục tùng sự thống trị của giáo quyền. Với những quan điểm mang màu sắc thần học nên những vấn đề các nhà Triết học đưa ra để tranh luận cũng mang đậm màu sắc thần thánh, huyền bí và không có giá trị khoa học như: “Các thiên thần ăn gì, họ có cần ngủ hay không, hoa hồng trên thiên đường có gai hay không… những vấn đề họ đưa ra để tranh luận thật hết sức hoang đường và chẳng đóng góp được gì cho tiến bộ của xã hội loài người.Cà một thời kỳ dài của lịch sử Tây Âu, do sự chi phối của giáo hội Cơ đốc, Triết học đã không có sự phát triển do đó mà không tạo ra được một nền tảng vững chắc cho các ngành khoa học khác phát triển. Tinh thần khoa học bị bó buộc trong những quan điểm thần học mà đại diện của nó là Triết học kinh viện.Người tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Triết học kinh viện đó là Thomas Aquinas [1225 – 1274]. Cha ông là Bá tước Aquino, người đã từng hy vọng con mình sau này có một địa vị cao trong giáo hội. Vì vậy mà ngay từ lúc 5 tuổi ông đã được đưa vào đan viện Monte Cassino và theo học 9 năm tại đan viện dòng Biển Đức. Sau đó ông chuyển vào học tại Đại học Napoli và trong thời gian theo học ở đây ông bị thu hút bởi các tu sĩ dòng Đa Minh và quyết định gia nhập dòng này. Người có ảnh hưởng nhiều đến quan điểm của Aquinas đó chính là Albert Cả. Ông này là người có kiến thức sâu rộng. Ông đã đọc và biết hầu hết các tác giả cổ điển của Kito giáo, Do Thái giáo và Ả Rập. Tuy nhiên, ông được coi là người có đầu óc bách khoa toàn thư hơn là sự sáng tạo. Albert coi Aristotle là nhà Triết học vĩ đại nhất và sở dĩ tư tưởng của Aristotle trở thành tư tưởng chủ đạo của thế kỷ XIII, phần lớn là nhờ công của Albert.Với một ông thầy như vậy thì Thomas Aquinas cũng tìm thấy ở Aristotle nguồn trợ giúp quan trọng nhất cho khoa học thần học và Kito giáo. Những thành tựu nổi bật nhất của Aquinas đó chính là các tác phẩm lớn về thần học: Summa contra entiles [Tổng luận cống lại Dân Ngoại đạo] và Summa Theologica [Tổng luận Thần học].Một trong những quan điểm nổi tiếng của ông về trật tự thế giới đó là ông cho rằng vũ trụ được sắp xếp theo đẳng cấp bậc thang. Bắt đầu từ phi sinh vật rồi đến thực vật, động vật và tới con người sau đó là thánh đồ, thiên thần và cao nhất là thượng đế. Trong hệ thống đó, cấp dưới lệ thuộc vào cấp trên, do cấp trên cai quản. Từ đó, ông luận chứng trật tự trên mặt đất cần phải phục tùng trật tự trên trời, cuộc đời hiện tại phải phục tùng cuộc đời mai sau. Triết học phải phục tùng thần học, tri thức phải nhường chỗ cho tín ngưỡng. Ông cho rằng mối quan hệ trong xã hội phong kiến là tự nhiên và hợp lý. Nếu ai muốn thay đồi sự sắp xếp của thượng đế trong xã hội thì đó chính là kẻ đã phạm trọng tội.Cùng với sự lũng đoạn của giáo hội Cơ Đốc về mọi mặt, Triết học kinh viện đã chiếm lĩnh các trường học Tây Âu trong suốt một thời gian dài. Với những quan điểm mang đậm màu sắc thần học nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Giáo hội đã không cho khoa học có con đường thuận lợi để phát triển. Cả xã hội Tây Âu trong thời kỳ này đang chìm đắm trong sự tối tăm và mê muội, người ta chỉ biết đến những lời giảng của các nhà Triết học kinh viện, mà lời giảng của họ chẳng khác gì mấy so với lời dạy của kinh thánh. Cả xã hội đang chìm trong sự mê tín, lạc hậu và chưa có lối thoát.Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các mặt trong đời sống xã hội nhất là những thay đổi về kinh tế đã làm cho các ngành khoa học có bước phát triển mới, trong đó có Triết học. Mặc dù những lời giảng của giáo hội cũng đã bao hàm sự ngăn đe và trừng trị nghiêm khắc những ai dám đưa ra quan điểm trái với Triết học kinh viện, tuy nhiên tinh thần khoa học chân chính, đã có rất nhiều người dũng cảm đưa ra những quan điểm dựa trên sự quan sát và nghiên cứu của mình. Mặc dù so với thời đại hiện nay, những quan điểm đó cũng có những hạn chế nhất định, song so với thời đại hiện đại nó là những bước tiến bộ vượt bậc trong sự nhận thức của con người. Nó cũng là nền tảng cơ bản và hết sức có ý nghĩa để cho Triết học sau này tự hoàn thiện và đem lại những giá trị thiết thực như ngày nay. Trong đó tiêu biểu là Roger Bacon [1214 – 1294]. Ông là một giáo sư của trường Đại học Oxford, ông đã chú trọng đến thực nghiệm và nó có tác dụng nhất định trong sự phát triển của khoa học tự nhiên. Bacon còn vạch trần những hành động xấu xa của giáo hoàng và bọn tăng lữ, chỉ trích giáo hội là nguồn gốc của sự gạt gẫm và nói dối. Chính vì vậy mà ông đã bị giáo hội hãm lại và bị giam trong ngục suốt 12 năm.Trong sự ngột ngạt của Triết học nói riêng và các ngành khoa học khác nói chung, thì với những yếu tố thuận lợi mà phong trào văn hoá Phục Hưng đang diễn ra thì nó đang mang lại những sức bậc lớn cho các ngành khoa học trong đó có Triết học. Những thành tựu của Triết học trong thời kỳ này được kế thừa những giá trị Triết học trước đó với những tư tưởng tiến bộ. Các nhà Triết học đã chọn lọc những giá trị khoa học trong các quan điểm của các nhà Triết học trước. Đồng thời với tư tưởng và sự nghiên cứu sâu sắc của mình mà quan trọng nhất là sự dũng cảm dám đương đầu với giáo hội. Các nhà Triết học thời kỳ này đã đóng góp rất lớn cho sự tiến bộ của khoa học tự nhiên nói riêng và sự phát triển của thế giới nói chung. Bằng những quan điểm của mình và dựa trên sự quan sát từ cuộc sống thực tế, các nhà Triết học đã đưa ra những luận điểm khoa học, trái với những quan điểm của giáo hội và mở đường cho sự nhận thức mới. Điều này chính là nhân tố mở đường, tạo điều kiện cho khoa học tự nhiên phát triển đồng thời nó là cơ sở để đánh đổ những quan điểm sai lệch và bảo thủ của giáo hội.Một trong những nhà Triết học nổi tiếng đã dám dũng cảm tuyên bố những quan điểm chống lại giáo hội đó chính là Giordano Bruno. Ông sinh năm 1548 và mất năm 1600. Ông là nhà khoa học, nhà Triết học vĩ đại, là chiến sĩ dũng cảm trên mặt trận khoa học. Ông đã đấu tranh không thoả hiệp nhằm chống lại Triết học kinh viện và hăng hái tuyên truyền thế giới quan duy vật. Bruno là người theo thuyết nhật tâm của Copernicus và ông cũng đã kế thừa những quan điểm duy vật và vô thần của các nhà duy vật cổ đại. Ông đã xây dựng một quan niệm duy vật mới về vũ trụ. Phạm trù trung tâm của Triết học mà Bruno nêu lên là cái duy nhất, đó chính là thượng đế tồn tại dưới dạng tự nhiên, “tự nhiên là Thượng đế trong sự vật hiện tượng” như một thế giới độc lập không do một lực lượng nào sáng tạo ra cả. Ông đã đưa thượng đế lại gần với giới tự nhiên và con người mà trong nhiều trường hợp ông đã đồnh nhất chúng. Chính sự đồng nhất thượng đế với tự nhiên, với sự vật và đã làm nảy sinh chủ nghĩa đa thần của Bruno và nó hoàn toàn đối lập với quan điểm của Thiên chúa giáo.Một cống hiến vô cùng quan trọng của Bruno đó là ông đã phát triển thêm học thuyết của Copernicus đó là quan điểm mới về vũ trụ. Theo ông, vũ trụ là vô tận, ngoài hệ thống Mặt Trời của chúng ta còn vô số tinh cầu khác, quả đất chỉ là hạt bụi nhỏ bé trong khoảng không mênh mông vô tận của vũ trụ. Vì vậy, không có một hành tinh nào thực sự là trung tâm của vũ trụ, sự sống và con người có thể có trên những hành tinh khác của vũ trụ bao la, không có chúa trời nào thống trị vũ trụ cả. Đây chính là một tư tưởng vô cùng sáng tạo của Bruno cho việc khẳng định bản chất vật lý giống nhau của vũ trụ. Điều này hiện nay các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục chứng thực và tìm kiếm trên cơ sở dựa trên những tư tưởng rất sâu sắc của Bruno đưa ra.Những quan điểm mới của Bruno là đòn đánh mạnh vào Triết học kinh viện thời bấy giờ. Bởi vì với quan điểm của Triết học kinh viện thì Chúa là đấng tối cao, sáng tạo ra thế giới và không có ai là sức mạnh hơn Thiên Chúa và với quan điểm cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ thì giờ đây tất cả đã bị đảo ngược bởi quan điểm của Bruno.Về lý luận nhận thức, Bruno cũng đưa ra những quan điểm khác so với Triết học kinh viện. Bruno cho đối tượng nhận thức là thế giới tự nhiên và chia quá trình nhận thức ra làm ba giai đoạn: giai đoạn ban đầu là nhận thức cảm tính và chỉ có ý nghĩa đánh thức trí tuệ, giai đoạn thứ hai là lý trí, giai đoạn thứ ba là trí tuệ.Triết học kinh viện đề cao việc nhận thức những nội dung chính của kinh thánh và tìm cách gò ép nó cho phù hợp với thực tế, do đó mà họ không quan tâm đến nhận thức thế giới bên ngoài. Họ cho rằng tất cả đã được thánh kinh và Aristotle giải quyết hết rồi. Nhưng giờ đây, Bruno cho rằng: đối tượng nhận thức của con người không phải là kinh thánh mà là giới tự nhiên vô tận. Việc này đã khai đường cho một chiều hướng nghiên cứu mới, bởi vì đối tượng này chưa được nghiên cứu nhiều và loài người muốn phát triển thì yếu tố không thể thiếu đó là phải nhận thức thế giới tự nhiên. Và ngày nay, dù khoa học đã rất phát triển nhưng con người vẫn chưa nhận thức hết được giới tự nhiên và vẫn đang tiếp tục nghiên cứu. Điều này khẳng định, quan điểm của Bruno đưa ra hoàn toàn chính xác.Tất cả những quan điểm của Bruno đã làm cho giáo hội tức giận. Bruno đã bị giáo hội La Mã thiêu sống. Mặc dù Bruno không còn nữa, nhưng những giá trị mà ông đóng góp cho khoa học thì không một ai có thể phủ nhận được. Cho dù giáo hội có cấm đoán như thế nào đi chăng nữa thì những giá trị mà ông đóng góp cho khoa học vẫn luôn toả sáng và có tác động mạnh mẽ đến thế hệ các nhà khoa học sau này. Bruno vẫn mãi được coi là một trong những con người vĩ đại nhất đi tiên phong trên con đường giải phóng khoa học ra khỏi chủ nghĩa kinh viện và mở ra một chương mới cho lịch sử phát triển đi lên của xã hội loài người.Sau sự mở đường của nhiều nhà Triết học mà đại diện tiêu biểu có Roger Bacon, Bruno… thì một thời kỳ phát triển các quan điểm tiến bộ của ngành Triết học đã được mở ra mà đại diện tiêu biểu có Francis Bacon [1561 – 1621]. Ông là nhà Triết học vĩ đại thời cận đại. Các Mác đã đề cao vai trò của Francis Bacon và coi ông là ông tổ của chủ nghĩa duy vật Anh và khoa học thực nghiệm. Balcon đã mở ra một chương mới cho lịch sử Triết học Tây Âu.Khác với thời kỳ trước, Balcon đã nhận thấy vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học, Triết học và sự cần thiết phải đẩy mạnh sự phát triển của chúng như một nền tảng trong công cuộc xây dựng đất nước. Ông coi đó là một phương tiện cơ bản nhằm xoá bỏ những bất công trong xã hội và xây dựng cuộc sống phồn vinh. Trên cơ sở nhận thức như vậy, ông đã đưa ra những tư tưởng hết sức tiến bộ và được đánh giá cao đó là ông đã khẳng định: phải cải tạo chính xã hội hiện thực đương thời trên cơ sở phát triển khoa học và Triết học, chứ không phải bằng cách tạo ra mô hình lý tưởng như những nhà nhân đạo cộng sản không tưởng. Đây được coi như là một bước mở đầu cho việc đánh giá vai trò của những thành tựu khoa học cho sự đi lên của tiến bộ nhân loại chứ không phải thánh kinh có thể làm thay đổi thế giới.Bacon cho rằng, mục đích của xã hội là nhận thức các nguyên nhân, các sức mạnh bí ẩn của các sự vật và mở rộng sự thống trị của con người đối với tự nhiên trong một chừng mực con người có thể làm được. Quan điểm này cũng giống với quan điểm của Bruno và nó góp phần củng cố thêm về mặt lý luận để khai phá ra con đường chinh phục thiên nhiên của loài người. Nếu như trước đây, giáo hội bằng những giáo lý thần học của mình đã đào tạo ra những “sản phẩm” không biết hoài nghi mà chỉ nghe và làm theo thánh kinh, thì giờ đây với quan điểm này, con người có thể chinh phục được tự nhiên ở một mức độ nào đó.Theo Bacon, khác với các bộ môn Lịch sử và các dạng nhận thức nghệ thuật chỉ đơn thuần dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con người thì Triết học và khoa học mang tính lý luận và khái quát cao. Trong đó tư duy Triết học là tư duy lý tính và mang trí tuệ cao nhất. Do đó, ông đánh giá cao vai trò của tri thức lý luận trong việc cải tạo xã hội. Bacon khẳng định “tri thức là sức mạnh”. Và đây chính là tuyên ngôn gạt bỏ sức mạnh của Chúa, bởi vì từ trước đến nay người ta luôn coi Chúa là đấng sáng tạo tối cao và có quyền uy tuyệt đối. Nhưng giờ đây, sức mạnh của con người không phải là ở Chúa mà là ở tri thức. Cũng từ đây, ông đã đưa ra một lý luận mang tính cách mạng đối với xã hội thời bấy giờ đó là coi “hiệu quả và sự sáng chế thực tiễn là người bảo lãnh và ghi nhận tính chân lý của Triết học”. Muốn chinh phục tự nhiên thì con người phải nhận thức các quy luật của nó, vận dụng và tuân thủ theo chúng. Đây là sự tiến bộ vượt bậc trong nhận thức của con người thời bấy giờ.Trên các bục giảng của nhà trường bị ảnh hưởng của thần học, thì các nội dung về khoa học tự nhiên và nhất là sự nhận thức của con người về mặt lý tính bị hạn chế một cách khắc nghiệt. Chính vì vậy mà Triết học nói riêng và các ngành khoa học khác nói chung đã không có điều kiện để phát triển. Giờ đây, với sự phát triển và chứng minh được quan điểm của mình là đúng đắn thì Bacon đã mở ra một con đường mới cho Triết học phát triển và những giá trị của Triết học chỉ đúng đắn khi đã kiểm nghiệm được qua thực tiễn.Và chính thực tiễn sẽ kiểm nghiệm chân lý đó đúng hay sai như ngày nay chúng ta vẫn sử dụng. Quan điểm này đã đánh mạnh vào chủ nghĩa Triết học kinh viện chỉ biết dựa vào lý thuyết và những giáo lý thần học mà không biết đến thực tế là gì.Những đóng góp của Balcon cho sự phát triển của Triết học và sự tiến bộ của nhân loại là hết sức to lớn. Ông không những chỉ ra được sự đúng đắn của bản chất và nhiệm vụ của Triết học mà còn đưa ra những quan điểm của mình về thế giới. Ông đã kế thừa những giá trị về Triết học của các thời kỳ trước và phát triển các quan niệm duy vật thời cổ đại. Bacon cho rằng: để giải thích được tính muôn màu của thế giới chỉ cần vật chất là đủ. Để giải thích quan điểm của mình, ông đã cải biến những quan điểm duy vật của Aristotle. Ông đã xoá bỏ nguyên nhân mục đích của các sự vật và cho rằng mọi cái trên thế gian chỉ tồn tại từ ba nguyên nhân chính: hình dạng, vật chất và vận động. Bacon đã tiến một bước rất xa so với các nhà Triết học trước đó và đương thời khi quan niệm rằng có sự thống nhất giữa vật chất và vận động, giữa bản chất của sự vật và vận động của nó, khẳng định vận động là đặc tính của sự vật. Bacon cho rằng nhận thức sự vật là nhận thức vận động của chúng. Bacon đã tìm ra cách phân loại các dạng vận động. Theo ông có tất cả 19 dạng vận động. Tuy nhiên, so với hiện nay thì cách phân loại vận động của Bacon thì vẫn còn một số hạn chế nhất định như: chưa biết phân loại cấu trúc của vật chất mà hầu như quy toàn bộ các dạng vận động thành hình thức vận động cơ học, không thấy được sự phát triển của thời gian vật chất đã xuất hiện nhiều hình thức vận động khác nhau về chất, phù hợp với trình độ cấu trúc của vật chất. Những hạn chế này là điều không thể tránh khỏi với điều kiện lịch sử lúc đó.Muốn làm thay đổi quan niệm hay nhận thức của người đương thời về một vấn đề nào đó thì nhận thức luận và phương pháp luận luôn là vấn đề then chốt. Khi một quan điểm của một cá nhân, tổ chức nào đưa ra mà không đề ra được cơ sở cho nhận thức luận và phương pháp luận thì sẽ không tránh khỏi sự đào thải của lịch sử. Lịch sử sẽ là nơi phán xét phương pháp nhận thức đó đúng hay sai. Bacon đã có một hoài bão đó là muốn xây dựng một cách nhìn mới về thế giới thật sự khách quan. Ông nói “Mục đích của tôi là ở chỗ chỉ ra uy thế thực sự của khoa học mà không cần phải tô vẽ cường điệu và làm rõ ý nghĩa và giá trị chân chính của nó”. Ở đây với quan điểm của mình Bacon đã cho rằng một khi khoa học đã giải quyết được những vấn đề thực tế và đúng đắn phù hợp với khách quan thì không cần những lời quảng cáo rẻ tiền. Đó chính là sức mạnh của khoa học chân chính và muốn nhận thức được nó thì phải có cái nhìn một cách chân thực.Việc Bacon đòi hỏi nhận thức sự vật phải hoàn toàn khách quan và hợp lý. Ông nhận xét chung rằng, con người thường hay chủ quan, duy ý chí trong nhận thức. Nhưng ông cũng còn có mặt hạn chế đó là phủ nhận hoàn toàn cái chủ quan trong nhận thức. Việc đòi hỏi nhận thức phải “khách quan thuần tuý” của ông là một điều không tưởng. Tuy nhiên những quan điểm của Bacon nó cũng có ý nghĩa tích cực trong việc phê phán các quan niệm thần học chủ quan thời đó và những quan điểm của ông đưa ra cũng có thể coi là bậc thang để bước lên nhà thờ kéo chủ nghĩa kinh viện đổ sập xuống.Một đóng góp quan trọng của Bacon cho Triết học thời kỳ này đó chính là ông đã là người đầu tiên nhận thức được sự hạn chế của tam đoạn luận và của logic hình thức – cái mà từ trước tới bây giờ vẫn được coi là phương pháp vạn năng để giải quyết mọi vấn đề. Ông đã đề ra những tư tưởng logic mới, khắc phục những phương pháp luận trước đây như “phương pháp con ong”, “phương pháp con nhện”. Ông đã đưa ra một phương pháp mới đó chính là “phương pháp con ong”. Bản chất của phương pháp này là từ những tri thức do cảm tính đem chế biến chúng thành những tri thức mới dựa trên cơ sở tư duy lý tính. Theo ông, phương pháp nhận thức tối ưu nhất là phương pháp quy nạp và ông coi đó là chiếc bàn là của khoa học. Nhưng ông không thoả mãn với những cách quy nạp hiện có – quy nạp đầy đủ và không đầy đủ. Ông là người đã khám phá ra phương pháp quy nạp loại trừ - có nghĩa là quy nạp mà trong đó phân tích, loại bỏ những dữ kiện phụ đi thẳng đến bản chất của sự vật.Nhìn chung trong vấn đề phương pháp luận, Bacon là nhà duy cảm thiên về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm. Ông là người có công trong việc khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương pháp luận mới phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại.Những đóng góp của Bacon, mặc dù còn có những hạn chế nhưng nó đã đóng góp cho lịch sử nhân loại những tiến bộ hết sức to lớn và tạo điều kiện cho việc đánh sập những quan điểm bảo thủ và sai lầm của giáo hội. Một trong những người cùng đóng góp với Bacon trên lĩnh vực Triết học nhằm đánh đổ những quan điểm thần học của giáo hội thời bấy giờ đó là nhà Triết học Descartes. Ông được mệnh danh là “người cha của chủ nghĩa duy lý cận đại”. Descartes sinh năm 1596 ở Pháp. Trong những năm từ năm 1604 đến 1612, ông theo học dòng Tên ở La Pleche, tại đây ông học các môn logic, toán và Triết học.Decartes quan tâm chủ yếu tới vấn đề sự chắc chắn của tri thức. Như ông đã nói, ông được giáo dục tại một trường nổi tiếng bậc nhất châu Âu, thế nhưng ông lại cảm thấy bối rối với nhiều hoài nghi và sai lạc. Ông cũng là một con người sùng đạo và cho tới chết ông cũng không phủ nhận các chân lý như “cần phải có sự trợ giúp phi thường từ trời chứ con người tự nhiên thì không làm gì được”. Tuy nhiên, ông lại không tìm thấy được ở thần học một phương pháp để đạt đến các chân lý mà chỉ dựa duy nhất vào khả năng lý trí của con người. Triết học mà Descartes học ở nhà trường cũng không giúp ích gì được.Sự tìm kiếm chân lý xuất phát từ những nhu cầu tìm ra phương pháp nhận thức mới, chính vì vậy mà Descartes đã từ bỏ sách vở để đến với “quyển sách vĩ đại của tự nhiên”, ở đó ông tìm được “những người có tính khí và hoàn cảnh khác nhau” và từ sự thực tế đó ông đã thu thập được những kinh nghiệm khác nhau. Điều này trái ngược hoàn toàn với những tranh cãi, suy luận của các tu sĩ giáo hội.Descartes đã đem đến cho Triết học một khởi đầu mới. Phương pháp của Decartes gồm việc trang bị một tập hợp các quy tắc đặc biệt để khai thác trí khôn. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của phương pháp này, và sự tư duy có hệ thống và trật tự. Descartes đã tìm thấy ở Toán học là ví dụ tốt nhất về tư duy sáng tạo và chính xác. Ông nói: “Phương pháp của tôi chứa đựng tất cả những gì làm nên tính chắc chắn của các quy tắc số học”. Ông có mong muốn làm cho mọi tri thức trở thành một thứ Toán học phổ quát. Vì ông tin sự chắc chắn của Toán học là kết quả của một đường lối tư duy đặc biệt. Bản thân của Toán học, tự nó không phải là phương pháp mà chỉ biểu hiện phương pháp mà Descartes đang tìm kiếm. Ông cho rằng hình học và số học cũng chỉ là những “ví dụ” hay “vỏ bọc ngoài” chứ không phải là thành phần cấu tạo của phương pháp mới của ông.Trong Toán học, Decartes tập trung vào khả năng trí tuệ nắm bắt được trực tiếp và rõ ràng một số chân lý cơ bản. Ông không quan tâm nhiều tới việc giải thích cơ chế hình thành các ý niệm từ kinh nghiệm mà cho rằng việc khẳng định sự kiện trí khôn chúng ta có khả năng biết các ý niệm một cách tuyệt đối sáng sử và rành mạch. Hơn nữa, suy luận Toán học cho thấy rằng có thể khám phá ra những cái chưa biết, nhờ tiến dần một cách tuần tự theo một trật tự từ những cái đã biết. Descartes cho rằng, mọi khoa học khác nhau chỉ là những cách khác nhau trong đó cùng một khả năng suy luận và cùng một phương pháp được sử dụng. Trong mọi trường hợp, đó là việc sử dụng trực giác và diễn dịch.Descartes xây dựng tri thức của ông trên nền tảng trực giác và diễn dịch. Ông đã nói rằng “hai phương pháp này là những con đường chắc chắn nhất dẫn tới tri thức” và bất cứ phương pháp nào khác đều bị “loại trừ như là đáng ngờ có sai lầm và nguy hiểm”. Tuy nhiên phương pháp của Descartes không chỉ có trực giác và diễn dịch mà nó còn nằm ở các quy tắc mà ông đặt ra.Điểm chủ yếu của các quy tắc mà Descartes cung cấp là đưa ra một đường lối rõ ràng và có trật tự cho hoạt động của trí khôn. Ông đã tin chắc rằng: “phương pháp hoàn toàn là ở trật tự và sự sắp đặt các đối tượng mà trí khôn của chúng ta muốn tìm ra một chân lý nào”. Descartes đã mất nhiều năm nghiên cứu để hình thành các quy tắc giúp trí khôn chọn những điểm xuất phát thích hợp cho suy luận và để hướng dẫn trí không trong quá trình suy luận. Trong số 21 quy tắc mà ông đưa ra Các quy tắc hướng dẫn trí khôn, thì có các quy tắc quan trọng sau: Quy tắc III: Khi chúng ta đề nghị nghiên cứu một chủ đề, “việc nghiên cứu của chúng ta không được hướng đến các điều khác đã nghĩ, hay các điều chúng ta phỏng đoán, mà phải hướng về những gì chúng ta có thể thấy rõ ràng và rành mạch, và có thể diễn dịch một cách chắc chắn”. Quy tắc IV: Đây là một quy tắc đòi hỏi rằng, các quy tắc khác phải được tuân thủ chặt chẽ, vì “nếu một người quan sát chúng một cách chính xác, họ sẽ không bao giờ giả thuyết một điều sai là đúng, và sẽ không bao giờ tiêu phí nỗ lực của tâm trí mình một cách vô mục đích”. Quy tắc V: Chúng ta sẽ đáp ứng phương pháp một cách chính xác nếu chúng ta “giản lược những mệnh đề rắc rối và mơ hồ từng bước một về những mệnh đề đơn giản hơn, và rồi bắt đầu với sự lĩnh hội bằng trực giác tất cả các mệnh đề tuyệt đối đơn giản, cố gắng lên tới tri thức về mọi vấn đề khác cũng bằng các bước tương tự”. Quy tắc VIII: “Nếu trong các vấn đề phải xem xét chúng ta đạt tới một bước trong chuỗi suy luận mà trí khôn của chúng ta không đủ khả năng để có một sự hiểu biết bằng trực giác, lúc đó chúng ta phải cắt đứt ngay tại đây.”Những quy tắc của Descartes đưa ra mang tính chất đặt nền móng cho các khoa học phát triển. Bởi những quy tắc đó về cơ bản là đả phá những quan điểm chủ quan của con người và ông muốn khi nghiên cứu hay suy luận một vấn đề nào đó thì cần phải có những suy nghĩ cần thiết chứ không phải là cách đặt vấn đề để giải quyết như những nhà Triết học kinh viện đã đặt ra.”Cùng với những quy tắc của mình, Descartes còn đưa ra bốn quy định trong Luận về phương pháp mà ông cho là đã đủ, “Miễn là tôi có quyết định vững chắc không lay chuyển rằng sẽ không một phút giây nào rời bỏ việc tuân theo chúng. Thứ nhất là không bao giờ chấp nhận là đúng điều gì mà tôi không thấy rõ ràng là đúng… Không đưa vào trong phán đoán của tôi điều gì nhiều hơn điều mà trí khôn tôi thấy một cách rõ ràng và rành mạch không thể có chút nghi ngờ. Thứ hai, chia mỗi khó khăn đang được xem xét thành càng nhiều phần càng tốt và theo sự cần thiết đòi hỏi để có giải pháp thoả đáng. Thứ ba, dẫn dắt tư tưởng của tôi theo một trật tự bắt đầu bằng những đối tượng đơn giản nhất và dễ biết nhất, nhờ đó tôi có thể đi lên dần dần, từng bước một, tới tri thức về những đối tượng phức tạp hơn. Và cuối cùng trong mọi trường hợp, làm các việc liệt kê thật đầy đủ và các việc duyệt xét thật tổng quát, để tôi có thể chắc chắn đã không bỏ sót điều gì.”Với những quy định về phương pháp của mình, Descartes đã đưa ra cho các nhà khoa học sau ông chìa khó để mở ra tri thức của nhân loại. Nếu như trước đây, mọi suy luận của con người dựa trên quan điểm thần học thì là đều do kinh sách chỉ đường và bằng suy luận chủ quan của mình. Giờ đây, Descartes đã đưa ra một câu tuyên ngôn – “không bao giờ chấp nhận là đúng điều gì mà tôi không thấy rõ ràng nó là đúng”. Điều này nó đã tạo ra một sức hút mạnh mẽ cho các khoa học gia. Bởi vì đơn giản rằng trong suốt thời kỳ trung đại có rất nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách hợp lý nhưng con người vẫn chấp nhận do chưa có các sự phát triển về các ngành khoa học có liên quan để người ta có thể thay đổi cách nhìn nhận vấn đề. Nhưng với những quan điểm của Descartes, đã có rất nhiều nội dung khiến cho giáo hội phải lo lắng và giờ đây Descartes cho rằng không chấp nhận những gì mà bản thân cho là không rõ ràng. Bằng những quan điểm và phương pháp mới đưa ra, ông đã tạo ra được ý thức hoài nghi khoa học và đây chính là yếu tố cần thiết để thúc đẩy khoa học tự nhiên phát triển. Con người không thoả mãn với những gì đang có và phải luôn luôn có nhu cầu khám phá để tìm kiếm ra cái mới. Đồng thời phương pháp của ông đưa ra cũng đã thể hiện được sự từng bước trong quá trình nghiên cứu khoa học chứ không phải là sự vội vàng bằng những quan điểm chủ quan của mình. Hay nói cách khác ở một chừng mực nhất định nào đó, ông cũng đã dùng “phương pháp con ong” của Bacon để tập hợp giải quyết các vấn đề của mình.Những đóng góp của rất nhiều nhà Triết học thời Phục Hưng trong đó tiêu biểu có Bruno, Bacon, Descartes đã tạo ra nền tảng vững chắc về lý luận và phương pháp nghiên cứu cho các nhà khoa học sau này. Bằng sự đóng góp của mình các ông cũng đã là những người đặt những viên gạch đầu tiên trong việc đánh đổ những phương pháp “nghiên cứu” của Triết học kinh viện mà giáo hội Cơ Đốc đã bó buộc con người trong suốt một thời gian dài. Từ đây, nhà thờ giáo hội đã bắt đầu lo sợ những giáo lý của mình không còn có thể thuyết phục tín đồ của mình. Triết học đã đóng góp một phần không nhỏ nhằm “hạ bệ” giáo hội và mở đường cho xã hội phát triển.Giáo hội Tây Âu sẽ kết thúc sứ mạng lịch sử của mình khi đã không đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Và để có sự kết thúc này thì phải bằng hàng loạt các phát minh về thiên văn học, vật lý, y học… trong thời kỳ Phục Hưng và hậu Phục Hưng. Không có một sự thay đổi nào trong xã hội loài người mà không phải trả một cái giá nào đó. Sự thay thế Triết học kinh viện của nhà thờ Cơ Đốc bằng các tư tưởng tiến bộ, những thành tựu khoa học thì cũng phải trả bằng những cái giá không hề nhỏ. Đó là sự cầm tù, xử tử, giam lỏng của giáo hội đối với các nhà khoa học.c. Các phát minh vĩ đại trên các lĩnh vực Toán học, Vật lý học và Thiên văn học và các lĩnh vực kháci. Lĩnh vực Toán họcTrong các lĩnh vực khoa học, Toán học đóng một vai trò hết sức quan trọng, đó là cơ sở để tính toán và đưa ra các chỉ số chính xác cho các ngành khoa học khác như thiên văn học, Vật lý học,… Và cũng có thể nói, chính từ sự phát triển của các ngành khoa học nói trên mà các kiến thức Toán học đã thu thập ví dụ như: Tychoo Brahe ở vương quốc Đan Mạch, đã thu thập được một lượng lớn các dữ liệu Toán học mô tả các vị trí của các hành tinh trên bầu trời. Học trò của ông người Đức Johanes Kepler bắt đầu sử dụng các dữ liệu này và ông đã thành công trong việc lập công thức Toán học cho các định luật của chuyển động hành tinh, John Napier ở Scotland , là người đầu tiên nghiên cứu logarit tự nhiên. Và khi nói đến những thành tựu Toán học thời kì này, thì không thể không kể đến nhà bác học vĩ đại người Pháp và cũng như khi nói về lịch sử phát triên của nhân loại trong mấy ngàn năm thì không thể không kể đến Descartes. Ông không những là nhà Triết học vĩ đại, khai sáng cả một nền Triết học cận đại mà ông còn được mệnh danh là cha đẻ của môn hình học giải tích mà theo một số người, hình học giải tich là nguồn gốc của Toán học hiện đại.Đóng góp quan trọng nhất của Descartes với Toán học là việc hệ thống hóa hình học giải tích, hệ các trục tọa độ vuông góc được mang tên ông. Ông là nhà Toán học đầu tiên phân loại các đường cong dựa theo tính chất của các phương của các phương trình tạo nên chúng. Ông cũng có những đóng góp vào lí thuyết về các đẳng thức. Descartes cũng là người đầu tiên dùng các chữ cái cuối cũng của bảng chữ cái để chỉ các ẩn số và dùng chữ cái đầu tiên của bảng chữ cái để chỉ các giá trị đã biết. Ông cũng đã sáng tạo ra hệ thống kí hiệu để mô tả lũy thừa của các số [chẳng hạn trong biểu thức x2]. Mặt khác, chính ông đã thiết lâp ra phương pháp gọi là phương pháp dấu hiệu Descartes, để tìm số nghiệm âm, dương của bất kì phương trình đại số nào.Những đóng góp của Descartes đối với ngành Toán học nói riêng và khoa học nói chung là hết sức to lớn. Descartes là nhà Toán học đầu tiên của nhân loại đưa ra phương pháp xác định tọa độ 1 điểm bằng hệ trục vuông goác mà chúng ta đều đã quen biết với tên gọi “Hệ tọa độ Descartes”. Descartes đã chứng tỏ được khi một điểm chuyển động vạch nên 1 đường thì mối quan hệ giữa các tọa độ x, y của nó thể hiện bằng f[x,y]= 0. Ý tưởng vĩ đại này sản sinh ra môn hình học giải tích. Triết học gọi đây là mối quan hệ biện chứng trong Toán học.Từ khi có hình học giải tích, việc nghiên cứu hình học đã qua được một chặng đường dài phát triển. Vinh quang mà người đời dành cho Descartes là ở phương pháp luận nghiên cưu khoa học mà ông thể hiện tiêu biểu chính là hình học giải tích.Nhưng Descartes là nhà Triết học - nhà bác học. Ở bình diện này một lần nữa, thời Phục Hưng lại thể hiện vai trò gợi mở của mình đối với thời cận đại bằng cách làm sống lại hình ảnh của Euclide và Achimedes. Vào thế kỉ XVII, nếu không có khoa học tự nhiên được Toán học hóa thì khoa học thật khó đạt được hiệu quả thực tiễn, nghĩa là nó từng bước trở thành lực lượng sản xuất. về phần mình Toán học hóa khoa học tự nhiên thật khó thực hiện mà không cần đến tiến bộ trong chính ngành Toán học. Descartes là người đi tiên phong trong việc xác lập Toán học hiện đại, với những kí hiệu x, y, z mà hiện nay chúng ta không hề xa lạ. Khái niệm đại lượng biến thiên cho thấy mối quan hệ giữa con số và đại lượng trong Toán học mới. Descartes – một trong những tác giả môn hình học giải tích, với sự thống nhất các đại lượng hình học và số học.Mặc dù là một tín đồ Thiên chúa giáo, song hoạt động khoa học của Descartes khiến cho nhà thờ đưa các công trình của Descartes vào danh mục sách cấm đối với những người theo đạo Thiên chúa, sáu năm sau vua Louis XIV ra lệnh cấm giảng chủ nghĩa Descartes tại khắp các vùng lãnh thỗ nước Pháp. Đó là do giáo hội đã khiếp sơ những cơ sở Toán học của Descartes giúp cho ngành khoa học khác tấn công lại giáo lí của nhà thờ. Sự ngăn cản này, càng chứng tỏ sức mạnh khoa học có thể lật thổ là đào thải bất cứ ai dám đi ngược lại sự phát triển của quy luật.Những đóng góp của nhiều thế hệ các nhà Toán học thời kì văn hóa Phục Hưng, trong đó tiêu biểu nhất là Descartes đã giúp cho Toán học có những bước tiến lớn và đạt được nhiều thành tựu. Thành tựu ấy lại quay trở lại thúc đẩy các ngành khoa học khác cùng phát triển để đưa lịch sử nhân loại bước sang thời kì mới.ii. Lĩnh vực Vật lýTrong quá trình tiến lên bậc thang của nền văn minh nhân loại thì không thể không kể đến những phát minh của ngành Vật lý học. Đây là một trong những ngành có đóng góp lớn cho sự sụp đổ tăm tối và lạc hậu ở châu Âu thời kì trung đại. Những đóng góp đó phải kể đến công lao tạo ra nền tảng to lớn của nhiều thế hệ của các nhà khoa học từ thời cổ đại như: Aristotle, Plato, Archimedes… nhưng để tạo ra một cuộc cách mạng thật sự ở thế kỉ XVI - XVII, thì phải kể đến những nhà khoa học tiêu biểu như Galileo Galilei, Torixenli …Galilei là một nhà bác học nổi tiếng thế giới là điều không thể bàn luận. Nhưng những gì mà nhà bác học này đóng góp cho sự phát triển của nhân loại thì không phải ai cũng biết.Galilei sinh năm 1564, ông là người Italia. Ngay từ lúc nhỏ bản thân ông đã thể hiện những tư chất thông minh và có nhiều câu hỏi đặt ra mà không mấy ai có thể trả lời được. Đến năm 13 tuổi, ông được đưa tới học ở Florenxơ, nhưng với bản tính hiếu động và tìm kiếm cải mới của mình, Galilei đa không thích thú gì với những lời giảng của các giáo sư trên giảng đường. Bởi vì một lí do đơn giảng phần lớn Tây Âu đang đắm chìm trong chủ nghĩa kinh viện và các thầy giáo dạy Galilei cũng không nằm ngoài chủ nghĩa đó. Họ muốn đạo tạo ông trở thành người ngoan đạo và phục vụ nhà thờ. Mặc dù không thiết tha gì với những lời giảng đó nhưng ông vẫn ở Florenxơ bởi vì ở đó có phong cảnh đẹp và quan trọng hơn thì nơi đây có những thư viện lớn rất nhiều tài liệu để có thể khiến giải được nhiều vấn đề mà ông đang quan tâm. Tới năm 17 tuổi, ông thi đạt kết quả xuất sắc và được vào học tại trường học Y khoa Pisa. Trong thời gian học ở đây, ông là một sinh viên có năng lực, có suy nghĩ với những kiến giải độc lập và thể hiện rõ tư chất của một người làm khoa học đó là luôn luôn đi tìm kiếm châm lí và kiên trì bảo vệ chân lí. Chính vì vậy mà ông luôn đặt các thầy giáo của mình vào tình thế phải giải quyết những vấn đề mà ông hay đặt ngược lại. Trong xã hội có nhiều hạn chế và cũng có nhiều vấn đề chưa được giải quyết một cách thảo đáng như vậy, và với bản tính của mình thì Galilei đã phải gánh những hậu quả đầu tiên trong quá trình làm khoa học. Đó là năm 1585 ông đã buộc phải rời trường Pisa mà không được cấp bằng. Tuy nhiên, trong thời kì tự học ông đã tích lũy một lượng kiến thức phong phú mà bạn bè thường gọi ông là “Archimedes đương đại”. Ông tìm thấy những tri thức Toán học và lực học phong phú. Một số thí nghiệm của Archimedes đã thu hút được ông. Trong quá trình học Pisa ông phát hiện ra chu kì dao động con lắc. Và chính sự phát hiện này đã giúp ông chế tạo máy đo mạch đập. Ngày nay chúng ta có thể dùng đồng hồ đeo tay để đo đếm mạch đập của con người. Nhưng vào thời bấy giờ với phát hiện này đã được coi là một phát minh lớn trong việc khám bệnh con người.Cũng chính từ việc phát hiện chu kì dao động con lắc mà ông tiếp tục có một đóng góp nữa cho sự phát triển của nhân loại, đó chính là lập ra bản vẽ, thiết kế ra đồng hồ quả lắc và thuyết minh chi tiết cho bản vẽ đó. Sau này thì có một người Hà Lan dựa vào đó và đã chế tạo ra được chiếc đồng hồ hoàn chỉnh. Đó là chiếc đồng hồ đầu tiên trên thế giới được gọi là “đồng hồ Galilei”.Quá trình nghiên cứu các thí nghiệm của Archimedes đã giúp cho Galilei trở thành Giáo sư nổi tiếng và được mời quay lại trường Pisa nơi mà ông đã học ở đó. Đó chính là nghiên cứu thí nghiệm kiểm tra chiếc vương miện của Archimedes. Từ thí nghiệm này ông đã nghiên cứu tới việc ứng dụng kết quả thí nghiệm đó trong nghiên cứu tính chất lực học và Vật lý của hợp kim. Không lâu sau, Galilei thông qua xác định trọng lượng củ vật thể trong nước mà có choáng chỗ, ông phát minh ra loại cân tỉ trọng, có thể dễ dàng biết được tỷ trọng của các hợp kim. Ông đã viết một luận văn giới thiệu nguyên lí, phương pháp sử dụng loại cân đó. Rất nhiều nhà Toán học đã ca ngợi luận văn của Galilei. Nhưng vào năm thứ hai sau khi trở lại trường, với luận văn có tựa đề “Bàn về trọng lực”, lần đầu tiên nêu ra định luật rơi tự do của vật thể. “Vật thể bất kể to hay nhỏ, nặng hay nhẹ thế nào, trong quá trình rơi tự do, nếu không kể tới ảnh hưởng của sản sinh do lực của không khí, thì tốc độ rơi của chúng hoàn toàn như nhau”. Điều này đã phủ định nguyên lí của Aristotle là: “Vật thể càng nặng thì rơi càng nhanh”.Hành động dám tuyên chiến với “thánh nhân” này đã gây xôn xao lớn trong trường Pisa, những người theo trường phái Aristotle đã công kích mạnh mẽ: Hoàn toàn là nói láo, Aristotle làm sao sai được? Làm sao có thể như thế được. Để có thể loại bỏ được những quan điểm sai lầm của tiền nhân và mở đường cho những quan điểm mới, tiến bộ và đứng đắng hơn thì Galilei đã chứng minh quan điểm của mình bằng cách tiến hành thí nghiệm cho tất cả mọi người trong đó có cả tín đồ của Aristotle. Địa điểm chọn đó là ở tháp Pisa. Nhưng trong khi chuẩn bị tiến hành thí nghiệm thì những người ủng hộ Aristotle vẫn không ngừng lên tiếng phản đối: “Học thuyết của Aristotle tiền bối tuyệt đối đứng không thể sai”. Nhưng khi Galilei tiến hành thì nghiệm với hai quả cầu một là 10kg hai là 1kg. từ trên đỉnh tháp, Galilei đã cùng một lúc buông tay hai quả cầu và sau giây lát thì hai quả cầu cùng rơi xuống một lúc. Và chiến thắng đã thuộc về “tên tiểu tốt”. Thành công này đã đánh đổ kết luận của Aristotle mà mấy ngàn năm qua không ai dám hoài nghi, chỉ luôn miệng nói đó là “chân lí”.Với thành công này đã tiếp tục bắn thêm một viên đạn không nhỏ vào bức tường thành của giáo hội. Nhưng nó cũng làm cho Galilei gặp những rắc rối trong cuộc sống của mình. Đó là giáo hội đã với thế lực chính trị của mình đã không thừa nhận thành công của Galilei mà cho rằng ông dung “ảo thuật” để lừa bịp mọi người. Và trước sức ép của những người theo Aristotle, Galilei đã tức giận và từ bỏ chức vụ giáo sư ở Pisa.Sự rời bỏ này Galilei gặp phải rất nhiều khó khăn, gia đình lâm vào túng quẫn. Như vậy chúng ta thấy rằng những người tiên phong trong các lĩnh vực nghiên cứu khoa học luôn phải đối đầu với mọi khó khăn của các thế lực cản trở nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Tuy nhiên thì một giai đoạn sau, với những kiến thức uyên bác củ mình, ông được một người bạn giới thiệu sang dạy toán ở trường đại học Padua với chức danh giáo sư.Việc ông sang Padua làm việc đó là một cơ hội tốt cho tài năng của ông phát triển. Bởi vì ở đây có một lượng sách báo phong phú hơn tất cả những nơi khác và điều quan trọng là nơi đây không chịu sự kiềm tỏa của tòa thánh La Mã.Trong một môi trường như Padua với kiến thức uyên bác của mình, ông đã trở thành người nổi tiếng. Những giờ giảng của ông thì sinh viên luôn ngồi chật cứng giảng đường. Trong quá trình sinh sống ở đây, ông vừa giảng dạy vừa nghiên cứu khoa học và ông tiếp tục có những nghiên cứu về lực học. Trong quá trình nghiên cứu của mình, ông phát hiện một hiện tượng rất quan trọng trong Vật lý: Quán tính của vật thể khi chuyển động. Ông đã tiến hành ở đó thí nghiệm chuyển động của vật trên mặt phẳng nghiêng. Cũng từ chính sự nghiên cứu của mình ông là người đưa ra khái niệm về “gia tốc” đầu tiên à hoàn toàn chính xác. Vào năm 1593, ông phát minh ra chiếc nhiệt kế không khí đầu tiên để đo thân nhiệt cho người bệnh, đây cũng được coi là bước tiến lớn trong y học thời bấy giờ và công lao thuộc về Galilei.Năm 1600, khi ông đang làm việc tại Padua thì xảy ra một sự kiện làm chấn động thế giới lúc bấy giờ. Đó là nhà Triết học nổi tiếng của Italia là Bruno bị giáo hội La Mã xử tử trên giàn thiêu ở quảng trường La Mã. Sự kiện này đã làm cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học của Galilei chuyển hướng. Bởi vì ông cũng là một “tín đồ” trung thành của Copernicus, nhưng lúc đó ông vẫn chưa dám công khai biện hộ cho Bruno bởi vì đơn giản là những kiến thức của ông về thiên văn học chưa đủ để có thể bảo vệ được quan điểm của Copernius trước tòa án giáo hội nhằm bảo vệ cho Bruno. Chính vì vậy, từ đây ông đã chuyển hướng từ nghiên cứu lực học và Vật lý sang những vấn đề của vũ trụ học. Ông đã tiến hành nghiên cứu để phát triển hơn nữa học thuyết của Copernius.Sống để cống hiến sức mình cho khoa học. Và đến năm 1640, được sự giúp đỡ của một học sinh ông đã hoàn thành tác phẩm cuối đời của mình “ Phép tắc của chuyển động”. Đây là tác phẩm cuối cùng của ông và tổng kết tất cả những gì về Vật lý mà ông đã dày công nghiên cứu trong một thời gian dài. Đến năm 1641 thì tác phẩm này được xuất bản. Cả cuộc đời của Galilei là sự cống hiến không biết mệt mỏi cho khoa học. Trong tất cả các lĩnh vực ông đều có những đóng góp xuất sắc cho sự phát triển của thế giới. Trong lĩnh vực vật lý, ông đã đưa ra những chứng minh hùng hồn để đả phá những quan điểm bảo thủ, lạc hậu của giáo hội và mở đường cho ngành vật lý phát triển. Còn trong lĩnh vực thiên văn học, với sự kế tục xuất sắc thuyết nhật tâm của Copernicus ông đã đóng góp cho ngành thiên văn học nói riêng và khoa học tiến bộ của loài người nói chung những giá trị hết sức to lớn. Nó không nằm ngoài việc nhằm hạ bệ những quan điểm sai trái của giáo hội mà còn mở đường cho khoa học hiện đại phát triển theo hướng tự hoàn thiện mình hơn.Với những tuyên cáo hùng hồn trước tòa án La Mã, ông đã chứng tỏ được sức mạnh của khoa học và không có gì có thể ngăn cản được sự phát triển của nó. Bằng những đóng góp của mình cho sự phát triển của thế giới, ngày 08 tháng 01 năm 1642, cả thế giới đã thương tiếc tiễn biệt một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỉ XVII.[5]Sự thật đã chứng minh , quan điểm và những giá trị nghiên cứu khoa học của Galilei là hoàn toàn đúng đắn và chỉ có những người ngăn cản nó mới là sai lầm. Tuy nhiên với thế lực trong tay nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình. Tòa án giáo hội đã hùng hổ tuyên bố những giá trị khoa học của Galilei là sự yểm bùa, dối trá, lừa bịp và buộc ông phải từ bỏ những giá trị đó. Và lịch sử sẽ là tòa án công bằng nhất cho mọi vấn đề ,sự kiện xảy ra trong quá khứ. Cuối cùng lịch sử đã chứng minh cho Galilei là vô tội và ngày 10 tháng 01 năm 1979, giáo hoàng La Mã , trong một đại hội công khai đã chính thức thừa nhận việc xử tội Galilei hơn 300 năm về trước là không công chính, là “ định tội sai lầm”.Dù ông có chuyển hướng sang nghiên cứu lĩnh vực nào đi chăng nữa thì những kiến thức, những phát minh của ông trong lĩnh vực Vật lý cũng tạo ra những bước phát triển cho lịch sử nhân loại. Ông cũng đã chứng tỏ quan điểm của Aristotle – “hòn đá tảng” của Triết học kinh viện là không phải hoàn toàn đúng. Điều này nó có ý nghĩa rất lớn đối với thời bấy giờ. Thứ nhất, đó là các nhà khoa học đã có một cách nhìn mới về con đường khoa học của mình. Nếu như Triết học kinh viện nói: Tất cả đã có Aristotle giải quyết hết rồi, thì các nhà khoa học cũng không còn động lực để nghiên cứu và cũng không có sự hoài nghi – điều này giết chết công tác nghiên cứu khoa học chân chính. Nhưng bây giờ, với những thí nghiệm của mình, Galilei đã chứng minh, Aristotle không hoàn toàn đúng tuyệt đối. thứ hai đó là những phát minh của ông về Vật lý, lực học cũng đã tác động đến những ngành khoa học khác. Tiêu biểu như định lí của động học là cơ sở của động học cho Newton sau này. Và nhà Vật lý học nổi tiếng thế giới Anhxtanh cũng thừa kế và phát triển xuất sắc những nền tảng mà Galilei phát minh ra[3]. Điều này chứng tỏ, những phát minh của Galilei đã tạo được bước phát triển hết sức quan trọng cho nhân loại tiến dần lên bậc thang của văn minh.iii. Lĩnh vực Thiên văn học.Đây là một ngành có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Nó không chỉ có ở châu Âu mà còn có ở nhiều nước của các châu lục khác. Và những nơi khác nhau thì tên gọi và chức năng của ngành thiên văn học cũng có dôi chút khác nhau do quan điểm mỗi nước, mỗi khu vực về ngành khoa học này.Ở châu Âu, trong suốt thời kì trung đại ngành thiên văn học vẫn có một quan niệm hết sức sai lầm, đó là đi theo thuyết địa tâm do Plotemy khởi xướng và được giáo hội bảo vệ bằng Kinh thánh và họ cho rằng: “Thượng đế tạo ra Mặt Trời, Mặt Trăng bắt chúng chạy quanh Trái đất”, chính vì vậy mà nó đã thống trị châu Âu hơn 15 thế kỉ. Điều này không có nghĩa chúng ta đòi hỏi Plotemy phải đưa ra những quan điểm một cách chính xác hoàn toàn khi mà điều kiện về mọi mặt cho công tác nghiên cứu chưa cho phép. Và chính Galilei cũng đã đưa ra những nhận xét của mình về điều đó: “Sai lầm của Aristotle, của Plotemy, của các ngài và tất cả những người khác bắt nguồn từ quan niêm cứng nhắc, thâm căn về tính bất động của trái đất và các ngài không thể nào dứt ra được và cũng không có khả năng, ngay cả khi các ngài muốn đưa ra các tư biện về những hệ quả sẽ xảy ra trong trường hợp trái đất chuyển động”. Như vậy, những hạn chế và sai lầm ấy là tiền đề quan trọng cho các thế hệ những nhà khoa học sau này có điều kiện để giải quyết và giải thích một cách hợp lí hơn. Tuy nhiên điều đáng bàn là việc làm méo mó những quan điểm của tiền nhân do giáo hội thực hiện để làm công cụ thống trị cho mình suốt một thời gian dài. Giáo hội đã lợi dụng thuyết Địa tâm của Plotemy để củng cố sức mạnh của đức Chúa trời. Bằng quyền lực của mình, giáo hội đã ngăn cấm mọi quan điểm trái ngược lại với lợi ích của giáo hội và đó chính là bức tường ngăn cản sự phát triển của khoa học châu Âu trong suốt thời kì trung đại.Cùng với sự phát triển theo chiều hướng đi lên của nhân loại. Ở châu Âu bước vào những năm nửa sau của thế kỉ XIV, Cùng với sự phát triển của kinh tế và khoa học kĩ thuật, ngành thiên văn học đã có những bước phát triển với những quan điểm tiến bộ. Trong đó quan trọng nhất là quan điểm của Copernicus đưa ra đã làm lật đổ những quan điểm sai lầm của Plotemy mà giáo hội đã lợi dụng thống trị châu Âu trong 15 thế kỉ. Việc chống lại và lật đổ công cụ thống trị của giáo hội, đã mở ra một thời đại mới cho lịch sử nhân loại. Copernius đã tiếp bước các nhà khoa học đi trước và lịch sử sẽ ghi nhận công lao của ông trong việc tạo ra “mắt xích” tiếp theo để nhân loại tiến vào kỉ nguyên của khoa học kĩ thuật.Corpernius [1473-1543] là nhà khoa học Ba Lan. Ông là con trong một gia đình kinh doanh giàu có, học được học thiên văn lúc đầu ở trường đại học Tổng hợp Cracovi, sau ở Đại học Tổng hợp Bolonia [1486]. Năm 1500, ông đến Roma và tới học viện Curie ở Vatican. Được sắc phong cha đạo Frauenburg năm 1501, ông được phép tiếp tục học tập ở Ý và theo học ở Y khoa và khoa Luật của trường đại học Padua và ông vẫn tiếp tục thực hiện các công việc quan sát thiên văn. Năm 1503, ông được phong tiến sĩ luật nhà thờ ở Đại học Ferare. Năm 1504, ông trở về Waumic và từ đây việc nghiên cứu thiên văn trở thành niềm yêu thích nhất của ông.Trên cơ sở nghiên cứu nhiều năm về thiên văn học, quan sát các thiên thể, ông đã viết “Thuyết vận hành của các thiên thể”. Trong cuốn sách này, ông nêu ra “Thuyết Mặt Trời trung tâm”, phủ định luận điệu trong kinh thánh rằng: “Thượng Đế đã tạo ra Mặt Trời, mặt trăng, bắt chúng chạy quanh trái đất”, phủ định thuyết trái đất là trung tâm, lay đổ tận gốc vũ trụ quan thần học của Thiên cháu giáo. Từ đó bắt đầu tiến hành cuộc cách mạng trong thiên văn học, thay đổi về căn bản cách nhình của loài người đối với vũ trụ.Tuy nhiên, thuyết Nhật tâm không phải do Copernius là người đầu tiên phát hiện, mà nó đã có trước đó hơn 2000 năm. Những dấu vết về một mô hình Nhật tâm được tìm thấy trong nhiều bản Kinh Vệ Đà bằng tiếng Phạn được viết ở Ấn Độ cổ trước thế kỉ thứ 7 TCN: các cuốn Vệ Đà, Aitareya, Brahmana và Shatapatha Brahama. Bài luận Vishnu Purana bằng tiếng Phạn ở thế kỉ thứ 1 cũng viết kĩ về nhiều khái niệm Nhật tâm.Mô hình hóa sự phát triển của ngành thiên văn học: Công cuộc chinh phục khoa học đó là cả một quá trình của nhiều thế hệ các nhà khoa học. Những hạn chế của các thế hệ đi trước thì thế hệ đi sau sẽ tiếp tục bổ sung và phát triển. Nếu coi sự phát triển của định luật vạn vật hấp dẫn của Newton là khâu cuồi của dây chuyền các phát minh quan trọng và lý thú của thiên văn học. Thì khâu thứ nhất đó là lý thuyết của Copernicus đề suất – trái đất là một hành tinh xoay quanh Mặt Trời “ thuyết nhật tâm “. Tycho Brahe đưa ra khâu thứ hai, bằng cách tích lũy những quan sát hết sức chính xác về các biểu kiến của Mặt Trời và các hành tinh trên Mặt Trời. Dựa vào các bản do Tycho Brahe thành lập, Kepler và Galilei có sự trao đổi với nhau đã phát hiện ra những định luật quan trọng về các chuyển động của các hành tinh. Ông đã chứng minh rằng mỗi hành tinh chuyển động trên một quỹ đạo hình elip; tốc độ chuyển động tăng lên khi hành tinh đến gần Mặt Trời và thời gian cần thiết để hoàn thành một vòng quay xung quanh Mặt Trời phụ thuộc vào khoảng cách giữa hành tinh với Mặt Trời. Và Newton là người hoàn thành công việc cuối cùng của khâu dây truyền đó.iv. Các phát minh khácCùng với những phát minh của ngành khoa học nói trên thì ngoài ra còn có một số phát minh ở các ngành khoa học khác như : Y học , Sinh học Cũng đã góp công sức của mình vào việc đánh đổ những quan điểm bảo thủ, lạc hậu của giáo hội và mở đường cho lịch sử nhân loại bước sang thời kì mới – thời kì ứng dụng khoa học vào cuộc sống. Một trong những phát minh có giá trị đó là về ngành Y học.Trong khoảng 1500 năm trước khi có những phát minh vĩ đại của các nhà khoa học thời Phục Hưng thì những tư liệu giải phẫu sử dụng trong y học thực chất đều dựa trên cơ sở nghiên cứu động vật, điều đó không những thiếu tính chính xác mà còn gây ra những lý giải sai lầm, thế nhưng nó lại được coi là kinh điển. Và để khắc phục những sai lầm trong ngành y học về lĩnh vực giải phẫu [Do thực hiện trên động vật ] thì Andreas Vesalius là người đầu tiên kiên trì dựa trên các phương pháp khoa học giải phẫu, thí nghiệm sinh lí chính xác và quan sát trực tiếp để đưa ra học thuyết của mình. Tác phẩm Cấu trúc cơ thể người do ông biên soạn đã lần đầu tiên đưa ra nguyên lý về cấu trúc cơ thể người và chức năng sinh lí.Tác phẩm của Andreas Vesalius đã xóa bỏ sự thống trị suốt 1500 năm của học thuyết do Galen đưa ra từ thời Hy lạp cổ, đồng thời cũng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nền y học của nhân loại. Từ đó giới y học không còn dựa vào những suy đoán chủ quan mà căn cứ vào những cơ sở khoa học chính xác để tìm hiểu cấu trúc cơ thể người.Andreas Vesalius sinh năm 1515 tại Brussels, cha ông là một bác sĩ trong hoàng gia đã sưu tập được không ít những tài liệu quý giá về y học. Ngay từ nhỏ cậu, Vesalius đã bỏ ra rất nhiều thời gian để đọc các tài liệu đó, cậu vô cùng tò mò về các loài sinh vật, còn thường xuyên bắt các con vật nhỏ và côn trùng sau đó tập mổ chúng ra để nghiên cứu.Năm 18 tuổi, Vesalius đến Pari học Y học. Trong quá trình học tập môn giải phẫu người và động vật là một môn học rất đặc biệt. Khi bắt buộc phải thực hành giải phẫu thì giáo sư vừa giảng vừa có một người giết mổ gia súc đứng ra giải phẫu. Giao1 trình và tài liệu của sinh viên sử dụng đều được dịch từ tác phẩm nổi tiếng về cấu trúc cơ thể người do bác sĩ người Hy lạp Galen viết ra từ năm 50 TCNKhông lâu sau, người ta phát hiện ra Vesalius có trí thông minh hơn người nhưng rất kiêu căng và thích tranh luận với người khác. Trong giờ học thực hành giải phẫu lần thứ hai Vesalius đã lấy dao mổ trên tay người thực hành và tiến hành giải phẫu một cách rất thành thạo khiến cho tất cả mọi người có mặt ở đó đều không khỏi kinh ngạc.Vesalius trở thành người tiên phong trong những giờ học thực hành, ông nhờ bạn bè đi đến các lò mổ kiếm các bộ xương mang về để nghiên cứu, đi đến những nghĩa địa đào xác để thực hành giải phẫu. Vesalius bất chấp sự hung dữ của những con chó canh cổng, bất chấp mùi tanh thối của xác chết, ông tìm đến nghĩa trang Monfaucon ở Paris [ là nơi chôn cất các tử tù ] lấy xác các tử tù mới bị hành quyết đem về nghiên cứu.Năm 1537, Vaselius tốt nghiệp và chuyển đến học tiếp tại trường Padua ở Italia. Tại đây ông bắt đầu hàng loạt các buổi diễn giảng, mỗi lần như vậy ông đều tiến hành giải phẫu và làm thực nghiệm để cho mọi người tận mắt quan sát các bắp thịt, động mạch,cấu tạo các tổ chức thần kinh,tĩnh mạch và thậm chí các cấu tạo chi tiết bộ não người. Rất nhiều các sinh viên và giáo sư đến tham gia và họ đều cảm thấy bị hấp dẫn bởi kĩ thuật cùng phát hiện mới mẻ này của Vesalius.Tháng 1 năm 1540, Vesalius có buổi diễn giảng sôi nổi trong một nhà hát chật kín người ở Bologna của Italia. Cũng giống như bao nhiêu học viên khác, Vesalius được đào tạo phải trung thành với học thuyết của Galen đưa ra, thế nhưng ông luôn thắc mắc khó hiểu bởi vì kết quả thực tế do ông giải phẫu lại khác xa với những gì mà Galen đã miêu tả.Trong lần diễn giảng này, Vesalius đã tiến hành giảng giải về kết luận của Galen đối với xương đùi cong, tâm thất cùng các đốt xương ngực của người. Kết quả thu được là kết luận đó phù hợp với cấu trúc của loài vượn hơn là của con người. Vesalius đưa ra hơn 200 chỗ không thống nhất giữa kết luận của Galen và cấu trúc cơ thể thật của con người trên thực tế, đây là lần đầu tiên ông công khai chỉ ra những sai lầm trong kết luận của Galen về cấu trúc cơ thể người. Vesalius cũng nhiều lần chứng thực được tất cả căn cứ mà các bác sĩ Châu Âu dựa vào đều không phải là cấu

Video liên quan

Chủ Đề